← Quay lại trang sách

Cách tìm thủ phạm

Đoàn viên chức cảnh sát Panacôrôgia sang thực tập một khoá huấn luyện sáu tháng ở Cục điều tra liên bang Mỹ. Tháng cuối cùng được dành riêng cho việc huấn luyện sử dụng một thành tựu mới nhất của khoa hình phạm học, đó là chiếc "Máy phát hiện nói dối". Ngài Harri Oenxơ, giảng viên phụ trách lớp học, nói với sáu nhân viên cảnh sát Paricôrôgia đang lắng nghe thầy hết sức chăm chú:

- Thưa các ông! Đề tài buổi học hôm nay là "Máy phát hiện nói dối" một công cụ hỗ trợ đắc lực cho cảnh sát trong quá trình điều tra và xét hỏi. Chiếc máy do các nhà bác học Mỹ thiết kế, sẽ giảm nhẹ công việc cho chúng ta rất nhiều. Thí dụ ta có 10 người bị tình nghi phạm tội. Ta chỉ việc đấu chiếc máy này vào từng người, rồi tiến hành hỏi cung. Máy sẽ phát hiện ra những lời khai dối trá, giúp chúng ta tìm đúng thủ phạm.

Ngài Harri Oenxơ ra lệnh mang "Máy phát hiện nói dối" tới và tiếp tục bài giảng:

- Như các ông thấy đây, chiếc máy nhỏ này có bốn chiếc đồng hồ đo. Bây giờ chúng ta sẽ tiến hành thí nghiệm với một phạm nhân.

Người ta dẫn một người đàn ông ăn mặc chải chuốt, cao chừng 1m92. Ngài giảng viên chỉ vào chiếc ghế bảo anh ta ngồi xuống, rồi giảng giải:

- Chiếc đồng hồ thứ nhất được đấu vào rốn phạm nhân, cái thứ hai với tim, cái thứ ba vào đầu, và cái thứ tư vào xương cụt. Ta đều rõ rằng con người thường có những phản ứng rõ nhất ở bốn điểm đó. Nếu kẻ phạm tội khai man trá thì ở vùng rốn của hắn sẽ toát mồ hôi. Máy sẽ phát hiện ngay lập tức, nó có khả năng phản ứng rất nhạy với bất kỳ hiện tượng chảy mồ hôi nào cho dù rất ít, ở nơi kín đáo nhất và mắt thường không thấy được. Trong khi đó kim đồng hồ đo tim sẽ quay, kim đồng hồ đo đầu sẽ vẽ đường cong, và chuông của đồng hồ nối với xương cụt sẽ kêu khi phạm nhân bị kích thích mạnh. Như vậy, ta có thể xác định chính xác kẻ bị tình nghi phạm tội hay vô tội. Thưa các ông! Giờ ta bắt đầu cuộc thí nghiệm. Bị cáo mà chúng ta đem ra thử trên "Máy phát hiện nói dối" tên là Ferra Putriano, công dân Mỹ gốc Italia. Bố đẻ ra cụ cố ông ta bị kết án vì tội ăn cướp tàu biển và tội đồng loã trong nhiều vụ cướp biển khác, và tội dùng vũ lực bắt ba người bạn của mình ngồi lên một cọc nhọn, sau đó chạy sang Mỹ tìm sự bảo hộ của công lý và luật pháp ở đây. Con người độc ác ấy sau khi giết chết tám người bạn cùng đi đào vàng, thì bị người thứ chín hạ sát, để lại một người con trai, tức ông nội của ngài Ferra Puatrino của chúng ta đây, người có công tạo ra việc làm cho cảnh sát Mỹ. Ferra Puatrino lần đầu phạm tội cướp nhà bưu điện vào năm mười ba tuổi. Sau hai năm bị giam giữ ở trại cải huấn, hắn tham gia hoạt động trong các băng cướp Ancapôn và Dihige, mở một sòng bạc, rồi hoạt động riêng rẽ và trở thành thủ lĩnh một băng cướp có mạng lưới hoạt động rộng rãi khắp bang Chicago. Cho đến nay Ferra Puatrino đã bắt cóc 4 trẻ em, 20 phụ nữ, ăn cướp 100 nhà băng, buôn hàng cấm, gây ra hai vụ án mạng, buôn bán phụ nữ da trắng. Khi về già không còn thiết tha gì với những phi vụ làm ăn bất chính, vì quá mỏi mệt, và sau khi "an dưỡng" bốn năm ở trại giam Xing- Xing, Ferra Puatrino trở về con đường làm ăn lương thiện và trở thành một trong những nhà kinh doanh nổi tiếng của Mỹ. Ông có công ty riêng ở phố Uôn. Ông là chủ một tờ báo và ba tạp chí, là giám đốc hãng chế tạo thép từ sắt tây và là hội viên của bốn hiệp hội khác. Ông còn góp cổ phần vào một nhà băng, mà có thời ông đã từng đến cướp của.

