Không có sự tối mật nào ngoài sự thật
Cách đây vừa tròn ba chục năm, chiến cuộc mùa khô 1972 bùng phát dữ dội. Từ tháng Ba 72 đến tháng Giêng 73, chiến sự diễn ra trên diện rộng khắp ba miền, cả Lào và Campuchia, với quy mô chưa từng thấy. Đấy có thể coi là thời kỳ khốc liệt nhất, có tính sống mái một mất một còn nhất trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương ba chục năm trời.
Với người nào từng trải qua thì diễn biến của mùa khô năm ấy cần gì phải liệt kê, ai mà có thể quên. Sau đòn mở màn Quảng Trị, quân ta tổng tấn công toàn miền: Tây Nguyên, đồng bằng Khu Năm, Lộc Ninh, Bình Long, đồng bằng Nam Bộ. Quân Sài Gòn đại bại trên khắp bốn vùng chiến thuật. Chiến lược Việt Nam hóa tan tành. Số phận của chế độ Thiệu đã kề miệng huyệt. Để cứu vãn cơ đồ đã vụn nát, chính quyền Nixon dốc gần như toàn lực sức mạnh quân sự Mỹ vào cuộc quyết chiến.
Người ta nói rằng năm ấy, sau bao nỗ lực điên cuồng nhất mà vẫn thất bại, tổng thống R. Nixon đã toan dùng cả tới bom hạt nhân, nhưng “may sao” y đã không dám. Người ta nói y dè chừng phản ứng của Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng, thiết nghĩ, vào cái năm 72 ấy, Nixon và Kissinger chẳng sợ bất kỳ một ai trên địa cầu này. Còn chúng ta thì chẳng thể cậy nhờ ai khác ngoài chính chúng ta, chúng ta cũng không hề trông cậy vào may rủi. Chính là tài thao lược, sức mạnh tấn công vũ bão và ý chí quyết chiến quyết thắng của quân ta đã khiến chính quyền Nixon, một chính quyền đặc biệt cuồng chiến và hung bạo phải run sợ, phải sụp đổ ý chí và cam chịu thất bại cuối cùng. Vả lại, thực ra thì trái bom hạt nhân đó, hay đúng hơn là nhiều trái như vậy, Nixon và Kissinger đã thẳng tay ném xuống đất nước này trong mùa khô ấy. Với hỏa lực giết người cường độ cao và mạnh tối đa, với số lượng và mật độ kinh khủng nhường ấy của pháo bầy, của bom B52 rải thảm, của bom bảy tấn, bom khoan, bom phát quang, bom bi, bom lade, bom thông minh... với những triệu triệu lít chất độc hóa học, với ý chí thảm sát và tận diệt cực độ hung tàn toan “đẩy dân tộc Việt về thời kỳ đồ đá”, chính quyền Nixon trên thực tế đã tiến hành một cuộc Thế chiến III trên đất nước Việt Nam nhỏ bé.
Hôm nay, chiến tranh đã lùi xa, đã hăm bảy năm rồi. Thế giới đã đổi thay rất nhiều, nước Việt Nam cũng vậy. Không muốn kể mãi, không muốn nhắc đi nhắc lại, hầu hết những người Việt Nam trong cuộc thực lòng chỉ muốn cuộc chiến tranh đã qua từ lâu rồi ấy đi vào quá khứ, trở thành lịch sử, trở thành kỷ niệm. Thế nhưng, ở Mỹ, những năm gần đây, nghĩa là nhiều chục năm sau kết thúc chiến tranh, như là chờ cho những người của thế hệ trong cuộc lùi dần vào hậu trường đời sống, các ông tướng ông tá, các ngài chính khách từng bị lên án là chịu trách nhiệm chính về tấn thảm kịch lại bắt đầu đua nhau khua môi múa mép, đăng đàn, viết báo, viết hồi ký. Có ông thì trắng trợn bịa đặt và xuyên tạc. Cũng có ông ra vẻ phục thiện, buồn bã ân hận, ra vẻ sẵn sàng nói lên sự thật, sẵn sàng thành tâm “bật mí” cho thế hệ trẻ nước Mỹ biết về những bí ẩn tày giời bị che đậy của chiến tranh Việt Nam. Giọng điệu khác nhau song cả ông trắng trợn lẫn ông khôn ngoan giống nhau ở chỗ muốn thuyết phục thiên hạ thời nay tin rằng: Mỹ không thua trong cuộc chiến (không thua trong toàn bộ cuộc chiến cũng như trong từng giai đoạn), Mỹ chỉ rời Việt Nam vì thấy cần như vậy, vì thấy cần theo đuổi những mục đích quan trọng hơn. Các vị đó còn muốn biện bạch rằng: Mỹ không sai, hoặc không hoàn toàn sai khi tiến hành chiến tranh. Tất nhiên, từng vị một (chẳng hạn, H. Kissinger) trong hồi ký đều nặng ý định khoe công trạng, tài ba, với cả thậm chí sự thiện chí và từ bi của mình.
