← Quay lại trang sách

Chương 3 Chim thiêu thân

Khi nhận ra, tôi đã ở trong căn phòng này cùng một người đàn ông và một người phụ nữ.

Chiếc lồng đặt ở góc căn phòng rộng là nơi ở của tôi. Từ chỗ này nhìn ra, thấy chiếc giường được che bởi tấm rèm màu tím nhạt.

Cho đến ngày hôm đó tôi chưa từng nhìn thấy một vật sống nào khác ngoài chính bản thân, nên tôi đã nghĩ mình có cùng hình dáng, cùng giống loài với những người ở bên ngoài chiếc lồng. Nhưng tôi cũng không cho rằng đó là điều gì hạnh phúc.

Người đàn ông có nước da đen, thân hình to lớn. Người phụ nữ có nước da trắng, thân hình nhỏ nhắn. Nhìn vẻ bề ngoài người đàn ông có vẻ mạnh mẽ hơn, nhưng những tiếng than khóc tôi nghe được thì đều là từ anh ta.

Anh yêu em, anh yêu em.

Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra sau tấm rèm. Vừa nghe giọng thều thào như nghẹt thở của người đàn ông, tôi vừa suy nghĩ về ý nghĩa của câu nói ấy.

“Anh yêu em” rốt cuộc là gì? Càng suy nghĩ, tôi càng không hiểu. Chắc hẳn thế giới mà tôi đang sống không liên quan gì tới cái gọi là “Anh yêu em”. Tôi được người phụ nữ cho ăn, khi hứng thú tôi hót, hoặc ngủ. Cuộc sống như vậy thì có liên hệ gì với “yêu” cơ chứ?

Bởi tôi cũng chưa bao giờ thét lên đau đớn như người đàn ông kia.

Ngày hôm đó, chiếc lồng của tôi được mang ra cạnh cửa sổ. Người phụ nữ nói muốn cho tôi tắm nắng. Ban đầu tôi không mở được mắt vì nắng chói và muốn trở về chỗ ở cũ. Nhưng khi được bầu không khí ấm áp bao trùm cơ thể, tôi dần cảm thấy dễ chịu. Khi đôi mắt đã quen với ánh sáng một chút, tôi thấy cảnh tượng trước mắt mình mới tuyệt vời làm sao.

Ngoài cửa sổ tràn ngập màu sắc, thi thoảng tôi nhìn thấy những vật đang chuyển động.

“Thế giới bên ngoài thật đẹp phải không? Tất cả đều là của em đấy.”

Người phụ nữ đến bên cạnh cửa sổ và nói với tôi.

“Đẹp quá.”

Nghe tôi đáp lại, người phụ nữ mỉm cười nói “Đừng sợ mà”. Thỉnh thoảng tôi nghĩ người phụ nữ không hiểu ngôn ngữ của tôi. Như vậy thật là chán ngắt, nhưng vẫn đỡ hơn phải kêu la đau đớn như người đàn ông.

Người phụ nữ ngước nhìn lên bầu trời bên ngoài.

“Những chú chim đang bay kìa.”

Những con vật đang dang rộng tay bay lượn trên bầu trời kia... là chim sao? Tôi nhìn cánh tay của mình, cánh tay trắng nhỏ. Trước đây tôi đã luôn nhìn người đàn ông và người phụ nữ, tự hỏi tại sao chỉ mình tôi bé nhỏ như vậy... Bởi vì tôi không phải là một sinh vật sống cùng loài với họ.

Tôi là thứ được gọi là “chim”. Người phụ nữ quay về phía người đàn ông.

“Anh có biết... nếu có kiếp sau em muốn trở thành gì không?”

Người đàn ông đang tựa mình gật gù trên chiếc ghế sô pha bằng da giữa phòng bất giác nhổm người dậy.

“Kiếp sau gì chứ... Em đừng nói gở.”

Anh ta gượng gạo bắt tréo chân.

“Em có nói là bây giờ đâu. Nhưng con người ai cũng có lúc phải chết. Em hỏi là hỏi cho lúc đó cơ. Nếu yêu em, chắc anh cũng hiểu phải không?”

Thấy cô ấy nở nụ cười tươi tắn, người đàn ông nuốt nước bọt đánh ực.

“Ừ, đương nhiên anh hiểu. Em... muốn trở thành chim phải không?”

“Em biết anh sẽ nói vậy mà!”

Người phụ nữ nói như thét lên. Nụ cười bỗng tan biến đi. Gương mặt người đàn ông méo xệch.