Một trong sáu cảnh sát của nước Panacôrôgia hỏi ngài Harri Oenxơn:

- Thế hiện nay ông Ferra Puatrino bị kết tội gì?

Ngài giảng viên đáp:

Ông ta phóng xe với tốc độ 121 cây số/giờ trên đoạn đường cấm không được phóng nhanh quá 120 cây số giờ.

Cảnh sát Panacôrôgia bị một phen chưng hửng, họ cứ nghĩ là tội ác gì đó ghê gớm lắm, chứ ngờ đâu lại là sự vi phạm nhỏ nhặt này. Ngài Harry Oenxơ nói tiếp:

- Cảnh sát không tìm được người vi phạm, nên chúng tôi cho gom tất cả những người tình nghi đến đây để xác minh. Bây giờ, chúng tôi sẽ làm cuộc thí nghiệm cuối cùng với ngài Ferra Puatrino đây. Nói xong, ngài giảng viên cắm phích điện vào ổ cắm và bật công tắc máy, rồi quay sang hỏi phạm nhân:

- Ngài Ferra Puatrino! Hôm thứ năm ngày 19 tháng ba, vào hồi 14 giờ 31 phút 13 giây, ngồi sau tay lái chiếc xe "Rol - Roixơ" màu xám nhạt bên cạnh cô nhân tình thứ mười bốn của mình là Ana, mặc bộ quần áo thể thao màu xanh da trời, thắt cà vạt đỏ chấm trắng mà hiện nay ông đang đeo dây, trên đoạn đường phố số 159 ông đã phóng với tốc độ cấm 121 kilômét giờ, có đúng không?

- Không!

Khi Ferra Putrino trả lời "không" thì kim đồng hồ đo rốn dãy nảy lên, kim đồng hồ đo tim vẽ đường cong, kim đồng hồ đo đầu ghi hình dao động và chuông đồng hồ nối với xương cụt reo vang. Ngài Harri Oenxơ quay lại nói với các cảnh sát Panacôrôgia:

- Các ông thấy chưa, Ferra Puatrino nói dối, máy đã vạch trần sự man trá của ông ta!

Tất cả sáu cảnh sát Panacôrôgia nhất loạt nói:

- Máy này dùng bên chúng tôi sẽ không hiệu nghiệm! Mà hơn nữa các phương pháp xét hỏi truyền thống của chúng tôi còn tốt hơn máy này một trời một vực!

- Không thể thế được! - Ngài Harry Oenxơ nói. - Máy này dùng ở bất kỳ nước nào đều cho kết quả như nhau cả.

- Nhưng ở nước chúng tôi sẽ không có tác dụng! - Cảnh sát Panacôrôgia cố cãi lại:

Những lời quả quyết này của họ khêu gợi tính tò mò của ngài Harry Oenxơ. Ông quyết định xin Cục điều tra liên bang cho nghỉ phép để sang Panacôrôgia. Tại Cục an ninh quốc gia Panacô-rôgia người ta dẫn một người đến gặp ngài Harri Oenxơ. Giống như ngài Harri Oenxơ đã đưa Ferra Puatrino giới thiệu với họ, cảnh sát Panacôrôgia cũng đưa một tội phạm của mình ra giới thiệu với chuyên gia Mỹ.

- Người này có biệt hiệu là "Sói" Hakiđili. Hắn đã giết vợ, mẹ vợ, em vợ và hai người hàng xóm. Đây là bản tự thú của hắn....

Ngài Harri Oenxơ chăm chú đọc lời khai của kẻ sát nhân. Quả thực hắn đã thú nhận giết năm người, và chính tay hắn đã ký vào bản tự thú này.

Cảnh sát Panacôrôgia nói với ông người Mỹ:

- Bây giờ ngài sẽ dùng chiếc máy của mình để hỏi thử xem hắn trả lời thế nào.

Ngài Harri Oenxơ mở máy và hỏi phạm nhân:

- Có đúng anh là "Sói" Hakiđiki đã đâm chết vợ, mẹ vợ, em vợ và hai người láng giềng không?

- Không!

- ồ, kỳ lạ quá! Kim đồng hồ không cái nào chỉ, không vẽ đường cong, chuông cũng không kêu nốt.

- Đ...ú..ú..ng! - Ngài Harri Oenxơ kéo dài giọng. - Quả thật ở đây chiếc máy này không còn hiệu nghiệm. Nhưng tại sao lại như thế?

