Bụi thời gian tám mươi năm
Nếu tính từ Tố Tâm thì cho đến nay tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ có mặt trong văn học nước nhà mới vừa tròn tám mươi năm. Với khoảng thời gian chỉ như vậy mà được như bây giờ phải nói rằng sức sống, đà phát triển và sự trưởng thành của tiểu thuyết Việt Nam đã rất là tiểu thuyết. Và một tổng tập toàn bộ nền tiểu thuyết Việt Nam kể từ Tố Tâm tự thân nó cũng chính là một “tiểu thuyết tả chân” hiện thực nước Việt trong tám chục năm qua.
Cố nhiên đa phần người đọc thời nay không còn chuộng Tố Tâm bằng lớp độc giả của thời sơ khai tiểu thuyết. Mặc dù có vị trí quan trọng trong văn học sử và danh tiếng còn vọng mãi được qua thời gian nhưng Tố Tâm có lẽ không phải một tiểu thuyết còn được coi là hay trong thời hiện đại, nhất là đối với đông đảo độc giả không phải nhà nghiên cứu hay nhà giáo. Song, giá trị của Tố Tâm không phải là ở những gì người ta đọc thấy trong nó mà là ý nghĩa của việc nó ra đời và đặc biệt là ở sức thúc đẩy (do nó tạo ra nhưng vượt xa tầm của bản thân nó) tác động gần như ngay tức thì lên nền văn học.
Ngay tức thì, có thể nói như vậy, bởi chỉ sau Hoàng Ngọc Phách có tám năm thôi đã là Tự Lực Văn Đoàn. Năm 1925, Tố Tâm, cái bước đi đầu tiên ấy của tiểu thuyết còn chập chững, non nớt, vụng về đến vậy mà năm 1933 với Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, rồi Đôi bạn của Nhất Linh, đã thực sự là một cuộc đột khởi văn chương mà chí ít cũng ngang tầm cỡ cuộc cách mạng Thơ Mới. Chỉ sau một thời gian ngắn mà các tác phẩm đầu tay của Tự Lực Văn Đoàn đã đạt được đẳng cấp nghệ thuật rất cao, vượt xa tầm Tố Tâm về mọi mặt: cốt truyện, bố cục, cấu trúc, cách kể, cách dẫn truyện, nhân vật, đối thoại v.v... Từ vừa non nớt vừa cổ lỗ, với Khái Hưng và Nhất Linh, văn xuôi Việt Nam đã xuất thần bước hẳn vào thời hiện đại. Tính hiện đại trong bút pháp tiểu thuyết của hai nhà văn tiền phong ấy chẳng những không kém các nhà tiểu thuyết lớn nhất của giai đoạn phát triển rực rỡ ngay sau đó mà cả so với ngày hôm nay cũng không. Đặc biệt là về ý chí cách tân. Có lẽ các nhà nghiên cứu và nói chung độc giả thời nay đã không đánh giá Hồn bướm mơ tiên và Đôi bạn đúng với tầm cỡ của hai tác phẩm ấy. Hai tác phẩm dường như đã bị bỏ quên và bỏ lỡ đó thực ra rất đáng được độc giả yêu văn học mọi thời tìm đọc. Với những người muốn bắt đầu viết tiểu thuyết thì hai cuốn tiểu thuyết ấy lại càng đáng đọc hơn.
Về những năm phát triển rực rỡ và đa dạng ngay sau đó của tiểu thuyết Việt Nam thì độc giả ngày nay đã rất am tường. Vào khoảng những năm 1960, bởi lý do sao đó, giới phê bình gia chính thống phủ nhận quyết liệt các tiểu thuyết của nhà văn Vũ Trọng Phụng, khiến cho toàn bộ một thế hệ độc giả trẻ ở miền Bắc những năm ấy đã không hề được đọc ông. May thay sự tình đáng tiếc ấy ngày nay đã được đảo ngược. Các tác phẩm của tiểu thuyết gia hàng đầu của văn học Việt đã được biết đến rộng rãi. Tuy nhiên, chỉ mới là rộng rãi chứ không sâu sắc như cần phải thế. Do vậy vẫn là một sự bỏ quên và bỏ lỡ vô cùng lớn đối với độc giả văn học Việt.
