Vị danh tướng của cách mạng
Cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Văn Tiến Dũng gắn liền với những trang lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Năm 1937 gia nhập Đảng Cộng sản Việt nam. Từ năm 1953 tới 1978 là Tổng Tham mưu trưởng của quân đội ta, và về sau là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tôi đã từng được thấy Đại tướng. Một lần vào ngày 3-5-1975 ở phi trường Tân Sơn Nhất, và một lần khác, trước đó rất nhiều năm, khi tôi còn nhỏ, tuổi học trò trước chiến tranh.
Bấy giờ tôi học Trường cấp hai Lý Thường Kiệt (gọi là trường Sinh Từ). Các bạn học của tôi phần lớn là con em những người thợ sắt và buôn bán nhỏ ở phường Kim Mã. Song lại có hai tiểu thư ở phố Hoàng Diệu, cùng là con gái của hai vị tướng hàng đầu. Võ Hạnh Phúc, con gái Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Văn Tuyết Mai, con gái Thượng tướng Văn Tiến Dũng.
Khác với thời bây giờ, tiểu thư con nhà nhưng hai bạn chẳng khác gì chúng tôi trong đời sống, học tập và sinh hoạt. Họ chẳng hề được các thầy cô đặc biệt ưu tiên ưu đãi gì. Điểm số cao thấp, được khen hay bị kỷ luật cùng một vị thế như mọi học trò khác. Và cả các vị phụ huynh cũng vậy, cũng phải đều ký sổ liên lạc, đi họp phụ huynh. Khi con cái có vấn đề gì, cũng phải tới gặp nhà trường theo giấy triệu tập.
Thường thì là bà mẹ của Mai đi họp phụ huynh cho Mai, nhưng cũng đôi lần đích thân Thượng tướng Văn Tiến Dũng. Một lần, tôi nhớ là vào ngày 22-12, Thượng tướng đã vào thăm lớp chúng tôi và nói chuyện (cũng giống như ngày nay các trường phổ thông thường mời các cựu chiến binh đến nói chuyện về Quân đội). Tôi nhớ là hôm ấy ông đã kể cho chúng tôi nghe cuộc chiến đấu đầu tiên trong đời ông. Một cuộc đọ súng thật sự xảy ra ở một làng ngoài thành Hà Nội. Bấy giờ là đầu năm 1945, ông vừa vượt ngục Sơn La về, bị mật thám vây bắt, ông đã nổ súng chống trả, bắn hạ một tên và thoát vây. Vì vậy ông bị Tây kêu án tử hình vắng mặt. Ông kể rất giản dị và rất hay cái cảm giác lần đầu tiên trong đời cầm trong tay khẩu súng ngắn, lần đầu tiên trong đời thực sự “tiến hành bạo lực cách mạng”. Ông nói ông đã thực sự trở thành người lính với ý nghĩa đích thực của nó từ cuộc chiến đấu đơn độc giữa trùng vây ấy. Tôi rất nhớ hình ảnh Thượng tướng ngày đó. Thanh mảnh, trẻ trung, giọng Hà Nội trầm ấm điềm đạm, hiền hậu và hóm hỉnh. Bấy giờ là năm 1963...
Mười hai năm sau đó. Mười hai năm đất nước trong cuồng phong lửa đạn. Hầu hết bọn con trai trong lớp tôi đều lần lượt lên đường chiến đấu, trở thành những người lính đích thực của cách mạng dưới quyền chỉ huy của ông. Rất nhiều người đã ngã xuống, một số người còn lại sau cuộc tấn công dứt điểm cuối cùng đã cùng ông đón nhận ngày Toàn thắng trên phi trường Tân Sân Nhất. Sáng mồng 3-5-1975, Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng đi duyệt đội ngũ Trung đoàn 24, Sư đoàn 10, trước giờ đón máy bay đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn và Bộ Chính trị từ Hà Nội bay vào. Đại tướng ngồi xe Jeep lùn, vận đồ Tô Châu, dép đúc, mũ cối. Ông nói: “Cách mạng đã thành công! Dân tộc đã chiến thắng! Cám ơn các đồng chí...”.
Ngoài cuốn hồi ký Đại thắng Mùa xuân, ông ít có trước tác, ông không phát biểu trên ti vi những ngày đại lễ, ông là vị tướng già trầm mặc. Nhưng nhìn ngày hôm nay và nhớ lại thời đại chiến đấu đã qua, anh em cựu chiến binh chúng tôi, đặc biệt là cựu chiến binh B3 không bao giờ quên tài thao lược của ông, tên tuổi, vai trò, tầm cỡ của ông trong lịch sử kháng chiến.
Không phải chỉ riêng ông vạch ra chiến lược tấn công mùa xuân 75, nhưng sự thật là đích thân ông đã chỉ đạo cuộc tấn công mùa khô năm ấy. Nếu không có tài thao lược tuyệt vời của Bộ Chỉ huy chiến lược, chúng ta chưa thể giành thắng lợi ngay trong năm 75. Cuộc chiến ác liệt sẽ còn kéo dài, máu xương của nhân dân và bộ đội sẽ còn đổ nhiều hơn nữa. Nếu không có đòn tấn công Buôn Ma Thuột cực kỳ tài giỏi, không có cuộc tốc chiến tốc thắng giải phóng Tây Nguyên, không có quyết tâm chiến lược giải phóng dứt điểm miền Nam ngay trong mùa khô 75, biết đâu chừng lịch sử thế kỷ XX đã không như ta thấy. Và số phận mỗi con người chúng ta, nhất là số phận các chiến sĩ sẽ như thế nào?
Tên tuổi của Đại tướng Văn Tiến Dũng cùng các vị danh tướng chỉ huy của Quân đội ta sẽ mãi mãi được ghi tạc vào lịch sử với tất cả niềm tôn kính và lòng biết ơn của toàn quân.
Văn Nghệ Trẻ, số 12, 2002, ký tên Bảo Ninh