← Quay lại trang sách

Đành kính cẩn mà im đi chăng?

Mới đây, trả lời phỏng vấn báo chí có một Giáo sư đã có đôi lời đề cập trở lại cuộc bàn luận từng diễn ra khá là sôi nổi hồi năm ngoái về cái chữ “e” nổi tiếng của Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Một. Cuộc tranh luận ấy được Giáo sư nêu lên như một ví dụ về cung cách phê bình mà ông thấy là thiếu tính khoa học, quá vội vã và đầy định kiến đối với việc biên soạn sách giáo khoa cải cách và nói chung đối với công chuyện dạy dỗ văn chương chữ nghĩa trong nhà trường. Ngày trước người ta mở đầu đời học hành bằng “o”, bằng “a”, nay đổi sang dùng “e”, cũng được chứ làm sao, nào phải chuyện gì sai trái mà vội rối cả lên, náo động, chỉ trích, ý của Giáo sư là như vậy. Ý kiến ấy rất phải. Cứ ngẫm mà coi. Ở đời thử hỏi có bao nhiêu vị thực sự nhớ rõ hồi còn con nít mình đã được vỡ lòng từ con chữ nào?

Tuy nhiên, điều Giáo sư chỉ ra thì ngay bộ phận công chúng “phản đối chữ e” cũng dư biết. Người ta hiểu chứ. Miễn là đừng chữ “vê đúp” của ăng-lê thôi, còn đã chữ ta thì vỡ lòng từ chữ nào cũng có cái lý và cái hay của nó. Thậm chí nếu sướng lên các nhà cải cách có thể cho học trò tập vần từ chữ “ư” cũng được. Cứ gạo rồi cũng vào tuốt. Do vậy, mặc dù ý kiến của Giáo sư là đúng nhưng không trúng. Thiên hạ chỉ trích sự xáo trộn trình tự học vần trong sách giáo khoa cải cách không phải vì mù quáng khăng khăng rằng “a” hay hơn “e”. Thực ra quan niệm của những người không hài lòng với sự đổi chỗ tầm phào các con chữ hoàn toàn không khác gì quan niệm của Giáo sư. Chính vì nghĩ giống như ông mà người ta lên tiếng chỉ trích. Bắt đầu i tờ bằng chữ cái nào cũng được. Đúng. Vậy tại sao lại phải thay đổi? Nhằm mục đích gì? Cái giá mà trẻ nhỏ học trò và phụ huynh của chúng phải chịu vì cuộc “cách mạng” o e này có đáng không? Cái giá mà Nhà nước phải trả, tiền dân phải góp là bằng bao nhiêu mồ hôi nước mắt? Nước ta đã đột ngột trở nên quá giàu có rồi hay sao trong suy nghĩ của các nhà giáo dục? Thiết tưởng những câu hỏi ấy mới là đi trúng vào thực chất của vấn đề. Đấy mới thực sự là nỗi bực mình cùng sự ngao ngán của chúng dân mà văn giới và báo giới phải cấp thiết nói lên.

Cùng với chuyện về cái chữ e nổi tiếng ấy, Giáo sư lên tiếng than phiền về một tình trạng không đẹp, một thái độ xấu tính mà ông cho là có thật: do không ưa người có bằng cấp và học vị nên một số nhà văn, nhà báo đã lạm dụng báo chí làm diễn đàn bài bác công việc nghiên cứu học thuật và dạy dỗ văn chương của các Giáo sư. Trong số đó có cả học trò của ông. Ông coi những anh học trò cũ ấy là phản thầy, là Giuda. Chắc phải có những duyên do nhất định để Giáo sư than phiền, thậm chí nổi giận như vậy. Nhưng dù rằng vậy thì lời than phiền của ông cũng không trúng vào thực chất của vấn đề. Những người lên tiếng chỉ trích chương trình và cách thức dạy văn trong nhà trường hoàn toàn không phải vì đố kỵ và ghen ghét các thầy giáo soạn sách, dạy văn. Trái lại, những người ấy dám lên tiếng là bởi vì cũng như các thầy, họ yêu văn học, họ trọng trường lớp và chữ nghĩa. Tinh thần tôn sư trọng đạo không chỉ có nghĩa là sự khuôn phép. Tình thầy trò như là một cái nôi vậy, giúp hình thành và nuôi dưỡng biết bao phẩm chất tốt đẹp của con người, trong đó gồm cả ý thức dân chủ và lòng nhiệt thành với tự do tư tưởng.

Tuy các thầy là những nhà chuyên môn và có trách nhiệm trực tiếp đối với công cuộc dạy văn trong nhà trường, nhưng bởi giáo dục văn học là một phần máu thịt của nền văn học nên các nhà văn, nhà báo cũng có trách nhiệm không nhỏ đối với hiện trạng của nó. Mà hiện trạng ấy như thế nào, kể ra thì khôn xiết, còn ai trên đời là không thấy. Không lẽ văn giới và báo giới lại có thể vì ngại ngùng đụng chạm mà đành kính cẩn im lặng?

Văn Nghệ Trẻ, số 35, 2003, ký tên Bảo Ninh