Miếng sắt tây gỉ trong quốc khố
Ngày xửa ngày xưa ở một nước nọ, tài nguyên của cải chẳng có gì cả. Nước đó có một ông vua. Ông vua có quốc khố. Trong quốc khố, theo truyền thuyết kể lại, có lưu giữ một báu vật vô giá, duy nhất. Dân chúng vô cùng tự hào bởi báu vật này được tổ tiên truyền lại cho họ. "Dù cho chúng ta không có gì, nhưng được tổ tiên để lại cho thế hệ con cháu gìn giữ vật báu này là vô cùng vinh dự rồi", - họ tự khoa trương như thế để quên đi những thiếu thốn, mất mát của mình.
Vì vật báu này không phải của một ngươi và cũng không phải của hai người, mà thuộc sở hữu của toàn dân, nên ai cũng cho rằng mình cũng có phần trong đó và ai cũng ra sức bảo vệ giữ gìn nó.
Báu vật là tài sản của toàn dân nên nơi bảo quản thích hợp nhất là quốc khố của nhà vua. Lính canh suốt ngày đêm canh phòng cẩn mật quốc khố. Thậm chí một con chim sâu cũng không thể bén mảng tới gần khu kho này được.
Nhà vua, quan tể tưởng và các chức sắc quan trọng khác trong triều đình, hàng năm vào một ngày nhất định, đều tiến hành tuyên thệ trung thành với báu vật thiêng liêng, di sản để lại của tổ tiên.
Một hôm nhà vua bỗng thấy muốn biết vật thiêng ấy là gì mà dân chúng lại rất quý trọng và gìn giữ như con ngươi mắt mình thế. Ước muốn đó ngày càng tăng lên mãi, đến khi không kìm nén được nữa, ông quyết định đến quốc khố để xem vật báu. Lính canh mời nhà vua vào kho. Nhà vua, quan tể tướng, các quan thượng thư luôn được tự do vào đó để kiểm tra xem báu vật có còn tại chỗ hay không. Muốn được xem tráp đựng báu vật phải qua phòng thứ nhất, sang phòng thứ hai, thứ ba cứ thế hết bốn mươi phòng đến phòng bốn mươi mốt mơi đến chỗ để tráp. Tráp cũng thế, cái to nằm ngoài cái bé nằm trong, cái nào cũng khoá và chỉ mở đến cái tráp thứ bốn mươi mốt mới tới tráp có chứa vật báu.
Nhà vua mở cánh cửa phòng bốn mươi, bước sang phòng bốn mươi mốt. Tại đây ngài lần lượt mở hết bốn mươi cái tráp bên ngoài. Tim ngài đập rộn lên khi bắt đầu sờ tay vào chiếc tráp cuối cùng. "Chẳng hiểu đây là vật gì mà được gìn giữ kỹ càng đến thế trong suốt không biết bao nhiêu năm ròng?" – Nhà vua hồi hộp tự nhủ thầm.
Cuối cùng khi bật nắp chiếc tráp nhỏ nhất ra, thì một vật đẹp lạ lùng chưa từng thấy bao giờ trên trái đất hiện ra, trông nó như một ngọn lửa nhỏ màu sắc rực rỡ đang cháy, vàng không phải, platin không phải, bạc thì không nói tới rồi. Trước vật quý, nhà vua không tránh được sự cám dỗ của nó. "Báu vật này do cha ông truyền lại cho ta. Ta giữ lại làm của riêng. Chỉ thuộc quyền riêng một mình ta. Đằng nào thì cũng không ai biết!".
Nhà vua cầm lấy báu vật trông như một mảnh mặt trời đang rực sáng ấy và bỏ vào túi. Lúc này bỗng một nỗi sợ hãi tràn ngập trong lòng: Nếu nhỡ ra ai đó bỗng phát hiện ra mình lấy cắp vật báu? Thế là nhà vua bèn quyết định: "Ta cứ lấy vật báu rực rỡ này và để thay vào đó một thỏi platin được trang trí bằng những viên hồng ngọc, kim cương, ngọc bích. Đã có ai thấy vật báu đâu mà biết nó đã bị tráo". Nhà vua đã làm đúng như thế. Lấy được vật báu rồi nhưng bỗng ngài lại nghĩ: có gì đảm bảo rằng sự đánh tráo này không bị phát hiện. Thế là để không ai biết mình đã lấy trộm vật báu, nhà vua liền ban lệnh: từ nay mỗi năm hai lần tuyên thệ trung thành với vật thiêng chứ không tuyên thệ có một lần như trước. Từ bấy đến giờ cứ vào những ngày nhất định, nhà vua lại cùng quần thần và toàn bộ dân chúng một năm để tuyên thệ giữ gìn nguyên vẹn vật thiêng do cha ông để lại.
