← Quay lại trang sách

Nền văn học nặng thương tích chiến tranh

Trong giai đoạn phát triển ban đầu còn rất non trẻ mà vô cùng tài năng của văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là một trong những nhà văn ưu tú nhất. Từ ngay tác phẩm đầu tay Chí Phèo, sáng tác năm mới 24 tuổi, tài năng của ông đã rất xứng đáng được đánh giá cao như vậy. Thế nhưng lúc sinh thời, nhất là vào trước năm 1945, tên tuổi Nam Cao chưa được đông đảo độc giả ngưỡng mộ như bây giờ. Bởi nỗi phải tới sau Cách mạng, những truyện ngắn của ông trước đó đăng rải rác trên các báo mới được in thành tập. Hơn nữa, mảng sáng tác đặc biệt quan trọng, có thể nói quan trọng nhất của ông là tiểu thuyết thì đã hầu hết bị thất lạc bản thảo, chỉ còn lại duy nhất bản thảo Sống mòn, và kể cả bản thảo ấy cũng phải mãi 5 năm sau ngày ông qua đời mới được xuất bản. Vậy mà chỉ với Sống mòn, cuốn tiểu thuyết duy nhất được xuất bản đó, Nam Cao cũng đã thực sự là nhà tiểu thuyết hàng đầu của văn học nước nhà, không chỉ cho giai đoạn trước 1945 mà cho suốt cả thế kỷ XX, đến tận bây giờ.

Một nhà văn xuất chúng như vậy, nhưng năm tháng cuộc đời và sự nghiệp thật ngắn ngủi. Ông hy sinh năm 1951, mới 34 tuổi và mới vừa tròn được 10 năm cầm bút. Nếu như Nam Cao không ngã xuống trong lần bị phục kích ấy, nếu như đời sáng tác của ông còn tiếp tục được thêm nhiều năm nữa, thì văn học Việt Nam, nhất là tiểu thuyết, rất có thể đã không chỉ dừng ở tầm mức của ngày hôm nay. Mỗi khi đọc tác phẩm, mỗi khi nghĩ về sự hy sinh bất ngờ và khốc liệt của nhà văn lớn Nam Cao, hầu như bất kỳ ai cũng sẽ có một giả định đầy tiếc nuối như vậy trong lòng.

Sự kiện quân Pháp sát hại nhà văn Nam Cao là một tội ác điển hình dã man của kẻ thù xâm lược đối với nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Và sự kiện một trong những nhà văn lớn nhất bị kẻ thù xâm lược giết hại khiến người ta cảm nhận một cách thấm thía những thương tích, những tổn thất nặng nề và vô cùng ác hại không gì bù đắp nổi mà nền văn học của đất nước đã phải chịu đựng trong suốt ba chục năm trời chiến tranh.

Nam Cao không phải là nhà văn duy nhất bỏ mình nơi trận mạc. Nếu coi “người văn nghệ binh thứ nhất đổ máu trên chiến trường” là Trần Đăng thì chỉ riêng trong số các nhà văn nhà thơ đã thực sự trở thành tác giả trên văn đàn đã có tới ít nhất 15 liệt sĩ: Trần Đăng, Trần Mai Ninh, Thâm Tâm, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Dương Tử Giang... đấy thực sự là những tác giả nổi tiếng, những tài năng lớn của nền văn học. Song, sự tổn thất về số lượng tác giả thật ra còn lớn hơn thế rất nhiều lần. Bởi vì trong số hàng triệu chiến sĩ đã ngã xuống trên các ngả đường chiến tranh trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến có biết bao nhiêu là nhà văn tương lai. Đấy là những tài năng văn học có thể chỉ mới viết tác phẩm đầu tay đăng trên báo sư đoàn, có thể chỉ mới sáng tác trong nhật ký, trên báo tường đại đội, thậm chí chưa hề có ý tưởng trở thành nhà văn. Không bao giờ còn được biết đến họ, nhưng người ta biết rằng ở chiến trường trong quân ngũ từng có rất nhiều tài năng văn học không kịp phát lộ mà đã bị lửa đạn chiến tranh vĩnh viễn dập tắt. Điều ấy là chắc chắn bởi vì chỉ một phần rất ít thôi trong số tác giả tiềm ẩn ấy trở về được sau chiến tranh mà đã đủ hình thành cả một thế hệ các nhà văn nhà thơ viết về chiến tranh sau chiến tranh, một thế hệ văn chương tuấn kiệt làm nên dung mạo và tầm vóc, mang lại vinh quang cho nền văn học hôm nay.

Chiến tranh không chỉ gây ra cho văn học những tổn thất to lớn về con người. Có lẽ sự hy sinh lớn nhất của văn học nước nhà trong chiến tranh vẫn là việc các nhà văn quyết lòng hy sinh những khát vọng, những tín niệm, những dự định văn chương riêng tư nhất để dành tâm lực sáng tạo cho cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc. Buộc phải hy sinh nỗi niềm riêng, dĩ nhiên cũng có nghĩa là phải chấp nhận không dồn sức thực hiện những tác phẩm có giá trị văn học đỉnh cao.

Có thể thấy rõ nhất sự hy sinh ấy ở lĩnh vực tiểu thuyết. Mặc dù từ 1945 tới 1975 đã có những tiểu thuyết rất thành công như: Vỡ bờ, Sóng gầm, Đất nước đứng lên, Đất lửa, Mẫn và tôi, Dấu chân người lính... song vẫn có thể thấy rằng các tác giả thật ra đã không thể dồn hết sức mình và tài năng của mình cho tiểu thuyết. Đặc biệt là nhà văn Nguyễn Thi, rõ ràng là sinh ra để viết tiểu thuyết, thế nhưng hoàn cảnh chiến tranh đã không cho phép họ thực hiện thiên chức văn chương tầm cao ấy. Có thể nói rằng đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thì sự hy sinh của nhà văn Nguyễn Thi trong tấn công Mậu Thân là một tổn thất trầm trọng và đau đớn không kém gì khi đất nước mất đi nhà văn Nam Cao.

Các nhà văn nhà thơ không ngã xuống trên chiến địa thì cũng bị thương đổ máu, cũng bị gian lao chiến trường hút cạn sức lực. Trở về sau chiến tranh là những nhà văn thương tích đầy mình, sức khỏe suy kiệt và mang những tật bệnh để lại di chứng lâu dài. Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, nhà văn Nguyễn Văn Bổng, nhà văn Phan Tứ... dẫu là nhiều năm sau chiến tranh vẫn chính là tổn thất do chiến tranh gây ra cho nền văn học.

Tuy nhiên, những tổn thất và thương đau ấy cũng đồng thời là áng vinh quang tỏa sáng số phận của nền văn học chiến sĩ, nền văn học ra đời trong lửa đạn, nền văn học có một không hai này. Dâng mình cho mọi thăng trầm và thành bại của cuộc chiến đấu trường kỳ, được nuôi dưỡng và trưởng thành lên bằng hiện thực chiến trường, nền văn học nhiều thương tích này đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tinh thần của cuộc kháng chiến. Và mặc dù phải chịu nhiều thương tổn, phải chấp nhận nhiều hạn chế, nền văn học của các chiến binh vẫn là nền văn học đầy sinh lực, nền văn học gồm những nhà văn sáng giá nhất của đất nước. Cho đến hôm nay, sự nghiệp của những nhà văn lớn đã hy sinh trong chiến đấu vẫn không ngừng được tiếp bước.

Văn Nghệ Trẻ số 30, 2003, ký tên Bảo Ninh