Tuy nhiên, những ông Kít, ông Ních, ông Mác Namara, hay cả các ông tướng ông tá Sài Gòn có viết lách kể lể như vậy thì cũng sự thường tình, họ hy vọng có thể dàn dựng cho độc giả thời nay những vở kịch lịch sử kiểu Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Và không phải là không có người bị phỉnh. Ngay cả ở Việt Nam, một số ông nhà báo hoặc vô tình hoặc hữu ý đã giới thiệu với độc giả một cách “khách quan” những thứ tài liệu do Kít do Ních viết ra, xem đó là những “hồ sơ tối mật”, những trang lịch sử “vừa được công bố”, những “sự thật chưa ai từng biết” của chiến tranh.
Các nhân vật của chính quyền Nixon, nhất là H. Kissinger, đặc biệt thích “công khai hóa” những điều tối mật của thời kỳ 1972. Điều ấy dễ hiểu, bởi giai đoạn 71-72, Nixon và Kissinger đã đạt được những đột phá quan trọng về chính trị và ngoại giao, đã tiến hành những nước cờ dường như rất siêu hạng ở hậu trường cuộc chiến.
Chuyện đó thật ra chẳng có gì mới mẻ và kỳ thú để phải nói đó là một bí ẩn, là “tài liệu mật vừa được công bố” như nhiều báo ngoại quốc và vài tờ báo ở ta chạy tít. Ngay hồi đó, chúng ta đã thừa hiểu những cú du hành bí mật của Kissinger và những chuyến viếng thăm công khai của Nixon là nhằm mục đích gì. Chẳng qua đấy là Mỹ tiến hành những cuộc mặc cả chính trị. Tỏ ra ôn hòa, nhượng bộ ở một khu vực khác của thế giới để mong được rảnh tay giành thế thắng trên chiến trường Việt Nam. Chiến lược hay ho và hiểm độc ấy đã phá sản thảm hại thế nào mọi người đều rõ, chẳng có gì phải gọi là mới mẻ và tối mật.
Nhưng, trong cái gọi là “tài liệu mật mới được Mỹ công bố” cuối tháng Hai năm nay, mà một số tờ báo ở Mỹ, ở Nhật, và cả ở ta có trích đăng nội dung, quả là có những điều chưa từng nghe nói bao giờ. Chẳng hạn: “Trong cuộc viếng thăm bí mật tháng Bẩy năm 1971, Henri Kissinger đã tỏ rõ sự hăm hở muốn đưa cuộc chiến tranh Việt Nam đến sự kết thúc. Ông ta nói: dù có đàm phán hay không đàm phán với Bắc Việt Nam thì chúng tôi vẫn sẽ hiển nhiên đơn phương rút quân khỏi Việt Nam. Lại còn thế này nữa: “Chúng tôi coi chính quyền Nam Việt Nam là một chính phủ không được dân ủng hộ nên lập trường của chúng tôi là không duy trì nó. Chúng tôi rút đi, chính quyền ấy sẽ sụp đổ, nhưng chúng tôi không can thiệp...”
Thật là một tay Kissinger khôn ngoan, hiểu biết, đầy phục thiện và rất ôn hòa. Nếu quả là như vậy thì Mỹ đâu có thua ở Việt Nam, Mỹ thấy chính quyền Sài Gòn đáng ghét thì Mỹ không ủng hộ nữa, thế thôi. Và nếu quả là Mỹ hăm hở muốn kết thúc chiến tranh, lập trường của Mỹ là hiển nhiên đơn phương rút quân, thì cuộc tổng tấn công của Quân Giải phóng năm 72 là vô ích, không cần thiết. “Cái bí mật” và “cái sự thật lịch sử” mà Mỹ công bố và các nhà báo đăng tải nội dung chẳng phải là nhằm mục đích hướng độc giả thời nay đi tới kết luận đó sao?
Nhưng dù được một số nhà báo hưởng ứng thì đấy vẫn là một bí mật ngụy tạo, một sự thật láo toét.
Chẳng cần phải một nhà báo được học hành nhiều, chỉ là một người lính, một người dân thường Việt Nam cũng nhớ rất rõ rằng chính quyền Nixon chỉ chịu thất trận, rút quân sau khi đã dốc toàn lực, đã vận hết mọi kế sách và thủ đoạn mà vẫn vô vọng, không thắng được đà tấn công 72 của quân Giải phóng. Và trong thực tế Mỹ chỉ chịu khuất phục, từ bỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Sài Gòn vào giờ phút chính quyền đó hoàn toàn sụp đổ trong ngày 30-4-1975.
Thời gian có thể làm thay đổi tất cả, chỉ trừ sự thật lịch sử. Ba chục năm đã trôi qua, nhưng cuộc tổng tấn công mùa khô 1972 và ý nghĩa lịch sử của nó không gì có thể làm cho phai mờ. Đời sống hòa bình hôm nay chẳng do ai ban phát, chẳng nhờ từ bi và thiện chí của ai, chẳng bằng một cơ may nào do ai đưa tới, mà chỉ bằng vào trời bể máu xương của bộ đội và nhân dân đã đổ trong suốt bao nhiêu là mùa khô mùa mưa gian lao trên suốt dọc con đường kháng chiến dài lâu giành độc lập.
Văn Nghệ Trẻ số 14, 2002, ký tên Nhật Giang