Quan tể tướng là người đa mưu túc trí. Ông bắt đầu suy đoán, vì nguyên nhân nào mà nhà vua bỗng nhiên tăng lần tuyên thệ lên hai lần một năm, mà trước kia chỉ có một lần là đủ. "Chẳng hiểu đây là vật gì mà được giữ gìn kỹ càng đến thế trong suốt bao nhiêu năm ròng?" – Quan tể tướng nghĩ vậy. Ý nghĩ đó nung nấu mãi trong đầu ông. Cuối cùng không kìm nén nổi tính tò mò, quan tể tướng quyết định đến quốc khố. Sau khi đi qua bốn mươi phòng và mở bốn mươi cái tráp ngoài, ông đã được chiêm ngưỡng di vật. Thỏi Platin to nạm hồng ngọc, kim cương, ngọc bích mà nhà vua đánh tráo vật thiêng liêng để vào đó đã làm quan tể tướng sửng sốt. "Ta sẽ lấy vật báu này, - quan tể tướng nhủ thầm, - và để thay vào đó một cục vàng nạm ngọc. Nào ai đã biết vật thiêng liêng thế nào mà phát hiện ra nó đã bị đổi".
Quan tể tướng nói thế nào làm thế ấy. Nhưng trong bụng lại sợ bị phát giác bèn tâu vua cho tuyên thệ tăng lên. Thế là từ đấy trở đi bắt đầu tuyên thệ bốn lần vào mùa hạ, mùa đông, mùa xuân, và mùa thu.
Một trong số các quan thượng thư, vốn là người sáng trí, bắt đầu suy diễn ra phải tuyên thệ những bốn lần trong một năm, trong khi vừa rồi vẫn chỉ có hai lần một năm? Không nói với ai nửa lời, một hôm ông ta lợi dụng quyền được kiểm tra, đã vào nơi cất giữ báu vật. Đi qua bốn mươi phòng, mở bốn mươi mốt tráp khi nhìn thấy cục vàng được nạm những viên đá quý óng ánh đẹp mắt, ông liền nẩy ra ý nghĩ: "Nếu như ta lấy cục vàng này giữ làm của riêng và thay vào đó bằng cục bạc, ai mà biết được?" Ông ta đã thực hiện ý nghĩ ấy.
Sợ bị phát hiện, quan thượng thư bắt dân chúng hàng tháng phải thề trung thành với báu vật. Đó là cách để ông chứng minh lòng trung thành của mình đối với di vật thiêng liêng. Từ đấy dân chúng mỗi tháng một lần tập trung trên quảng trường thề nguyện chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ lấy thánh vật.
Quan thượng thư triều đình cũng ngầm hiểu lý do tăng số lần thề nguyện đó. Ông ta nghĩ bụng "Chắc có chuyện gì đó không ổn, ta phải đến đó xem sao". Ông đi qua bốn mươi phòng và mở chiếc tráp bốn mươi mốt thì thấy báu vật. Quan thượng thư rất thích tặng vật của tổ tiên bèn nghĩ "Nếu ta lấy cục bạc này làm của riêng, rồi đặt cục đồng vào tráp thay thế, ai mà biết được?". Nghĩ thế nào ông làm thế ấy. Và cũng sợ bị phát giác nên ông bắt mọi người hàng tuần phải thề nguyện giữ gìn vật báu.
Viên đội trưởng đội lính canh phòng bảo vệ quốc khố cũng nghĩ: Sao lại phải thề mỗi tuần một lần, ta phải vào xem trong đó giấu cái gì!"
Cũng như mọi người khác, hắn cũng đi qua bốn mươi phòng để đến phòng cuối cùng mở bốn mươi mốt chiếc tráp, và thấy một cục đồng đỏ au. Mắt hắn sáng lên sung sướng. "Ta sẽ đổi sắt lấy đồng! Đằng nào thì cũng không ai biết!"
Hắn nghĩ thế nào thì làm thế ấy. Nhưng sau đó hắn thấy áy náy, không yên tâm, bèn ngày nào cũng thề, cố chứng minh rằng mình không hề tiếc công, tiếc sức và tiếc ngay cả tính mạng để quyết giữ bằng được vật báu thiêng liêng này.
