Mấy cảm nghĩ về nghề văn Hạnh phúc...
“Thật đáng vui mừng là từ Mặt trận Tây Nguyên trở về sau chiến tranh đã có không ít đồng chí trở thành văn nghệ sĩ, nhiều người có tên tuổi như các nhà thơ Hữu Thỉnh, Trương Vĩnh Tuấn, nhà văn Trung Trung Đỉnh, Khuất Quang Thụy, họa sĩ Đỗ Phấn, nhạc sĩ
Doãn Nho. Riêng trung đoàn 24 chúng ta có nhà văn Bảo Ninh, hội viên Hội Nhà văn Trung ương hẳn hoi, vốn là chiến sĩ tiểu đoàn 5”. Anh em đồng đội, gồm cả các vị tướng lừng danh của B3 nhiệt liệt vỗ tay mừng cho Bảo Ninh tôi. Tôi viết thế chẳng phải để khoe khoang đâu. Hàng năm, hội họp anh em, anh Thi trưởng ban liên lạc cựu chiến binh trung đoàn đều có lời giới thiệu vừa vui vẻ vừa trịnh trọng như vậy, cho dù tôi luôn đề nghị anh đừng có đích danh riêng tôi như thế nữa. Thật tình hãnh diện lắm nhưng cũng rất ngượng ngùng. Trong đội ngũ của Trung đoàn, tôi chỉ là một chiến sĩ vô danh, một người lính rất thường, rất thường về mọi mặt; vậy mà thêm danh hiệu nhà văn tôi bỗng trở thành đặc biệt giữa anh em đồng ngũ. Điều ấy xét cho cùng thật là kỳ lạ.
Tôi vẫn nghĩ đấy là một trong những sự lạ lùng nhất ở nước mình. Không biết có còn nước nào như thế nữa không mà nghề văn, nhà văn được đông đảo các tầng lớp nhân dân trọng thị và yêu mến nhường ấy. Nhà thơ, nhà văn, vậy là đủ, là bạn sẽ được hưởng niềm cảm mến, sự ưu ái, thái độ chí tình và thân thiện của mọi người xung quanh, cho dù mọi người chưa đọc tác phẩm, thậm chí chưa từng nghe đến tên bạn. Là nhà văn nên từng đi khắp đất nước và giao thiệp rộng, bạn chắc cũng nhận thấy điều như tôi. Vì sao lại có chuyện như vậy? Bản thân tôi thú thực luôn cảm thấy, luôn nghĩ đến mà chưa bao giờ hiểu được duyên do niềm hạnh phúc ấy của nghề nghiệp mình.
Vì văn chương của chúng ta vang lừng thiên hạ? Dù có thế cũng chắc chắn không phải vì thế mà giới nhà văn chúng ta được hưởng một tình cảm quý mến và trọng thị đặc biệt như vậy của bao người, cả độc giả lẫn không phải là độc giả văn học. Tôi thì tôi cho rằng một phần duyên do là vì từ xa xưa tới bây giờ, chí ít là tới bây giờ, văn chương của tất cả các nhà văn nhà thơ nước Việt đều được xem như, đều được thừa nhận là tiếng lòng của nhân dân, nhân dân nói chung, nhưng nhất là của người bình dân lao động, của chinh phu, chinh phụ, của người nghèo, của kẻ khổ đau bần hàn... Suốt đời làm lụng, sinh nhai, ra trận, con người ta đời này nối đời khác chỉ gắng sống và chỉ có sống mà thôi, số phận không kể ra được, nỗi lòng không thốt được thành lời; nhà văn nhà thơ nhận lấy “nhiệm vụ” ấy, phải chăng vì thế mà được yêu mến?
Tôi nghĩ nhà văn nhà thơ được mọi người quý mến còn bởi vì lối sống, bản tính, cách nói năng của họ. Tuy mỗi nhà văn nhà thơ mỗi vẻ song họ vẫn có cái gì đó giống nhau rất dễ nhận ra mà không biết gọi là sao cho đúng. Không ai có thể cố tình tạo dáng ra cho mình điều ấy. Cứ tự nó thế thôi. Và chính cái gì đó ấy khiến giới nhà văn mặc dù hòa mình hoàn toàn vào thiên hạ mà vẫn không hoàn toàn là như thiên hạ. Tuy có vẻ khá gần với sự dị biệt nhưng hoàn toàn không phải thế. Nhà văn không phải là cao hơn, nổi trội khỏi mọi người, mà bản tính, lối sống, thần thái của họ là cô đọng của bản sắc nhân dân thời đại mình. Do vậy thời nào văn nhân cũng vừa gần gũi, thân cận, lại vừa lạ lùng, hơi tách biệt, dễ gây sự chú ý ở những người xung quanh. Đó cũng là nét đáng mến và đáng quý của nhà văn. Miễn là họ không cố ý làm ra thế. Tôi nghĩ vậy.
