← Quay lại trang sách

Thuế chữ

Ở ta, trong một thời gian dài, quyền tác giả là một khái niệm xa vời đối với người viết sách và tuyệt đối xa lạ đối với người làm công tác xuất bản. Đã gọi là quyền thì phải có chức, tác giả chẳng phải một cái chức nên sao mà có quyền. Trong lĩnh vực sách vở chữ nghĩa cái gọi là quyền chỉ có thể ứng với trọng trách xuất bản. Tác giả đã hoàn thành bản thảo thì tác giả hãy nộp nó cho nhà xuất bản, thế thôi là xong nhiệm vụ tác giả. Nếu bản thảo được in thì thế là may mắn, là phúc đức rồi, tác giả còn cần gì, còn có thể đòi gì hơn? Làm công tác xuất bản vào giai đoạn trước đây có mấy ai mà không nghĩ vậy.

Thành thử bây giờ bận tâm và lo lắng sát sườn đến Công ước tác quyền quốc tế mà nước ta vừa tham gia vẫn chủ yếu là giới xuất bản chứ không phải giới cầm bút. Các ông xuất bản phải cảm nhận được trực tiếp những thách thức từ công ước này là tất nhiên thôi, bởi vì kể từ nay các tác giả có thể sẽ không chỉ bằng lòng với duy mỗi chuyện bản thảo của mình được in ra mà còn đòi hỏi và có quyền đòi hỏi nhiều hơn thế.

Có điều, nếu để ý chúng ta sẽ thấy trong thời gian qua các ông xuất bản nhà mình lo âu và nghĩ ngợi về tác quyền của người ngoại quốc là chính. Điều này thực ra cũng dễ hiểu. Xưa giờ, các tác giả nước ngoài, bất kể đã qua đời hay còn sống, sách của họ được xuất bản ở ta với một cug cách có thể nói là tùy tiện không kém gì đối với các tác giả trong nước. Thậm chí còn tùy tiện hơn. Đối với tác giả trong nước tiếng vậy chứ nói chung muốn xuất bản cũng phải có đôi lời, cũng phải hoặc ít hoặc nhiều thanh toán nhuận bút. Còn với Tây Tàu thì cần gì, măng phú hết, từ việc xin phép, từ khâu dịch thuật sao cho bảo đảm nội dung, bảo đảm văn phong câu chữ, tới khâu trình bày, khâu xuất bản, lượng phát hành, nhuận bút, tất tật đều chẳng có một chuẩn mực rõ ràng nào. Bây giờ thì không thể thế được nữa. Bây giờ phải xin phép, phải có sự chấp thuận bằng hợp đồng văn bản mang tính pháp lý của tác giả, dù là tít đâu trên Bắc Cực, mới được dịch và mới được xuất bản. Liều mạng cho qua, tác giả họ kiện ra tòa thì xong, sập tiệm, khuynh gia bại sản. Nhưng nếu ký hợp đồng và chịu tuân thủ thì cũng cực kỳ là hao tài tốn của. Bởi vì phải trả tác quyền. Tác quyền chứ không phải nhuận bút, hai sự khác nhau một trời một vực cả về chất lẫn lượng. Thừa nhận tác quyền có nghĩa thừa nhận trí tuệ và chữ nghĩa là sở hữu của cá nhân tác giả. Mà giá trị của sở hữu ấy có thể là vô cùng lớn, và nói chung, như thường thấy trên khắp thế giới thì tác quyền là khoản đầu tư nặng nhất, chiếm mất nhiều ngân sách nhất của nhà xuất bản.

Nhưng lo thì lo mà sự thực vẫn không đáng lo lắm. Bởi vì các ông xuất bản nhà mình chỉ phải cam chịu sức ép của quyền tác giả ở mảng sách dịch, chứ còn với sách của tác giả trong nước có gì mà ngại. Gọi là nhuận bút, hay cho oai là tác quyền, thì cũng vầy vậy, quy ra thóc được dăm yến, giỏi nữa vài tạ, đến tấn là cùng.

Ở ta, nói không ngoa, văn chương chữ nghĩa thời nay rẻ nhất thế giới. Chẳng bì với Trung Quốc đông dân, hay với Âu Mỹ giàu có làm gì, chỉ ngó trong khu vực thôi, như cái nước na ná nhà mình là nước Thái Lan, cũng không làm gì có chuyện nhà xuất bản dám phát hành một cuốn tiểu thuyết mà chỉ cần trả công lao động nhiều năm trời, cực nhọc và khổ công, cạn kiệt cả tinh thần cả thể xác của tác giả bằng khỏan tiền tương đương vài trăm Mỹ kim mà vài trăm ấy cũng là hãn hữu lắm, cũng là nói vống lên cho sang thế thôi). Trả tác quyền rất cao song giá sách ở Thái Lan nếu không rẻ hơn thì cũng không thể đắt hơn thứ giá cắt cổ ở các nhà sách nước mình. Không chỉ chuyện giá trị tiền bạc của tác quyền mà còn hơn thế là vấn đề tôn trọng tính pháp lý của tác quyền. Không ở đâu trên thế giới có chuyện xuất bản mà không ký hợp đồng, che giấu số lượng ấn phẩm, tái bản không thông báo, không trả tiền, chuyển thể, trích đăng không xin phép v.v... Và thực ra thì ngay ở ta, vào những thập niên trước trong thời bao cấp, thời chiến tranh, tuy không có khái niệm tác quyền nhưng lao động nhà văn và lao động chữ nghĩa nói chung vẫn được trọng thị hơn hẳn thời buổi văn minh thị trường hôm nay.

Lao động chữ nghĩa luôn được nhân loại coi là vô giá. Các tác phẩm văn học là sản phẩm lao động đặc biệt của con người. Bản thảo một tác phẩm bao giờ cũng là độc nhất vô nhị và lao động khổ công để có được bản thảo ấy là không thể lấy gì đo đếm. Vì vậy đối với lĩnh vực xuất bản, người ta chỉ thu thuế thu nhập của người bán sách chứ không ai bao giờ đi đánh thuế công việc của người viết sách như ở ta hiện nay đang bắt đầu tiến hành.

Văn Nghệ Trẻ số 9, 2005, ký tên Nhật Giang