Sau đó một thời gian, trong dân chúng có người đưa ra ý kiến:
- Nhiều năm qua chúng ta đã thề nguyện không tiếc sức, tiếc tính mạng quyết giữ gìn di vật mà tổ tiên đã truyền lại cho chúng ta. Nhưng thử hỏi: nào ai trong chúng ta biết báu vật đó là gì, và có còn trong quốc khố không? Vì chúng ta có được trực tiếp giữ gìn đâu. Ta phải tìm hiểu thế nào chứ. Chúng ta cùng đến quốc khố mở tráp ra xem đó là vật thiêng gì mà ta phải giữ gìn một cách cẩn trọng như thế.
Những lời này chẳng khác gì tiếng sét nổ giữa một ngày nắng đẹp. Nhà vua dẫn đầu tất cả những kẻ đã đánh tráo vật báu, xông đến người đã dám đưa ra ý kiến hỗn xược chưa từng thấy này. Tất cả những kẻ đánh tráo vật báu đều nghĩ là chỉ có một mình làm việc đó, không hề biết đến những vụ đánh tráo khác, nên họ rất sợ bị vạch mặt.
Để tránh hậu hoạ, họ xúm vào buộc tội kẻ dám lăng nhục vật báu thiêng liêng của cả quốc gia:
- Chà chà, mi là quân vô lại! Cái hạng mi mà lại dám đòi xem vật báu thiêng liêng của quốc gia. Những kẻ đánh tráo giải thích cho dân chúng hiểu rằng: người đưa ra ý kiến kiểm tra vật báu là kẻ phạm tội. Họ đã chuẩn bị đưa anh ta ra xử trảm. Nhưng nhà vua đã can thiệp ngay:
- Nếu giết nó thì phải làm đúng theo luật pháp.
Thế là họ tạm hoãn để ra một sắc lệnh đặc biệt. Sau đấy kẻ phạm tội mới bị xử trảm theo đúng lệnh này.
Mặc dù người nói ra ý định trên đã bị giết, nhưng lời nói của anh thì không thể dập nổi. Nó được truyền đi từ người này sang người khác, lan rộng ra khắp mọi nơi.
Và lại xuất hiện một người nữa có ý định xem vật báu, lúc này đã được canh phòng nghiêm ngặt hơn trước rất nhiều. Biết việc làm này là cực kỳ nguy hiểm, nhưng anh ta vẫn tin vào sự khéo léo của mình. Mặc dù nhà vua, quan tể tướng, quan thượng thư và những kẻ đánh tráo khác sợ bị vạch mặt, nên đã bố trí thêm người canh gác và bản thân họ cũng rất sốt sắng để mắt tới việc này, nhưng kẻ đột nhập vẫn lọt vào được nơi cất giữ báu vật. Nhưng thật không may, đúng lúc anh ta đã cầm được báu vật trong tay thì bị bắt. Than ôi! Đó chỉ là miếng sắt tây gỉ mà tên trộm cuối cùng đã để lại trong tráp.
- Vật thiêng đâu lại thế này! – Viên đội trưởng đội lính canh nhìn mảnh sắt tây gỉ kêu lên ngạc nhiên.
- Không phải vật này! – Quan thượng thư triều đình kêu lên.
- Không phải vật này! – Quan tể tướng lắc đầu kêu lên.
- Kh-ô-ô-ng- ph-ả-ả-i! – Nhà vua và tất cả các vị cùng nhìn nhau đồng thanh kêu to.
Đến lúc này người đột nhập vẫn còn cầm miếng sắt tây gỉ trong tay cũng kêu lên.
- Nhưng làm sao mà các ngài biết được vật này không phải di vật thiêng liêng. Nghĩa là các vị đã được nhìn thấy báu vật thật?
Không một ai đáp lại được lời nào. Tất cả các vị đều hiểu vật mình để lại đã bị kẻ khác tiếp sau đánh tráo. Sau khi trừng trị một cách nhanh chóng kẻ bị bắt giwx, họ cho lại miếng sắt tây gỉ vào tráp con rồi lồng vào cái tráp lớn như cũ. Để cho yên lòng, họ soạn thảo ra điều luật mới về giữ gìn di vật thiêng liêng.
Theo luật này thì từ nay toàn thể dân chúng phải tuyên thệ ba lần trong ngày: sáng, trưa, tối.
Dân chúng tuân thủ luật lệ một cách nghiêm túc. Và không một ai trong số những người dân ngày ngày thề nguyện đầy lòng thành tâm đó biết rằng: vật thiêng mà họ quyết giữ gìn cẩn trọng đó chỉ là miếng sắt tây gỉ.