“Không phải à?”

“Em biết mà. Anh chẳng yêu thương gì em. Anh chỉ đang giả vờ yêu em thôi.”

Cô ấy rời khỏi bậu cửa sổ, tiến về phía người đàn ông, ngồi lên đùi và lấy hai tay áp vào má anh ta.

“Anh không lừa được em đâu. Vô ích thôi.”

“Sao em lại nói vậy? Anh yêu em. Anh phải nói trăm lần, mấy nghìn lần nữa em mới chịu tin? Anh đã làm tất cả theo ý em. Anh đã vứt bỏ gia đình, vứt bỏ danh tiếng, chẳng phải anh cũng đã hứa sẽ cho em tất cả tài sản rồi sao?”

“Nhưng những việc đó đâu có gây đau đớn thể xác. Còn em, em đã vì anh mà phải vượt qua nỗi đau như cào xé.”

“Anh rất biết ơn em vì điều đó. Tự trong đáy lòng... Anh rất yêu em.”

“Vậy anh hãy chứng minh cho em xem.”

“Em thực sự muốn vậy à?”

“Vâng, thực sự.”

“Nếu làm vậy mà em chịu tin anh thì được.”

Anh ta tựa lưng vào xô pha, mặc cho người phụ nữ muốn làm gì thì làm. Cô ấy cởi từng chiếc khuy áo, để lộ bộ ngực đen sạm của anh. Trên ngực anh ta là những vết màu tím thâm giống như những đường vân.

Khi nhìn thấy chúng, tôi đã thấy chúng thật là xấu xí. Vậy mà cô ấy lại chăm chú nhìn như thể chúng rất đẹp đẽ, rồi cô nhẹ nhàng vuốt ve những đường vân ấy.

Sau khi vuốt ve xong, cô ấy lấy bật lửa từ túi chiếc áo sơ mi đang phanh ra của anh ta, châm nến sáng rực lên chiếc chân nến bằng bạc đặt trên bàn kính.

Ngọn lửa đỏ lập lòe, sáp nến chảy ra. Cô ấy cầm chân nến lên, nhỏ sáp nến nóng chảy vào những phần chưa có đường vân trên ngực anh.

Người đàn ông nhăn mặt, anh ta rên lên đau đớn. Những tiếng kêu rên quen thuộc.

“Anh yêu em. Anh yêu em. Anh yêu em.”

“Em cũng yêu anh. Em thật lòng yêu anh.”

Đặt chân nến xuống, người phụ nữ dùng hàm răng trắng và cái lưỡi đỏ tách sáp nến đã đông cứng trên ngực người đàn ông. Vừa làm cô vừa luôn miệng nói “Em yêu anh”.

Đây là thứ gọi là “yêu” sao? Mỗi ngày hai người này đều làm như vậy phía sau tấm rèm. Chẳng có gì dễ chịu cả, nhưng không hiểu sao hai người họ vẫn làm. Liệu có phải người ta cần đến “yêu” để sống không?

Có phải vì tôi là chim nên mới không hiểu nổi?

Khi tôi to lớn hơn, người phụ nữ thả tôi trong phòng. Tối đến tôi phải quay trở lại lồng nhưng cả ngày được ăn ở bàn và bay nhảy tự do. Vì vậy mỗi lần nghe thấy “Anh yêu em” tôi lại nấp vào góc giường để không phải chứng kiến cảnh đó.

Hình như người đàn ông biến mất cũng trong khoảng thời gian này.

“Anh đi mua thuốc lá đây”. Buổi sáng hôm đó anh ta nói vậy và đi ra ngoài.

Buổi tối hôm ấy người phụ nữ cầm chiếc chân nến đập nát đồ đạc trong phòng, tất cả đều vỡ vụn như đang trong cơn cuồng phong. Chiếc bàn kính vỡ, chiếc rèm màu tím nhạt rách tả tơi, từ trong lồng tôi nín thở nhìn ra. Tôi mong người đàn ông trở về để cơn cuồng phong qua đi, nhưng tôi có linh cảm anh ta mà quay về có khi nó còn dữ dội hơn, nên dần dần trong thâm tâm tôi lại mong anh hãy trốn đi. Hãy trốn đi.