Ngay cả đối với hai nhà văn được hiểu dường như kỹ nhất là Nam Cao và Thạch Lam thì đông đảo người đọc đời nay có vẻ vẫn chưa đánh giá đầy đủ giá trị và tầm cỡ của hai cuốn tiểu thuyết: Ngày mới và Sống mòn. Hai nhà văn được coi là bậc thầy truyện ngắn ấy thực ra cũng là hai tiểu thuyết gia chỉ bằng qua hai tác phẩm đó. Đặc biệt là Nam Cao với Sống mòn.
Mặc dù bản thảo Sống mòn đã được nhà văn Nam Cao hoàn thành từ trước Cách mạng nhưng phải đợi tới sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, cuốn tiểu thuyết mới lần đầu ra mắt độc giả. Có lẽ là vì thế, vì được xuất bản khi thời đại đã chuyển nên Sống mòn như bị lỡ mất nhịp, không làm thành một sự kiện lớn trong dư luận văn học hồi bấy giờ. Rồi liên tiếp sau đó là những biến động lớn lao và không ngừng cho tới tận năm 1975 của đất nước khiến cuốn tiểu thuyết có chiều nội tâm quá sâu và quá nặng ưu tư ấy vốn đã không thể có đông người đọc càng ít người đọc hơn, vốn đã quá kín đáo và kín tiếng lại bị chìm tiếng đi giữa một thời đại văn học bừng bừng hào khí và đầy những biến động vang dội. Ngày nay, Sống mòn đã được nhắc tới nhiều hơn, nhưng vẫn có vẻ là được nhắc một cách lớt phớt. Dường như chính tầm cỡ những truyện ngắn của Nam Cao đã tạo nên một định kiến rằng Nam Cao là tác gia truyện ngắn, sự nghiệp để đời bằng truyện ngắn, chỉ truyện ngắn. Tuy nhiên khi độc giả chịu chấp nhận thách thức của sự khó đọc và không hấp dẫn của một tiểu thuyết không trọng cốt truyện, không trọng tình huống, không trọng hành động, không trọng đối thoại, chỉ những miên man nghĩ và nghĩ mà thôi, sẽ thấy rằng sự nghiệp Nam Cao không thể sống mãi nếu vắng Sống mòn.
Xét riêng thời kỷ tiểu thuyết trước năm 1945, tức là buổi đương thời thực sự của Sống mòn, thì Sống mòn không phải là tác phẩm tiêu biểu. Không tiêu biểu, bởi vì Sống mòn là một hiện tượng đơn nhất, duy nhất, là một cái gì đấy khác biệt và cách biệt hẳn về chất so với mọi tác phẩm được coi là tiêu biểu của tiểu thuyết thời kỳ đó. Cả của những thời kỳ sau, cả của bây giờ. Bút pháp tiểu thuyết của Nam Cao vượt xa bút pháp đương thời của không chỉ tiểu thuyết Việt Nam.
Cho đến ngày hôm nay, Sống mòn vẫn xứng đáng được coi là một trong những tác phẩm hàng đầu của tiểu thuyết Việt Nam. Thậm chí nếu được yêu cầu chỉ kể tên một tác giả mà một cuốn thôi chắc chắn sẽ có không ít độc giả nói rằng đó là Nam Cao, đó là Sống mòn. Thế nhưng, dù vậy, thành tựu hết sức đáng tự hào và đáng để kiêu hãnh ấy của tiểu thuyết Việt Nam cho đến nay vẫn thực sự là đang “sống mòn”. Đây có thể là trường hợp tiêu biểu cho tình trạng các kiệt tác bị chìm bóng dưới bụi thời gian.
