Sau chiến tranh, chúng tôi viết văn
“Viết văn thực chất là giải bài toán tối ưu”. Một nhà văn đã nhận định vậy trong một bài báo đăng ở tờ Tia sáng Tết Nhâm Ngọ. Giải bài toán tối ưu!
Nói thì hay và lạ nhưng viết thì ít cái gì hay cái gì mới. Gần đây, nhà văn nước mình một số người đã lâm vào nghịch lý ấy. Thực ra không phải nghịch lý mà là một cái bẫy, một nông nỗi oái oăm: nhiều lý sự cho nên không sáng tạo được, sáng tạo không được cho nên nhiều lý sự.
Kinh nghiệm cho thấy hầu hết những nhà văn hàng đầu không ưa đăng đàn bàn chuyện văn chương. Chẳng bao giờ nghe các nhà văn ấy họ lý sự hay là lên lớp ai về quan niệm này, lý thuyết nọ. Nhà tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu thậm chí còn quan niệm rằng người ta viết văn không theo và không xuất phát từ một lý thuyết với chủ nghĩa nào cả, viết là viết, tự nó, vậy thôi. Một sự không cưỡng được, gần như chẳng đừng được mà người ta viết.
Nguyễn Minh Châu không chỉ sợ tật hay nói, hay xướng ngôn, ông còn kỵ cả cái sự cố công ngẫm nghĩ, vày vò đầu óc để ra chữ ra nghĩa. Ông không ưa những đề cương truyện ngắn và tiểu thuyết của học trò trường Nguyễn Du, đề cương càng tỷ mỉ và chi tiết thì càng đáng chê. Văn học chứ có phải toán học đâu, ông bảo vậy, càng không phải là kế hoạch sản xuất hay là phương án tác chiến, để mà tính toán, dự trù, để mà bày binh bố trận. Ông cho rằng người ta không thể nghĩ ra văn, dù là nghiền ngẫm nghĩ ngợi đến đâu cũng không thể, người ta chỉ có thể viết khi “văn” của người ta đã đến độ buộc người ta không thể không viết. Và cái gọi là “văn” ấy là tất cả những gì nhà văn đã sống, đã biết, đã thấu. Theo ông, vì ở vào cái thế “bị động”, “buộc” phải viết ấy, nên khi đã viết, nhà văn chẳng những không thể bám víu vào một lý thuyết hay một quan niệm viết lách nào mà còn không thể so đo sự hay sự dở của những dòng đang viết. Hay dở là chuyện bàn sau, là do độc giả.
*
Những điều mà nhà văn bậc thầy Nguyễn Minh Châu dạy có thể là không còn hợp thời. Ông mất năm 1988, đã hơn mười năm rồi.
Ngày nay các nhà văn có thể đã ở thế chủ động hơn. Có nhiều chữ nghĩa hơn, nhiều phương tiện để làm văn hơn. Có thể nghĩ ra văn. Có thể học được cách viết. Có thể nắm được sự đời qua các dữ liệu truyền thông được cập nhật. Có thể vẽ ra cuộc sống theo ý mình muốn. Có thể lập trình, tìm đường hướng và đáp số tối ưu cho tác phẩm. Nhưng với những người đã qua thời thanh niên trong chiến tranh và về sau đã vào nghề văn trong những năm đầu Đổi Mới thì điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói ở trên không chỉ là lời dạy mà còn như là một sự khái quát, một sự thâu tóm cuộc đời, số phận và nghiệp văn của toàn thể thế hệ họ.
Hầu hết những nhà văn từng là lính trong chiến tranh rất ít ai có chủ định trở thành nhà văn. Không ai xuất thần viết văn lúc còn tuổi học trò. Những năm đang là bộ đội cũng không viết. Không nghĩ đến, có nghĩ đến cũng không thực hiện nổi trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và gian khổ. Nghĩa vụ, lương tâm, danh dự, sức lực, tâm huyết của người lính là chiến đấu chứ không phải là lọ mọ với chữ nghĩa. Tuy nhiên, mặc dù không phải đất của nghề văn, cuộc sống chiến hào lại là môi trường sinh ra nhiều nhất các nhà văn. Có thể nói không gian bi hùng của cuộc kháng chiến là không gian đậm đặc nhất tính văn học. Không một đời sống nào giàu tính nhân văn hơn đời sống trong chiến tranh. Không một đoạn đời nào mà số phận và bản tính con người ta trải qua nhiều bi kịch và chịu nhiều thử thách như là thuở còn cầm súng. Vì vậy, khi đã có một độ lùi thời gian nhất định để trở thành quá khứ thì ký ức chiến tranh sẽ như là một với văn học. Thậm chí, tôi hoàn toàn tin rằng ngay trong ngày hòa bình đầu tiên, mỗi người lính vừa ra khỏi chiến tranh đều có trong mình nội lực một nhà văn. Chỉ có điều người thì đến ngay với văn chương, người thì không đến ngay, người quyết định viết ra, người thì giữ mãi trong lòng.