Bão tố hoành hành suốt buổi tối, sau đó chuyển thành mưa rơi rả rích. Người phụ nữ ngồi trên giường, khóc không thành tiếng. Cô ta kêu gào tên người đàn ông đến mức khàn cả giọng. Trời đang vào thu, bên ngoài cửa sổ cơn mưa cũng lạnh lẽo và dai dẳng như thể chẳng muốn ngừng, đến tận sáng hôm sau mới tạnh. Tôi mở mắt thức dậy sau giấc ngủ chập chờn trong tiếng mưa vọng vào căn phòng tĩnh lặng và chút ánh sáng mờ nhạt chiếu qua khe cửa sổ. Tôi thấy đói bụng. Khi ấy tôi và người phụ nữ đã hiểu ngôn ngữ của nhau, nên nếu muốn tôi có thể dễ dàng nói với cô ấy là tôi đang đói, “Mang thức ăn cho tôi đi.”

Từ trước đến giờ mỗi lần tôi kêu đói, người phụ nữ luôn vui vẻ mang thức ăn ra bàn.

Nhưng lúc này tôi không thể làm vậy. Nhìn qua tấm rèm rách, cơ thể người phụ nữ vẫn đang run rẩy. Cô ấy mặc chiếc áo lụa màu xanh, mỗi lần người run lên chiếc áo lụa bóng cũng phập phồng theo, như một vũ điệu buồn. Nhìn cảnh này tôi đành chịu đói.

Đến tận buổi sáng hai hôm sau đó tôi mới được cho ăn. Khi đó cổ họng tôi đã khát khô, bụng đói meo, buồn nôn, mắt bắt đầu mờ đi vì mệt mỏi, có người thả tôi ra khỏi chiếc lồng.

“Chị xin lỗi nhé!”

Tôi uống nước cô ấy mang cho như thể sắp chết khát.

Người phụ nữ lấy chiếc khăn tay đẫm nước chấm vào mí mắt đang sưng đỏ. Chắc hẳn cô ấy đã quên tôi, đến khi ra khỏi giường để đi lau mắt mới nhớ ra. Thế nếu cô ấy chọn chạy ra ngoài đuổi theo người đàn ông kia thì tôi sẽ ra sao?

Đó là lần đầu tiên tôi nhận ra... rằng chính người phụ nữ này cho mình sự sống.

Cô ấy đang nhìn tôi chằm chằm bằng mí mắt vẫn sưng húp, còn tôi thì tọng đầy thức ăn vào miệng sau ba ngày đói khát.

“Đẹp quá. Đẹp thật đấy!”

Cô ấy đang nói tôi sao? “Đẹp quá” là câu mà người đàn ông hay nói với cô ấy, và thi thoảng cô ấy cũng nói như vậy khi nhìn bông hoa hoặc viên đá nhỏ mà người đàn ông tặng. Có lẽ tôi cũng là một món quà từ người đàn ông đó.

“Này! Em có yêu chị không?”

Trước đây, người được nghe câu “yêu” này là người đàn ông, nhưng bây giờ trong phòng chỉ có tôi và cô ấy. Tôi luống cuống bởi lần đầu tiên câu nói đó dành cho tôi, tôi nuốt vội thức ăn trong miệng và đáp lại.

“Em yêu chị.”

Lần đầu tôi nói ra những lời ấy, không biết cô ấy có hiểu không? Tôi nhìn người phụ nữ với tâm trạng bất an, nhưng đôi mắt sưng húp híp nhỏ hơn bình thường giờ nheo lại trông càng nhỏ thêm, vẻ mặt cô ấy đầy vui sướng. Thật may là cô đã hiểu.

“Thôi thôi, không cần vội vàng trả lời vậy đâu. Em mà không ăn từ từ là sẽ bị nghẹn đó. Nào! Hãy ăn nữa đi. Ăn thêm cũng được. Từ hôm nay chị sẽ chỉ làm những món em thích thôi.”

Cô ấy vuốt ve đầu tôi, cho tôi uống nước. Tôi cảm thấy nắm hạt nãy chưa nhai kỹ còn sót trong cổ họng đang trôi tuột vào cơ thể, nhưng thôi thế cũng được.

Khi được hỏi “Em có yêu chị không?” nếu tôi chần chừ rồi mới trả lời thì sẽ ra sao? Tôi đã nhiều lần thấy người đàn ông phải chịu hậu quả vì làm điều tương tự. Chiếc chân nến bằng bạc bị quăng quật còn đang nằm chỏng chơ dưới giường. Để tránh việc người phụ nữ cầm nó lên, châm nến và dúi vào thân mình, tôi phải trả lời câu hỏi của cô ấy ngay lập tức.

