Ký ức riêng về nhà văn Nguyễn Tuân
Vào nghề văn, làm nhà văn, một trong những niềm vui đối với tôi là được trở thành bạn của các nhà văn. Những nhà văn cùng tuổi cùng thời và các tác giả bậc trên, lớp trước, những nhà văn nhà thơ sáng ngời tên tuổi mà trong những năm tuổi trẻ, học đường và quân ngũ, tôi hằng ao ước là làm sao được một lần tận mắt nhìn thấy họ. Không chỉ tác phẩm, hay nói đúng ra là còn trên cả tác phẩm, mỗi nhà văn với dung mạo, phong thái, cử chỉ, lời nói, cách nghĩ... rộng ra là thái độ sống, cốt cách và bản lĩnh sống, đều cho tôi những ấn tượng riêng biệt, sâu sắc, không thể bị lẫn lộn đi, không bao giờ phai mờ.
Trong những nhà văn bậc cha chú, lớp lão thành, tôi nhớ nhất nhà văn Nguyễn Tuân. Tuy nhiên, vì chỉ được gặp ông vào cái thời mà bản thân còn đang trẻ nít học trò nên những cảm nhận còn lại trong ký ức tôi về ông không liên quan nhiều tới văn chương, và cũng không hoàn toàn giống với những gì ngày nay tôi hay đọc thấy và nghe thấy.
Ông là người đàn ông cao tuổi có dung mạo đẹp nhất mà tôi từng thấy. Mà tôi thấy ông đâu có cầu kỳ tỷ mẩn gì trong cái sự bề ngoài râu tóc. Nói vậy là bởi vì tôi vẫn thấy ông chịu khó đi bộ từ Ga tới cắt tóc, sửa râu, cạo mặt tại cái tiệm vỉa hè đầu nhà 43 Nguyễn Thái Học, một tiệm mà ông là khách quen từ năm 1954. Hình như ông không hề chi ly kén chọn xấu đẹp ngon dở, ông chỉ ưa sự quen thuộc, ưa những chốn xưa người cũ như thế trong thành phố: tiệm hớt tóc, gánh phở, hiệu đóng giày, quầy báo, hiệu sách v.v... Trang phục của ông giản dị, nghĩa là như mọi người trong những năm trường gian lao và kham khổ ấy. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ, thỉnh thoảng ông cũng có đi công tác nước ngoài nhưng bề ngoài con người ông chẳng có tây tàu gì. Chỉ có điều sự ăn bận của ông luôn đàng hoàng, tề chỉnh, không có tỵ gì dáng vẻ luộm thuộm “văn nghệ sĩ”. Mà thái độ lịch sự, vẻ thanh nhã hình như đã từng có một thời dễ bị thiên hạ coi là biểu hiện của thói kênh kiệu. Ông có một chiếc xe đạp đã tàng nhưng lại rất sạch sẽ mặc dù ông toàn đạp xe đường trường. Trong thành phố thường là ông đi bộ. Ông không vội vã bao giờ, nhưng không phải là vì tính nết rề rà hay là ra điều nhàn nhã một cách trịnh trọng, mà là sự thong thả của một cốt cách điềm đạm và từ tốn. Tôi thấy rõ điều đó trong dáng dấp bình tĩnh của ông khi ông đến thăm nhà chúng tôi gặp còi báo động. Máy bay Mỹ là sát sàn sạt mái ngói, bom nổ chuyển đất, thiên hạ nháo lên, nhưng ông cực kỳ ung dung. Thỏng thả ông đi lên gác thượng, nơi có khẩu đội súng máy đang dữ dội nhả đạn, trầm lặng quan sát cuộc kịch chiến trên trời xanh giữa cao xạ và máy bay.
Người ta nói lời lẽ Nguyễn Tuân sắc bén, chua cay, đáng sợ, kỳ tình ông rất kiệm lời. Còn khi đã nói, ông lựa lời dù là nói với trẻ nhỏ. Con người ông trầm mặc, đượm buồn, gần như u uẩn, tôi nghĩ người như vậy không bao giờ có thể cay độc, không bao giờ có cái nhìn xoi mói đối với người đời, sự đời. Kín đáo, trầm lặng, tuy nhiên ông là người dễ gần, chí ít là đối với người già và trẻ con. Bà nội tôi năm đó đã gần tám mươi, cụ khó tính lắm và chẳng mấy khi trò chuyện với ai. Nhưng mỗi khi Nguyễn Tuân tới chơi nhà thì cụ vui hẳn lên. Nhà văn có thể chuyện với cụ rất lâu về những người xưa cảnh cũ ở Huế, ở Tua ran, ở Sài Gòn. Biết nhà văn sắp tới chơi, bà tôi kỳ khu làm một mâm cơm đặc biệt Huế để đón ông. Và dường như chỉ có ông mới biết thưởng thức những món ăn cực kỳ tỉ mỉ và rất đỗi kiểu cách ấy của bà tôi.
Theo tôi được biết thì nhà văn Nguyễn Tuân không sống nhiều ở miền Nam. Nhưng những lần ông đến chơi nhà, những câu chuyện của ông với bà tôi và cha mẹ tôi đã làm cho tôi cảm thấu được nỗi buồn nhớ miền Nam và niềm đau chia cắt đất nước trong tâm hồn thế hệ cha anh tôi hồi đó thống thiết và sâu sắc đến nhường nào. Tôi nhớ là Tết năm 1968, gia đình chúng tôi đã được nhà văn Nguyễn Tuân xông đất. Bà nội tôi là người dân Huế sống ở gần nhà ông nhất nên ông đến báo tin trước nhất, chia vui trước nhất: Miền Nam tổng tấn công, Huế đã được giải phóng rồi. Ông rất thạo tin tức, ông biết rất sớm những tin thời sự nóng nhất và mật nhất. Thời gian sau đó khi Huế bị địch tái chiếm, lại ông cũng đến nói cho gia đình tôi biết, trò chuyện rất lâu, tới khuya. Tất nhiên là rất buồn.
Là một tác giả lớn, nhà văn Nguyễn Tuân đương nhiên là một nhân cách cao quý, đức độ và từ tâm. Không thể có sự quá khích ở ông. Còn nhớ một chuyện như thế này. Năm 1966, Mỹ leo thang ném bom Hà Nội. Máy bay bị bắn rơi. Phi công bị bắt sống, hàng trăm tên bị dong qua phố nhà tôi. Lũ nhóc bám theo toan choang gạch đá. Nhà văn Nguyễn Tuân lúc ấy đang tới chơi nhà Nguyễn Sáng tại 65 Nguyễn Thái Học, đã gần như là người lớn duy nhất ra tay ngăn cản cuộc công kích không hay ho gì ấy của bọn trẻ khu phố. Mà đọc Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi chúng ta hiểu ông căm giận và phẫn nộ đến nhường nào đối với kẻ thù xâm lược.
Năm 70, trên đường đi Bê, bị cháy mất toàn bộ quân tư trang, tôi không tiếc gì, chỉ tiếc cuốn Con thuyền đất. Cuốn truyện được chính nhà văn Nguyễn Tuân ký tặng ấy vào ngày nhập ngũ đáng lẽ sẽ là kỷ niệm quý giá và là một trong những niềm hãnh diện lớn lao nhất trong đời văn học của tôi, vậy mà tôi đã không giữ được.
Văn Nghệ Trẻ số 33, 2003, ký tên Bảo Ninh