Lắm thầy thì nhiều... “ Cải”
Chương trình cải cách mới toanh mà Bộ Giáo dục vừa cho vận hành được các ông hoạch định chương trình ngợi ca là vô cùng cải cách, chỉ tiến bộ theo hướng giảm tải, tăng thực hành; Ấy thế nhưng để được “giảm tải” thì toàn thể học trò lớp Một, những thân phận non nớt có may mắn hưởng trước thiên hạ cái sự hay mọi nhẽ của chương trình cải cách lại đã phải tựu trường từ ngày 15 tháng Tám, sớm hơn lệ thường,
sớm hơn các trò cấp trên chưa được giảm tải những hai chục ngày! Chừng đó ngày thì có là bao, thật vậy, nhưng 20 ngày là một con số cụ thể, một số đo tròn trịa chỉ ra rành rành sự vênh nhau giữa nói với làm. Tiếng Việt dù có bị cải mấy thì cải nhưng với người Việt bình dân “giảm” vẫn có nghĩa là bớt đi chứ không thể nào lại là tăng lên. Ngược đời như thế các ông giáo sư không sờn lòng chứ chúng sinh hẳn là phải nản và không thể nào không lo.
Có nhiều duyên do để xưa giờ người ta cho học trò được nghỉ hè ba tháng, mà trước tiên là bởi vì mùa hạ ở ta nóng nực oi bức lắm lắm. Hồi xưa chưa rầm rộ tranh đấu cho “Quyền trẻ em”, như bây giờ người ta vẫn hiểu ba tháng hè nghỉ ngơi vui chơi là lợi quyền của con trẻ, và người ta biết những tháng hè ấy là một nửa hạnh phúc thời thơ ấu của đời người. Giờ đây, trong cái nóng kinh người của tháng Bảy âm lịch, (thực ra còn sớm hơn thế nữa) thằng bé 6 tuổi đầu lại phải ì ạch tha cặp sách to đùng, nặng ngang cái ba lô lính, đội nắng tới trường, với triền miên các giờ học, môn học, với cả giờ ăn trưa, nghỉ trưa đều nguyên tại chỗ của mình, cả ngày, cả tuần, cả tháng, cả năm, năm này qua năm khác. Tất nhiên ngoài khoảng hơn chục ngàn căn buồng kiểu như vậy, ở Hà Nội cũng có những lớp học dễ thở hơn, thoáng mát hơn, song dù có được coi là kiểu mẫu tới mấy, chỗ của học trò dưới cái nắng nung thiêu mùa hạ vẫn cứ khổ, cứ nóng, cứ ngột và tù túng, không thể so được với văn phòng mát rượi điều hòa nhiệt độ của các quý Viện nghiên cứu, quý Trung tâm soạn thảo, quý Ban, quý Phòng của quý Bộ.
Tất nhiên người ta thấy lo sợ không phải chỉ vì cái lễ khai giảng trái khóay mà còn bởi nhiều sự tiến lùi giật cục khác nữa trong nội dung chương trình mới được tân trang và trong các bộ sách giáo khoa lớp Một và lớp Sáu vừa được đổi thay. Con cái người ta tựu trường để học cái chữ chứ đâu phải để làm “đối tượng” cho các cuộc thử nghiệm triền miên lê lết.
Thí nghiệm là việc cần thiết trước khi tiến hành cải cách, song đây là việc của vô số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ... trong vô số các cơ sở nghiên cứu mà Nhà nước và nhân dân đã dồn tiền của vào để trả lương và tạo kinh phí cho họ hoạt động và thăng tiến cùng những sự thí nghiệm ấy. Còn trẻ nhỏ học trò thì không phải chịu đựng sự thí nghiệm. Học sinh các cấp phải được nghiễm nhiên hưởng chương trình giáo dục tốt nhất, chí ít là tương xứng nhất với nền văn hiến, với trình độ tri thức của dân tộc mình. Người ta không được phép “mày mò, vừa làm vừa thử, sai thì sửa” đối với đầu óc và tâm hồn trẻ thơ. Thế nhưng cái gọi là cơ chế mềm, sai đâu sửa đó, lại có thể dễ dàng nhận thấy ở các trang sách giáo khoa cải cách với rất nhiều hạt sạn to tướng mà thời gian gần đây nhiều tờ báo đã nhặt ra...
Văn Nghệ Trẻ số 34, 2002, ký tên Nhật Giang