Nếu làm vậy, cô ấy đối xử với tôi cực kỳ dịu dàng.

Thế nhưng, tôi phải chú ý với những câu hỏi ngoài “Em có yêu chị không?” Dù trả lời nhanh đến mấy, nếu đó không phải câu trả lời người phụ nữ mong muốn thì cô ấy sẽ thét lên ngay lập tức, bắt tôi chứng minh và chuẩn bị châm lửa.

Thời gian trước kia, không rõ vì sao tôi đã hiểu và nhớ được những câu nói mà cô ấy thích nghe. Tôi còn nhiều lần thấy người đàn ông thận trọng lựa chọn câu trả lời, để rồi sau đó phải thất vọng vì anh ta lại chọn sai. Có mỗi thế này mà cũng không hiểu, tôi từng tự hỏi hay thật ra anh ta thích bị dụi lửa vào người nên mới cố tình trả lời sai?

Duy chỉ có một điều làm tôi lo lắng, đó là không biết người phụ nữ này có hiểu được mọi điều mà mình nói không?

Mấy ngày sau khi người đàn ông bỏ đi, chiếc lồng được mang ra khỏi phòng và tôi chuyển tới ngủ bên cạnh cô ấy.

Tấm rèm màu tím nhạt bị xé rách đã được thay mới bằng cái mới màu nước biển nhạt, cô ấy chuẩn bị riêng cho tôi cả chiếc gối êm ái. Ngày đầu ngủ cạnh cô ấy, cô ấy vuốt tay lên cơ thể tôi để ru tôi ngủ trước. Cảm giác rất dễ chịu nhưng tôi cứ lo sợ nhỡ tôi ngủ quên sẽ bị cô ấy đè bẹp, kết quả là cứ nửa tỉnh nửa mê đến sáng hôm sau. Thế nhưng khi nhìn người phụ nữ ngủ say như chết ở đúng tư thế khi vừa mới vào giường, từ tối hôm sau tôi đã có thể an tâm đi ngủ.

Tôi ngủ cạnh cô ấy, được cho ăn và khi nghe hỏi “Em có yêu chị không?” tôi vội vã trả lời “Em yêu chị” mà không cần suy nghĩ.

Khi nghe nhạc, người phụ nữ hỏi tôi “Em thích bài gì?” tôi trả lời “Tam khúc giao hưởng” và cô ấy tít mắt cười, vuốt ve đầu tôi rồi nói “Chị cũng vậy”.

Những ngày tháng ấy cứ tiếp diễn.

Sau khi tôi được thả khỏi lồng, căn phòng tôi từng thấy thật rộng cũng dần trở nên chật chội, bí bách. Cô ấy rất hiếm khi đi ra khỏi phòng, và khi đi cũng không có ý định dẫn tôi đi cùng.

“Bên ngoài căn phòng này chỉ toàn những thứ xấu xa thôi. Em không được nhìn thấy những thứ như vậy. Em ở đây đợi chị về nhé!”

Nói vậy rồi cô ấy khóa cửa đi ra ngoài. Thân hình nhỏ bé, không chút sức lực của tôi vặn tay đấm cửa đã không nổi, nói gì đến chuyện mở khóa. Nếu cửa sổ mở tôi có thể bay ra ngoài, nhưng khi đi ra ngoài cô ấy luôn khóa cửa sổ lại. Cả khi người phụ nữ ở trong phòng tôi cũng không được phép bén mảng đến gần cửa sổ.

“Trên này cao lắm. Nếu ngã xuống thì khổ.”

Mặc dù thầm nghĩ mình là chim nên làm sao ngã được chứ, nhưng tôi cũng chỉ lặng lẽ gật đầu. Trước đây có lúc người đàn ông đang cười đùa bên cạnh cô ấy, vậy mà chỉ vì nói một điều trái ý đã lại bị dụi lửa vào người.

“Sao trên bầu trời và sao trên mặt đất, em thấy sao trên mặt đất đẹp hơn.” Người phụ nữ đã nói vậy, và người đàn ông trả lời: “Anh lại thấy sao trên bầu trời rất lãng mạn.”

Tôi muốn ra ngoài, nhưng không đến mức sẵn sàng chịu bị dụi lửa. Từ chính giữa căn phòng cũng có thể nhìn thấy bên ngoài. Chỉ có điều, bầu trời xanh trong vắt kia với tôi là một thế giới khác... Tôi đành nghĩ rằng thực ra nó cũng chỉ là tấm rèm khác, treo ở bên ngoài cửa sổ để che chắn những thứ xấu xa.