Trong thời kỳ văn xuôi trước 1945 còn có nhiều tác phẩm tuy không ở tầm cỡ của Số đỏ và Sống mòn nhưng vẫn rất đáng đọc đối với độc giả thời nay, cũng đang bị chìm bóng dần đi một cách đáng tiếc như Những ngày thơ ấu, tiểu thuyết hồi ký của Nguyên Hồng. Không nổi tiếng và quan trọng trong sự nghiệp của Nguyên Hồng bằng Bỉ vỏ, nhưng Những ngày thơ ấu lại dường như là hay hơn, cho đến ngày hôm nay, đối với cách đọc ngày hôm nay, vẫn là một tác phẩm cực hay.
Hoặc, các tiểu thuyết của nhà văn Lê Văn Trương. Không hiểu vì sao tới bây giờ vẫn chưa nhà sách nào tiến hành tái bản tác phẩm của nhà văn này? Phải chăng vì những đánh giá nghiệt ngã của một số nhà phê bình của cả thời đó lẫn thời nay, rõ ràng là có mang màu sắc “cao đạo trí thức” xem thường những tác giả được hâm mộ ở tầng lớp dưới, những tác giả viết nhanh, viết không cầu kỳ câu chữ, viết có vẻ vì miếng cơm manh áo, mà hình thành nên một định kiến sự thực là rất quan cách và cổ hủ ngăn trở độc giả ngày nay đọc Lê Văn Trương. Bản thân tôi và có lẽ chẳng riêng tôi thì lại thấy các tiểu thuyết Lê Văn Trương là rất thú vị và không phải là không hấp dẫn. Một bút pháp bình dân đáng nể, nhất là có thể học được nhiều ở ông trong cách dẫn truyện, trong cách bộc bạch tâm sự của tác giả một cách tùy hứng, ngẫu hứng, không bị câu chữ và cấu trúc gò bó mất cảm hứng và sự sảng khoái của ngòi bút.
Có thể nhiều độc giả trẻ hiện nay khi đọc xong Lê Văn Trương sẽ không thích, nhưng không hề đọc ông thì vẫn là một sự bỏ lỡ rất đáng tiếc. Dĩ nhiên, không chỉ có Lê Văn Trương, còn nhiều tác giả và tác phẩm trong những năm vang bóng một thời ấy của tiểu thuyết đã bị mất bóng theo năm tháng. Để mai một tác phẩm của mình, dù chỉ là một cuốn thôi, nền tiểu thuyết Việt Nam cũng đã tự làm phí hoài đi một phần năng lượng của mình.
Vào những năm 60 thế kỷ trước, lứa độc giả khi ấy đang độ tuổi học trò cấp ba như chúng tôi biết rất ít về tiểu thuyết Việt Nam trước năm 1945. Đại khái cũng được các thầy giáo giảng cho biết rằng trong thời Pháp thuộc, tiểu thuyết có hai dòng, lãng mạn và hiện thực phê phán, song lãng mạn thì chắc chắn là chúng tôi chẳng có cuốn nào để đọc rồi, còn hiện thực phê phán, nếu tôi không nhớ sai, chỉ có nhõn hai cuốn anh Pha chị Dậu: Tắt đèn và Bước đường cùng là được tái bản và bày bán ở hiệu sách.
Như vậy là vào giai đoạn đó, thời kỳ mười năm hòa bình giữa hai cuộc chiến, ở miền Bắc, văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng đã nhất tề chuyển hướng, một sự chuyển hướng quyết liệt được thể hiện bằng ý chí muốn thay đổi triệt để, muốn làm lại hoàn toàn, làm lại từ đầu. Ngay cả độc giả cũng được làm mới lại từ đầu. Sự thực là vậy, khi mà trong kiến thức văn học của mình không có bóng dáng hầu hết các tiểu thuyết Việt Nam thời trước, thì dĩ nhiên lứa chúng tôi chính xác là một thế hệ độc giả được định hướng lại từ đầu, một thế hệ độc giả mới tinh. Quan niệm về sự đọc văn chương cũng hoàn toàn khác trước. Chúng tôi được giáo dục từ khi còn nhỏ rằng không nên đọc thơ, đọc truyện ngắn, đọc tiểu thuyết theo lối thưởng thức tiểu tư sản đơn thuần “vị nghệ thuật”, mà đọc là để học tập, để tu dưỡng, để xây dựng cho mình các giá trị Con người mới. Các nhà văn sáng tác các tác phẩm cũng với niềm tin, mục đích và động cơ chủ yếu là viết để phục vụ chúng tôi, giáo dục chúng tôi, giúp chúng tôi rèn giũa những đạo đức phẩm chất xã hội chủ nghĩa.