Một cảnh sát Panacôrôgia trả lời:

- Vì tôi sống quá đắt đỏ, dân chúng tôi phải thắt bụng chặt quá nên rốn của họ không thể toát mồ hôi ra được. Thế còn tim họ không thấy đập nhanh lên là bởi một lý do rất đơn giản: dân chúng lúc nào cũng lo nơm nớp sợ bị ô tô, xe điện cho về chầu giời, hay đang ngồi trên xe cũng vậy, bởi vì đường vừa hẹp lại vừa xấu nên chẳng còn gì khiến họ sợ hãi nữa. Các câu hỏi của ông chẳng thấm tháp gì, chẳng đáng cho họ hồi hộp. Giờ chúng tôi sẽ giải thích tại sao kim đồng hồ đo đầu không làm việc: Vì ngày nào người ta cũng nói dối nhau. Vợ dối chồng, chồng dối vợ, người bán hàng dối người mua hàng, người mua hàng dối người bán hàng, chủ nhà nói dối người thuê nhà và người thuê nhà nói dối lại chủ nhà... nghĩa là tất cả đều dối trá lẫn nhau, lừa lọc lẫn nhau; thế thì đứng trước cái máy của ông, họ nói dối thêm một lần nữa cũng chả là gì cả... Còn cái xương cụt thì... chả là gì để nói. Tại vì xô đẩy nhau, chen lấn nhau để vào sân xem bóng đá, đấm đá nhau tùm lum để vào nhà hát, mài đũng quần trên các ghế băng hết ngày này sang ngày khác để chờ xin việc, nên xương cụt của họ hết cảm giác, không chịu phản ứng gì nữa. Nhất là những kích thích nhẹ như thế thì ăn nhằm gì.

Nghe xong những lời giải thích này, ngài Harri Oenxơ "Sói" Hakiđiki:

- Vừa rồi anh đã giải quyết rằng anh không có tội. Thế tại sao trong lời khai, anh lại thú nhận tội là đã giết năm người và ký tên đàng hoàng phía dưới.

"Sói" Hakiđiki nói:

- Nếu họ hỏi cung ông, xem ông có khai ra không nào!

Ngài Harri Oenxơ hỏi các cảnh sát:

- Làm sao các anh tóm được hắn?

- Rất đơn giản! - Các cảnh sát trả lời. - chúng tôi được báo tin là ở một nhà kia tuần trước có năm người bị giết. Mười lăm ngày sau khi nhận được tin này chúng tôi khẩn trương bắt tay vào điều tra. Chỉ ít phút sau khi tìm kiếm, chúng tôi đã phát hiện ra những xác chết đã thối rữa trên nền nhà, nhưng hung thủ không có ở đấy. Bởi vì có những năm người bị giết, nên chắc chắn phải có người giết họ. Chúng tôi ra thông báo "Kẻ giết người hãy ra đầu thú cảnh sát!". Hung thủ không ra đầu thú. Chúng tôi cho đăng lệnh truy nã hung thủ trên các báo. Vẫn không thấy tăm hơi. Cho dán áp phích khắp nơi: "Ai tìm được hung thủ sẽ có tặng thưởng". Vẫn chẳng ăn thua gì. Chúng tôi đã tiến hành mọi biện pháp có thể tiến hành rồi! Giờ thì đừng ai trách chúng tôi nữa nhé!", - Chúng tôi tuyên bố như vậy là bắt đầu tóm cổ tất cả những người nào hao hao giống tội phạm. Tất nhiên trăm bó đuốc cũng phải bắt được một con ếch. Nó có chạy đằng trời! Chúng tôi hỏi cung theo phương pháp riêng của chúng tôi. Cuộc hỏi cung vẫn đang tiếp diễn, nhưng cho đến hôm nay đã có chín tên thú nhận phạm tội giết người. Tên "Sói" này là một trong số đó.

Ngài Harri Oenxơ trợn tròn mắt ngạc nhiên.

Các ông có thể thử phương pháp riêng ấy với tôi được không? - Ông ta hỏi.

- Tất nhiên được chứ! - Các cảnh sát trả lời. - Hãy chờ chúng tôi một lát. - Nào, xin mời ngài. Đây là tám phòng đặc biệt của chúng tôi...

Ngài Harri bước vào phòng đầu tiên.

Mười phút sau từ trong phòng vọng ra tiếng la hét, tiếng van xin, tiếng khóc thảm thiết, rền rĩ xen trong những tiếng chát chúa khác. Lát sau, ngài Harri lao trong phòng ra như tên bắn, vừa chạy vừa la:

- Thôi không phải xem phòng khác nữa!

Nhân viên của Cục điều tra liên bang Mỹ vừa tự thú rằng, chính ông là "Sói" Hakiđiki đã giết chết năm người và đã ký tên vào bản tự thú.

Các cảnh sát nói với ngài chuyên viên Mỹ:

- Thế là chúng tôi tìm được mười tên giết người. Ông chính là tên thứ mười! - Rồi họ nói thêm:

- Ông đánh giá thế nào về phương pháp của chúng tôi?

- Tuyệt vời.

Khi chia tay với ngài Harri Oenxơ, các cảnh sát Panacôrôgia nói với ông:

- Đối với chúng tôi, tìm thủ phạm không khó. Cái khó là làm sao tìm được tội ghép cho họ. Giá như các ông sáng chế ra được cái máy có thể thay chúng tôi tìm cho mỗi tên tội phạm tóm được một tội thì hay vô cùng.