Một tối, tôi bừng tỉnh dậy vì tự nhiên thấy lạnh người.

Người phụ nữ - vốn bình thường ngủ không động đậy dù chỉ một li - bỗng thò tay ra khỏi chăn và vuốt ve cơ thể tôi. Đây không phải lần đầu tiên tôi được cô ấy vuốt ve. Khi ru tôi ngủ, khi nghe nhạc, hay khi tự nhiên vui vẻ không rõ lý do cô ấy đều xoa đầu hay vuốt ve cơ thể tôi. Tôi không ghét việc đó.

Nhưng lúc này không hiểu sao tôi cảm thấy ớn lạnh ở những chỗ bị chạm vào, đến mức bất giác hất tay cô ấy ra.

“Sao thế?”

Người phụ nữ khẽ lẩm bẩm. Tôi biết mình làm vậy là dại dột, nhưng đã quá muộn rồi.

“Sao thế? Em không yêu chị phải không?”

Cô ấy ngồi dậy, kéo chăn của tôi ra, dùng hai tay đè lên ngực tôi.

“Em... yêu chị...”

Câu nói đứt quãng tôi vừa thốt ra trong lúc nghẹt thở chẳng còn ý nghĩa gì với cô ấy nữa.

“Nếu phải khổ sở đến vậy thì nói ra cũng vô ích thôi. Đồ nói dối! Nếu không yêu thì ngay từ đầu đừng nói vậy. Hay em cố tình lừa dối, phản bội để làm chị đau khổ? Nếu vậy thì em hãy đi đi. Hãy đến chỗ của người đàn ông đó đi!”

Cô ấy nói “Hãy đi đi” nhưng vẫn dồn toàn sức lực vào hai tay, bóp mạnh hơn vào ngực tôi. Tôi bất giác nghĩ, giờ mà mình cố đi đâu thật thì chắc chỉ có con đường chết mà thôi.

Không biết người đàn ông kia còn sống không?

“Em yêu chị, em yêu chị, em yêu chị.”

Để được giải thoát khỏi sự đau đớn, tôi lặp lại bằng giọng lớn nhất có thể như đang đánh vần. Từ khóe mắt tôi, một giọt nước ấm lăn xuống. Tôi đã từng nghĩ “nước mắt” là thứ chỉ có trong mắt của cô ấy mà thôi.

Hóa ra chim cũng rơi nước mắt.

Cô ấy buông tay khỏi ngực tôi.

“Xin lỗi. Chị không định làm em đau đâu.”

Tôi thở thật mạnh rồi từ từ nhìn người phụ nữ, nước mắt cô ấy đang rơi. Nhưng nước mắt của tôi và giọt nước mắt của cô ấy không giống nhau. Tôi rơi nước mắt là vì hoảng sợ. Cô ấy đưa tay lau nước mắt cho tôi.

“Này, em có yêu chị kh...?”

“Em yêu chị.”

Cô ấy còn chưa nói hết từ “không”, tôi đã vội vã trả lời.

“Chị rất vui. Nhưng chị không tin lời nói của em nữa rồi... Em hãy chứng minh cho chị xem.”

Là dụi lửa sao? Tôi thoát khỏi bàn tay cô ấy và chui tọt xuống dưới gầm giường.

“Không thể tha thứ được!”

Cô ấy hét lên rồi ngó xuống gầm giường, cố dùng sức để lôi tôi ra nhưng tay không đút vừa cái khe nhỏ đó. Cô ấy cũng không thể bê hay di chuyển chiếc giường nặng ấy, dù với tay từ bốn phía thì vẫn không thể chạm tới chính giữa gầm giường nơi tôi đang đứng.

Nhưng cả người tôi đang run lên.

Người phụ nữ vừa hét lên “Không thể tha thứ” vừa liên tục đập hai tay vào giường. Tôi hiểu dù có làm thế này cả đêm đi nữa, cô ấy cũng không mệt. Người tôi bám đầy bụi, bầu không khí khó thở đến buồn nôn, nhưng để thoát khỏi nỗi sợ hãi thì chỉ có một cách là cố ngủ thôi. Tôi nhắm mắt, bịt tai lại.

Tôi mong đây chỉ là một giấc mơ. Khi mở mắt tôi vẫn sẽ nằm trên chiếc giường ấm áp như mọi khi. Tôi vẫn sẽ ngủ trong tư thế giống như khi có cô ấy bên cạnh mình. Tôi mong là thế. Cầu mong là thế.