Thế nhưng, rất lạ là mặc dù phải gây dựng lại từ đầu, mới hoàn toàn, khác hoàn toàn, tiểu thuyết Việt Nam trong giai đoạn mười năm xây dựng hòa bình ở miền Bắc đã không thể hiện sự tụt dốc và đứt đoạn, mà trái lại. Không kể vài ba cuốn được viết lách cấp thời vào đầu những năm 50, quá ấu trĩ và non vụng, tiểu thuyết thời Hiện thực xã hội chủ nghĩa đã gần như ngay lập tức là một nền tiểu thuyết đã rất trưởng thành, không những bề thế về “nội dung” chính trị tư tưởng mà về “hình thức” văn chương cũng ở một tầm cao chí ít là xứng đáng kế tục được đẳng cấp nghệ thuật của thời kỳ tiểu thuyết trước.
Ngày nay, như là để đối ngược lại với những ngợi ca quá mức và sáo mòn, bất biến và một chiều, đã phải mệt mỏi đọc mãi trong sách giáo khoa, trong các bộ sách lý luận văn chương chính thống đồ sộ, trong suy nghĩ của nhiều nhà văn và nhà phê bình thời bây giờ đã dần hình thành xu hướng chê bai và phủ nhận cũng rất là một chiều và đầy thiên kiến đối với văn học trước Đổi Mới. Có lẽ do đã không hoàn toàn thấu hiểu bản chất niềm thống thiết trong bài “Ai điếu...” nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Minh Châu nên nhiều người đã quy hai chữ “minh họa” cho mọi nhà văn, mọi tác phẩm, mọi giai đoạn văn học trước Đổi Mới.
Theo tôi, thời kỳ mười năm hòa bình đáng được gọi là Thời Tiểu thuyết của văn học Việt. Bởi vì tính cho đến tận hôm nay thì đấy vẫn là thời thịnh nhất của tiểu thuyết. Đáng tiếc là hình như các nhà tiểu thuyết thời bây giờ đã không thấy được các giá trị văn chương kinh điển bậc thầy mà mình cần phải học, cần tiếp thu từ các tiểu thuyết thời ấy. Lạ thay, tiếng là văn học “một chiều phục vụ chính trị”, mà các tiểu thuyết lớn thời đó lại “vị nghệ thuật” hơn hẳn. Bút pháp tiểu thuyết, cấu trúc, ngôn ngữ tiểu thuyết đều ở tầm cao và thậm chí hiện đại hơn hẳn hầu hết văn chương hiện đại bây giờ.
Thời kỳ tiểu thuyết quan trọng ấy đã không được người thời nay, nhất là các nhà văn, đọc kỹ, hiểu đúng. Không ít những tiểu thuyết hay, thậm chí kiệt tác đã mất bóng một cách khó hiểu và đáng tiếc vô cùng.
Chẳng hạn Đất lửa của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, đấy là một kiệt tác của không chỉ tiểu thuyết giai đoạn đó, của không chỉ tiểu thuyết Việt Nam. Một tiểu thuyết lớn và tuyệt hay. Vậy mà, độc giả trẻ thời may có được bao nhiêu người từng nghe nói tới tác phẩm ấy?
Thiết nghĩ, một nhà văn thời nay nếu chưa đọc kỹ Đất lửa, Đất nước đứng lên, Xung kích, Vỡ bờ, Sóng gầm... thì có lẽ là thực sự tự làm mất đi những nền tảng ban đầu để có thể bắt tay vào viết tiểu thuyết.
Văn Nghệ Trẻ, số 43, 2005, ký tên Bảo Ninh