Tai tiếng
Danh thơm nghề văn, nếu có thể nói như thế, cũng pha lẫn không ít tai tiếng. Càng già dơ trong cái nghề này thì càng biết ra lắm chuyện. Tuy nhiên nghề nào mà chẳng thế chứ. Vả chăng, cái hay của nhà văn là do cô đọng được thiên hạ thì cái dở cũng vậy, cũng là chắt lọc từ những sự dở của muôn người. Nhưng nói vậy, vẫn có đôi điều bị coi là “nổi cộm” trong giới viết văn trở thành thứ tai tiếng điển hình văn nghệ.
Thứ nhất, thói háo danh. Tuy nhiên là nói quá lên, chứ đúng hơn là tật quá say mê Cái Tôi, hay chính xác là Chữ của Tôi. Tác phẩm của Tôi. Thật ra, nếu ở mức độ thấp thì chuyện này là bình thường, gần như là sự dĩ nhiên của nghề vậy. Bản chất của cái nghề mình nó thế. Viết cho mọi người, viết vì lẽ chung cuộc sống, nhưng việc viết, viết cái gì, viết thế nào lại sự hoàn toàn cá nhân, tuyệt đối một thân một mình. Và tuy là bàn luận sự đời muôn vẻ nhưng những sự đời ấy trong tác phẩm văn học phải trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc bằng một cách nào đó được chiếu ra từ đời sống của nhà văn. Cho nên nhà văn phải không ngừng viết, đọc, học, không ngừng sống hết mình chỉ là để mài sắc cái tôi của mình mà thôi. Thêm nữa, người ta chỉ có thể viết văn làm thơ khi tự tin rằng mình viết hay, rất hay, rất đáng đọc, thậm chí phải tin văn của mình là đệ nhất, mặc kệ thiên hạ đánh giá ra sao.
Không tự tin như vậy thì viết làm gì, đưa xuất bản làm gì.
Cố nhiên, tự tin với tự phụ cách nhau có tỵ ty. Âm thầm nghĩ mình là nhất với làm mọi cách để mình là nhất cũng vậy, chỉ một sợi tóc. Sự thực thì thói háo danh thường chỉ trở nên trầm trọng ở những nhà văn đã có danh rồi. Có danh rồi thì phải giữ, phải đẩy, phải tôn nó lên, riết róng nêu cao, quyết liệt quảng bá. Vì thói háo danh, một nhà văn có thể từ là một tài năng văn học trở thành kẻ phản văn học trong nháy mắt. Đây là cạm bẫy kinh khủng, cũng là bi kịch khốn khổ nhất đối với sự nghiệp một nhà văn. Ai cũng biết vậy cả, có điều không mấy ai hoàn toàn tránh được. Trong giới nhà văn hiện nay có lẽ không nhiều những người quá đỗi háo danh, háo danh bệnh hoạn, nhưng quá nhạy cảm về danh thì nhiều. Quá sướng với lời khen, quá giận với lời chê. Quá cần kíp được xuất bản, được tái bản, được dịch. Quá sôi sục với giải thưởng. Quá coi trọng việc được hiện tên ở nước ngoài...
Loại tai tiếng thứ nhì của nghề văn là tật nói xấu. Đúng hơn là không ai chịu ai. Thực ra đây cũng là một dạng thói háo danh. Tuy nhiên, cũng như ở các giới khác, cái tính này thường là tập trung ở những ông chuyên đưa chuyện. Nó là thuộc tính của sự bất tài gắn liền với lòng đố kỵ và tỵ hiềm. Vì vậy mà thực ra không phải là một bệnh phổ biến. Thiên hạ cho rằng nhà văn hay nói xấu nhau có lẽ bởi sự bàn luận và lời bình phẩm của nhà văn thường là rất sắc bén và đậm chất châm biếm, tính hài hước.