Nhưng những điều tốt đẹp ấy chẳng xảy ra. Khi cảm thấy trời đã rạng sáng, tôi lặng lẽ cầu nguyện và mở mắt ra, ngay lập tức nhìn thẳng vào mắt cô ấy. Một cặp mắt đỏ ngầu. Có lẽ cô ấy đã ngó xuống dưới gầm giường cả đêm nên nhận ra tôi đã thức giấc.

Người phụ nữ mỉm cười.

“Chào buổi sáng. Ngủ ngon quá nhỉ, giờ em đã muốn chứng minh cho chị thấy chưa?”

Nếu tôi không “chứng minh”, hẳn cô ấy sẽ không tha thứ cho tôi. Cứ thế này nhắm mắt tiếp cũng không thay đổi được gì.

Tôi sẽ bị dụi lửa, hoặc sẽ bị giết.

Đứng trước lựa chọn ấy, tôi đành giết chết con tim mình và trở thành con chim không mang cảm xúc.

Minh chứng tình yêu của em đẹp hơn chị nghĩ.

Trên người đàn ông da đen đó chỉ hình thành những vết thâm như vết nám tím bầm lại, nhưng trên làn da trắng muốt của em lại nổi lên vết màu đỏ tươi. Em nhìn xem! Nó có hình trái tim đấy. Nếu khắp người em phủ kín những minh chứng này, chị sẽ tin tình yêu của em là thật.

Những vết bầm xấu xí hằn trên cơ thể trắng muốt không thể chứng minh cho tình yêu. Nó là số lần chim được ăn. Cô ta cho chim ăn để đổi lấy bằng chứng của tình yêu. Con chim khi không thể chịu đựng thêm sự đói khát, bằng bản năng để sinh tồn đã nhảy vào ngọn lửa mà cô ta đốt lên.

Sự sống chỉ có trong những ngọn lửa thiêu.

Thức ăn ở trong lò.

Không biết có sinh vật nào ngu ngốc đến mức tự mình nhảy vào lò nóng vì cần thức ăn để tồn tại như chim không? Mà không! Nếu đằng nào cũng bị thiêu đốt từng phần một trên cơ thể, thì thà bị nướng cháy cả người một lần trong lò chắc chắn còn bớt đau khổ hơn.

Không biết bị thiêu bao nhiêu chỗ nữa nó mới được giải thoát khỏi địa ngục lửa thiêu? Lúc ấy không biết chim còn sống hay không?

Thế nhưng, ngày giải thoát bỗng dưng lại đến.

Người đàn ông đã quay về. Con chim chui trong chăn, nấp trong góc phòng nhìn chằm chằm, nó thấy người đàn ông cúi dập đầu xuống nền nhà, liên tục cầu xin người phụ nữ hãy yêu anh ấy thêm lần nữa.

Không hiểu tại sao anh ấy quay về? Chim không thể hiểu. Phải chăng anh ấy đã quên cái nóng rát của ngọn lửa rồi hay sao?

Nhưng dù anh có nói thế nào đi nữa, cô cũng không định đón nhận anh. Cô không nhìn vào mắt anh, không mở lời với anh.

“Anh yêu em, anh yêu em, anh yêu em. Nào! Em hãy bảo anh chứng minh đi. Nếu em không nói...”

Anh ấy dựng cây nến đỏ lên chân nến trên mặt bàn và châm lửa, lấy một tay hơ trên ngọn lửa để kiểm tra sức nóng. Rồi cũng bàn tay ấy, anh cầm chân nến lên... áp thẳng vào má người phụ nữ khi cô đang ngoảnh mặt quay đi. Cô thét lên trong tuyệt vọng và ngã xuống. Chuyện gì đã xảy ra? Con chim đã tự giết chết trái tim mình hiểu được duy nhất một điều... rằng trái tim của người phụ nữ cũng đã chết.

Anh ấy bế cô lên.

“Như thế này, người có thể yêu em chỉ có anh mà thôi. Mà không! Từ giờ đến lượt em yêu anh. Nào! Em hãy nói em yêu anh đi. Và hãy chứng minh tình yêu của em cho anh thấy. Nếu em làm vậy anh sẽ yêu em từ tận đáy lòng.”

Sau khi đặt cô ấy ngủ yên trên giường, anh đi về phía chim. Anh lặng lẽ lật tấm chăn quấn quanh mình chim ra, nín thở. Những vết hằn đỏ, rất đỏ.