Tất cả những cây bút xuất thân từ trận mạc ấy không viết văn vì tiền tài danh lợi mà là vì cuộc chiến tranh đã qua buộc họ phải viết. Nếu không từng là chiến sĩ, không trực tiếp trải qua lửa đạn chiến tranh chống Mỹ thì Thái Bá Lợi, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh, Lê Minh Khuê... sẽ không là những nhà văn. Nghề văn đối với họ như là một sự tiếp tục cuộc chiến đấu trong hòa bình. Bởi sự thôi thúc mạnh mẽ từ đáy lòng, các tác giả thuộc thế hệ nhà văn ấy viết không câu nệ lý thuyết, thủ pháp, không cầu kỳ tính toán đường đi nước bước, không quan tâm thiên hạ phẩm bình hay dở, thậm chí không lựa cả sức mình. Nhưng ngay cả sự không nổi tiếng, không được đánh giá cao, không được thừa nhận, ngay cả sự thất bại cũng không ngăn được sự thôi thúc, sự vật vã như là tiếng gào thét triền miên tự tâm hồn đòi hỏi người lính của chiến trường xưa phải viết. Thiết tưởng đấy mới thực là bản chất của nghề văn. Thành hay không thành, có tiếng tăm hay không tiếng tăm chẳng quan trọng gì, quan trọng là sự ham muốn, ham muốn mãnh liệt, ham muốn tột bậc phải viết, đấy mới thực là một nhà văn.
Không có lý thuyết sách vở mà chọn nghề văn, không khởi nghiệp từ các loại bằng cấp, không viết văn để mong thành nhà văn, chỉ vì cuộc sống và từ cuộc sống chính bản thân mình đã trải qua cùng đồng đội, bằng vào máu thịt của mình, nhiệt tình của mình mà viết, các nhà văn của thế hệ cầm súng không thèm muốn vươn tới những giá trị cao siêu diệu vợi, không tìm tòi những thể nghiệm tân thời, không khát khao phải nặn ra cho được bằng bất kỳ giá nào cái lạ lùng, cái độc đáo cùng sự vượt trội hơn người, họ tự thu
mình, hạn chế mình vào việc viết ra, dựng lên, làm sống lại trên trang giấy những gì mà mình hiểu nhất, cảm nhất. Tâm hồn mình, trái tim mình nói gì thì mình viết thế, mình chỉ viết có thế thôi. Song chính nhờ “hạn chế” đó mà thế hệ nhà văn ấy đã cống hiến cho văn học nước nhà những tác phẩm văn xuôi đạt giá trị văn chương rất cao, với những phong cách và thần thái rất đa dạng, rất độc đáo và rất thành công.
Thành công gần đây nhất của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính là Lạc rừng của nhà văn Trung Trung Đỉnh. Đây là một tác phẩm đặc sắc và độc đáo trong sự đặc biệt chân thực mà tính ẩn dụ rất cao, như lời nhận xét của nhà văn Ma Văn Kháng. Một tác phẩm với nhiều tầng lớp, ngữ nghĩa mà đường nét của tác phẩm thì lại thanh nhã. Ngay một nhà thơ nghiêm khắc và chặt chẽ như Trúc Thông cũng đánh giá cao Lạc rừng. Theo ông Lạc rừng rất giàu chất thơ, một tác phẩm trung thực và trong trắng, cho dù đầy khắc nghiệt và gai góc. Từ tiểu thuyết Lạc rừng, nhà văn Phạm Ngọc Tiến còn rút ra được một kết luận khá chuẩn xác như thế này: Nhà văn có tài năng thì viết thật, và ngược lại.
Bản thân tôi khi đọc Lạc rừng lại nghĩ tới Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi và Thời xa vắng của Lê Lựu là hai tác phẩm xuất sắc về đề tài chiến tranh, đồng thời là hai tác phẩm đã mở đường cho tiểu thuyết thời kỳ Đổi Mới. Theo tôi, hơn mười lăm năm đổi thay và chuyển mình bừng dậy ấy của văn học Việt Nam là thời kỳ đậm dấu công sức và tài năng những nhà văn vốn là bộ đội của chiến trường xưa. Lấy chiến tranh và người lính làm đề tài, tìm sức mạnh cho văn bút của mình từ sự thật cuộc đời và sự chân thực nội tâm, các nhà văn bộ đội không những đã làm sống lại và làm cho trường tồn hình bóng một thời đại, một đời sống đã qua của con người Việt Nam mà còn là nâng trình độ tiểu thuyết Việt Nam lên tầm cao.
Văn học Việt Nam ngày nay đang nhịp bước vào với văn học nhân loại, đang được độc giả và nhà văn trên thế giới quan tâm, tìm hiểu và tìm đọc. Cố nhiên, điều quan tâm nhiều nhất là dòng văn học hình thành từ chiến tranh chống Mỹ. Không phải bởi tính chính trị của đề tài mà bởi sự phong phú, đa dạng, bởi sự độc đáo của những phong cách, bởi chiều sâu tư tưởng của tác phẩm, và trên tất cả là bởi tầm đích thực của văn chương, đã trở thành bản sắc riêng của dòng văn học này.
Không phải là bất kỳ ai mà chính những người lính đã làm được điều đó cho văn học Việt Nam.
Văn Nghệ Trẻ số 17-18, 2002, ký tên Bảo Ninh