Giới nhà văn còn chịu nhiều thứ tai tiếng nữa. Có điều phải thừa nhận là trong họ không có những tâm tính xấu xa trầm trọng. Không có những người quá sức bất nhân bất nghĩa. Không có những kẻ cực kỳ vô lương. Bản chất nghề văn khiến những con người như vậy không thể cầm bút viết văn được. Kinh nghiệm sống trong làng văn cho tôi thấy rằng mặc dù hầu như nhà văn nào cũng có ít nhất một cái chứng và cái tật nào đó, nhưng tất cả đều là những người “chơi được”, tất cả đều hoặc ẩn hoặc hiện những phẩm chất rất hay. Tất cả đều thông minh, hiểu đời, vốn sống, vốn ngôn từ đáng nể. Và trên hết họ đều là những người tốt bụng.
Thế thì mới biết làm thơ và thế thì mới viết văn làm thơ được. Tôi chẳng nịnh quý vị làm chi, song theo tôi, giới nhà văn là tập hợp những con người đáng quí của đất nước
Nỗi khổ
Có hạnh phúc nghề văn nhưng cũng có nỗi khổ nghề văn. Thậm khổ nữa là khác. Có người coi nghiệp văn là một thứ trời đày, một kiểu lao động khổ sai chung thân. Thật thế.
Thiết tưởng chẳng giới lao động trí óc nào làm việc cực nhọc kinh hoàng như anh nhà văn. Điều này người ta nói nhiều, nhưng thực sự là nhà văn mới thấu. Một nghề thử thách tột đỉnh ý chí và nghị lực con người. Trở thành nhà văn, viết ra được ít nhất một tác phẩm, con người ất nhất định là có ý chí rất cao. Có thể minh chứng rõ ràng cho điều này qua tấm gương lao động văn học của những nhà văn gặp vấn đề về sức khỏe, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đỗ Trọng Khơi, Trần Văn Thước,Nguyễn Quang Lập... Tình yêu và tài năng văn học, tất nhiên rồi, còn ý chí, lòng quả cảm, sự kiên nhẫn của những nhà văn này có thể nói là vô bờ. Hầu hết những nhà văn nhà thơ khác cũng vậy thôi. Lao động quên mình, quên tháng năm, quên đêm quên ngày, quên vô cùng nhiều thứ của kiếp người. Tôi quen biết rất nhiều nhà văn nhà thơ và tôi chưa từng thấy ai là kẻ chỉ ham chơi mà lười nghĩ lười viết. Có xuất bản hay không thấy xuất bản cũng vậy thôi, họ miệt mài suy nghĩ và không ngừng viết.
Niềm vui, nỗi buồn, nỗi sung sướng, sự đau khổ v.v... những tình cảm và xúc cảm trái ngược nhau liên miên giằng xé tâm trạng người đang sáng tác. Lòng dạ chẳng lúc nào yên. Những ký ức xa gần, những gương mặt, những phong cảnh, những âm thành từ bao giờ tới giờ dồn dập hiện về khiến đầu óc không lúc nào được hoàn toàn thư giãn. Là hình dung sơ qua như vậy, chứ tâm trí và tình cảm của nhà văn khi viết không thể có bút nào tả nổi. Và trong khi viết nhà văn hầu như luôn bị nỗi khổ tâm vì không thể hài lòng với mình. Dằn vặt, viết rồi xóa, xóa rồi viết, còn thấy tệ hơn khi chưa xóa. Một thứ công việc có thể nói là đầy vô vọng. Vô vọng nhưng vẫn viết, nhích dần lên với từng con chữ. Cái nghề này nó như thế.
Có nhiều nỗi khổ lắm. Nỗi buồn rầu. Niềm cay cực. Không tả được. Cảm thấy cô đơn, cô độc vô cùng. Viết mãi viết mãi vẫn không thành. Không vượt lên được. Thấy mình kém cỏi, bất tài, vô dụng.
Rồi nữa là nỗi khổ vì không được ai hiểu. Tác phẩm của mình viết ra mình tự khẳng định là tuyệt hay, là cực kỳ đáng chú ý. Nhưng biên tập viên không cho rằng thế, người đọc không thấy như thế. Tác phẩm viết tuyệt như vậy được xuất bản mà im lìm nằm ăn bụi ở quầy hiệu sách. Khổ tâm vô cùng. Nhưng biết làm thế nào được.
Tôi và chắc chẳng riêng gì tôi cảm thấy khổ sở và thất vọng vô cùng với công việc viết văn của mình. Nhưng tôi yêu nghề này, và không biết làm thế nào ngoài cách im lặng mà viết. Được hay không được, thành hay không thành, nổi danh hay không nổi danh cũng chỉ biết đành cắn răng lại mà miệt mài gõ bàn phím. Chứ còn biết làm sao bây giờ?
Văn Nghệ Trẻ số 15, 2004, ký tên Bảo Ninh