“Anh xin lỗi. Là lỗi của anh. Anh không hề biết rằng vì anh không thể giữ được tình yêu và vứt bỏ cô ấy... mà em lại phải chịu hình phạt.”

Anh ấy khóc và ôm con chim thật chặt.

“Từ hôm nay em sẽ được tự do. Em có thể đến bất cứ nơi đâu mà em thích. Hãy quên bọn anh đi. Nhưng đừng nghĩ là em bị vứt bỏ. Bởi em là kết tinh của tình yêu mãnh liệt nhất giữa anh và cô ấy. Minh chứng của tình yêu không phải là những hành động ngớ ngẩn nhường ấy. Minh chứng của tình yêu chính là em.”

Nhưng dù người đàn ông có nói thế nào đi nữa, chim cũng không hiểu được ý nghĩa của những lời nói đó. Hơn hết, bụng nó đang đói cồn cào. Nó không còn nhìn thấy địa ngục lửa thiêu.

Nó đã chết rồi hay sao?

Chim thiêu thân vẫn khóc nấc lên những tiếng không dứt.

Yêu, yêu, yêu, yêu, yêu...

* * *

Tôi đang ở phòng trà trên tầng cao nhất của chung cư năm mươi hai tầng, độ cao cách mặt đất hai trăm mét. Nhưng dù ở nơi cao đến đâu chăng nữa, chỉ cần có vật cản tầm nhìn, bản thân sẽ không cảm thấy được bước chân của mình đã chạm đến tận cùng thế giới. Người dạy tôi hiểu điều đó bây giờ đang tự giam mình trong căn phòng chật hẹp dưới tôi bốn tầng, có lẽ đang mải nhìn vào bàn shogi.

Vì Noguchi Takahiro.

Nếu thời sinh viên tôi không sống ở nhà trọ Nobara-so, chắc tôi đã thật lòng kính trọng anh ấy rồi. Người thành công cần năm phần trăm thiên tài, chín mươi lăm phần trăm nỗ lực. Dùng năng lực đã mài giũa làm vũ khí để đối đầu trực diện với bất cứ hoàn cảnh nào, để đạt được thành công mà dùng những người có năng lực kém cỏi xung quanh mình như quân cờ, tự do chi phối họ, khai mở thế giới... Những người như vậy một khi đã làm gì thì có phải mất bao nhiêu công sức cũng không nuối tiếc.

Tôi đã mong trở thành người như vậy.

Khi tôi bắt đầu lớn lên và hiểu chuyện, tôi nhận ra bản thân mình có năng lực tốt hơn những người xung quanh. Những người già trong đảo từng gọi tôi là “thần đồng”, nhưng tôi cũng hiểu không phải như vậy.

Năng lực của tôi không phải do thần linh ban tặng, mà là kết quả từ nỗ lực của bản thân. Cả về học tập và thể thao tôi chưa từng thua kém bạn học cùng trang lứa. Nhưng với tôi, như vậy là chưa đủ. Tôi đứng tốp đầu trong kỳ khảo sát định kỳ của trường công lập ở đảo có ý nghĩa gì? Tôi làm đội trưởng đội bóng có ý nghĩa gì? Chỉ khi những thứ đó liên hệ được với tương lai thì những nỗ lực tôi bỏ ra mới có ý nghĩa, không phải sao?

Nhưng trên hòn đảo mà dân số chưa quá ba nghìn người này, dù có nỗ lực hết mình tôi cũng không biết bản thân sẽ đi về đâu. Chỉ có thể khẳng định một điều, đó là nếu muốn làm được gì thì phải rời khỏi đảo trước đã.

Tôi cho rằng trên hòn đảo nhỏ đến mức không có tên trên bản đồ trong bản tin dự báo thời tiết này, tài năng mà mình đã tích lũy được vẫn là chưa đủ, mục tiêu cả đời tôi là không ngừng thử thách bản thân trong thế giới rộng lớn luôn đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, và đó cũng là giá trị sống của tôi.

Cha mẹ hoàn toàn không phản đối chuyện tôi rời đảo để học lên sau khi tốt nghiệp cấp ba. Cả hai ông bà đều làm công chức trên đảo nên nhà tôi không khó khăn về mặt kinh tế, nhưng nhà chỉ có hai con là tôi và đứa em gái nên tôi đã sợ sẽ bị bắt về quê sau khi tốt nghiệp. Nhưng khi tiễn tôi đi bố mẹ chỉ bảo “Bố mẹ không bảo con đừng về, nhưng con cũng không có nghĩa vụ phải trở về”.

