← Quay lại trang sách

Đừng dạy như thế

Mới đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành một cuộc thanh tra tối quan trọng. Thanh tra Bộ mang theo cân móc thân chinh xuống tận cửa các lớp Một lớp Hai để định lượng những cặp sách vẫn hàng ngày được học trò tiểu học gùi thồ trên lưng. Khá nặng! Không tới bảy ký như thiên hạ ước đoán, mà là ba ký rưỡi, bốn ký, bốn ký rưỡi, năm ký... Dĩ nhiên, trong cặp không chỉ có sách vở, mà còn bánh, còn kẹo, còn lọ nước, còn bi ve nữa, các ông thanh tra nhận thấy như thế, nhưng các ông ấy vẫn thừa nhận đúng là hơi quá tải. Thật là một phát hiện mới mẻ và lớn lao. Một sự nhìn thẳng vào sự thật đầy can trường của cấp Bộ.

Hơi quá tải một chút, thật thế, song có sao đâu, các vị phụ huynh chẳng nên lo quá, nêu không muốn nói rằng nên vui. Chẳng phải là theo biện chứng pháp thì lượng sẽ biến thành chất hay sao. Lượng cứ nhiều lên mãi, cứ tích nặng, dồn ứ lại ắt sẽ dẫn đến thay đổi về chất. Có lẽ chính trọng lượng ngày càng thêm đáng nể của cái cặp là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy cải cách. Cải cách để nâng “mặt định tính” của cái cặp lên ngang tầm với “mặt định lượng” của nó.

Tuy nhiên, đấy là đoán mò nói chơi vậy thôi. Muốn mục sở thị, bạn hãy xin phép được mở cặp một cậu học trò lớp 2, lớp tiền phong của cuộc Tái cải cách bắt đầu từ năm ngoài và lấy ra một cuốn sách giáo khoa, thí dụ cuốn Tiếng Việt lớp 2 in tháng Sáu năm 2003, lật xem, bạn sẽ thấy lượng to chưa chắc chất đã ra gì. Con cái chúng ta dường như là đang phải thồ trên lưng một ba lô chất nặng những điều “bất cập”.

So với cuốn Tiếng Việt lớp 1 thì cuốn của lớp 2 còn đáng kêu trời hơn. Bạn hãy chọn, chẳng hạn phần học kỳ hai của niên khóa, tức là cuốn tập 2. Bạn nghĩ gì khi xem mục lục? Sách được phân trước tiên theo chủ điểm. Như thế này: Bốn mùa, tiếp đến Chim chóc, rồi Muông thú, nữa là Sông biển, nữa Cây cối... và tiếp tới Bác Hồ, cuối cùng Nhân dân. Có cái hợp lý cao siêu và bí ẩn nào trong cái trật tự ấy vậy? Xem cụ thể hơn, thí dụ phần chủ điểm Nhân dân, Nhân dân là gì? Chắc là phải với tư duy trẻ thơ, chứ đã học lên cao hơn thì hoặc không thể hiểu, hoặc phải liên tưởng vòng vo đủ cách mới hiểu những bài tập đọc trong chủ điểm này có can hệ thế nào tới Nhân dân. Tỷ dụ bài Đàn bê của anh Hồ Giáo (tr.137). Quả là có một tý tỵ nhắc tên anh Hồ Giáo, và anh Hồ Giáo là một phần của Nhân dân, thật vậy. Nhưng nội dung của bài ấy về cơ bản là tả đàn bê! Đấy chỉ một trong nhiều ví dụ mà phụ huynh và bạn đọc đã nhặt ra trong sách. Còn nhiều lắm. Chẳng hạn bài tập đọc ở ngay phần đầu sách: Thư Trung Thu (trang 9).

Đập ngay vào mắt là bức tranh minh họa. Sao người ta lại có thể để cho học trò nhỏ chiêm ngưỡng một bức hình Hồ Chủ tịch được vẽ một cách, nói nhẹ nhất là chiếu lệ như thế? Trong tranh vẽ ấy không phải là Bác Hồ. Có cảm giác không phải họa sĩ mà là các quý ông soạn bài tập đọc ấy đã đích thân hý hoáy vẽ vời cho qua chuyện. Hay đấy là một chủ trương: ngô nghê hóa thẩm mỹ của lứa học trò đang tập đọc? Dù có vậy chăng nữa cũng nên tránh áp đặt kiểu vẽ vời ấy lên hình Bác Hồ (trong Tiếng Việt 2 cải cách tất cả những hình vẽ Bác Hồ đều một kiểu được chăng hay chớ đó).

Thư Trung Thu, được ghi trong ngoặc là trích. Nhưng chẳng ghi trích từ đâu, trích của bài nào. Hay là trẻ nhỏ tiểu học thì không cần phải biết điều đó? Trong bao nhiêu năm qua, học trò cấp một thời nào cũng được học, được tập đọc Thư Bác Hồ gửi các cháu thiếu nhi nhân Tết Trung Thu. Đấy gần như là bài học đầu đời của mỗi trẻ học trò về Bác Hồ. Vì vậy là một bài rất quan trọng, các thầy rất chú tâm, sách giáo khoa cũng soạn rất kỹ lưỡng, cẩn trọng từng chữ. Hồi trước, các thầy đặc biệt giảng kỹ câu: “Mỗi năm, đến Tết Trung Thu, Bác càng nhớ các cháu...”. Các thầy giảng rằng, “đến Tết Trung Thu, Bác càng nhớ các cháu”, có nghĩa Bác bao giờ cũng thương nhớ, cũng luôn luôn nghĩ đến các cháu chứ không phải chỉ khi Trung Thu tới. Dạy như vậy mới thực là giúp học trò thấm thía tình cảm của Bác, đồng thời cảm được văn phong của Bác, cách dùng chữ của Bác.

Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 cải cách nêu câu hỏi: “Mỗi Tết Trung Thu, Bác Hồ nhớ tới ai?”. Câu hỏi ấy bộc lộ một sự nông cạn về tình cảm, về văn chương và ngữ pháp tiếng Việt của những người soạn Tiếng Việt 2. Không hiểu được chữ “càng” của Bác thì mới đặt câu hỏi như vậy, mà đã không hiểu nổi chữ ấy sao lại được phép dự phần vào biên soạn sách giáo khoa?

Còn biết bao nhiêu ví dụ khác nữa, những hạt sạn từ nhỏ tới to đùng không thể nhặt xuể trong một cuốn sách giáo khoa cải cách mới cứng, nghĩ mà xót tiền dân, mà thương con trẻ.

Không xót sao được. Nên nhớ ngành Giáo dục - đào tạo luôn được đầu tư cực kỳ lớn. Năm 2000, mức đầu tư cho giáo dục là 15% ngân sách, 2001 là 15,6%, 2002 là 15,8%, 2003 đạt 16%, năm 2004 dự kiến 17,1% tổng chi ngân sách.

Chỉ dự án nhỏ thôi, Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (không được đi học, bỏ học, lưu ban) mà tổng kinh phí đã là 247,34 triệu USD cho 5 năm (phần lớn là tiền vay nợ). Như vậy, có thể hình dung chi phí cho cải cách sách giáo khoa còn lớn đến chừng nào.

Văn Nghệ Trẻ, số 45, 2003, ký tên Nhật Giang