Chính vì vậy, tôi càng không muốn trở thành gánh nặng của bố mẹ, đã quyết định thuê phòng trong căn nhà trọ hai tầng bằng gỗ có tuổi đời bảy mươi năm, tiện đường đi học và cũng đủ để tránh bão gió.

Nobara-so, cái tên có cách viết khá thú vị nhưng thực ra nó chỉ được đặt theo họ của ông Nobara chủ nhà mà thôi.

Tôi biết tiền thuê nhà như vậy là rẻ, nhưng tôi còn ngạc nhiên hơn khi nghe đứa bạn có xe ô tô cùng trường nói số tiền ấy còn rẻ hơn tiền thuê bãi đậu xe ở chung cư, mà từ chung cư đó mất những một tiếng để tới trường nằm trong khu trung tâm.

Nhưng rồi cái gì đến cũng phải đến, mùa thu năm thứ ba kể từ khi tôi bắt đầu vào ở căn nhà trọ rẻ tiền ấy bão lớn đổ bộ, nước ngập lên mặt sàn, mái nhà bị tốc mất một mảng. Và tôi đã gặp họ.

Sugishita Nozomi. Một nữ sinh đại học như bình thường. Tôi đã chạm mặt cô ấy ngoài căn hộ nhiều lần khi về nhà sau những đêm ngủ ở phòng thí nghiệm, đã từng nghĩ “người gì mà suốt ngày đi đến sáng mới về”, nhưng đó là lần đầu tiên nói chuyện. Quen biết cô ấy có vẻ chẳng có lợi ích gì, nhưng chúng tôi có cùng tên và hóa ra cùng là dân đảo nhỏ, nên cũng cảm thấy thân thiết hơn.

Nishizaki Masato. Mặt anh ta điển trai đến mức tôi đã tưởng là diễn viên. Ngay từ ngày đầu gặp gỡ, anh đã nói chuyện về nhà văn Tanizaki Junichiro và bảo mình muốn trở thành nhà văn. Ngày hôm sau anh ta đưa tôi bản thảo, nói rằng đó là tác phẩm mà mình tự tin nhất.

“Các em có khi cũng hiểu được tác phẩm của anh đấy.”

Anh ta nói vậy và đưa cho cả Sugishita. Tôi thấy khó chịu vì cảm giác bị coi thường là đồ nhà quê, nhưng để giữ hòa khí với người cùng sống chung dưới một mái nhà nên tôi đã đọc vài trang đầu.

Tiêu đề là Chim thiêu thân.

Vài ngày sau khi đưa bản thảo cho tôi, anh Nishizaki rủ “Tối nay cùng uống rượu không?” Kể từ sau cơn bão, sau vài lần ngồi uống cùng nhau, tôi nhận ra tính cách anh ta không hợp với mình. Sau khi đọc bản thảo, tôi càng chắc chắn về điều đó hơn nên định từ chối nhưng anh ta lại nói “Anh cũng mời cả Sugishita nữa”, vậy là tôi lại quyết định tham gia. Chắc sẽ có nhiều đồ ăn ngon.

Đó là lần đầu tiên chúng tôi uống rượu ở phòng anh Nishizaki.

Anh Nishizaki chuẩn bị rượu và bia, tôi mang thịt hun khói từ quê gửi lên. Trong lúc Sugishita bày mấy món như cá ngâm chua và thịt hầm khoai tây ra đĩa, anh Nishizaki đã mở chai rượu vang rẻ tiền và bắt đầu ngồi nhấm nháp.

Thấy tôi ngồi ở mép tấm thảm trải trên chiếu, Sugishita mang cốc đến cho tôi. Anh Nishizaki hỏi tôi muốn uống rượu hay bia, tôi trả lời là muốn uống bia nên anh ta lấy thứ đồ uống có cồn nhẹ trong tủ lạnh ấy rót cho tôi.

“Chào mừng Ando đã đến với phòng đọc của anh.”

“Vâng, em cảm ơn. Phòng đọc ạ?”

Nghe anh ta nói, tôi nhìn quanh căn phòng rộng sáu chiếu và chỉ đáp lại được vậy. Góc phòng là chiếc bàn to, trên bàn có bút máy và bản thảo viết dở đang mở toang, bên cạnh là giá sách. Chỉ toàn là sách, khoảng năm mươi quyển. Với người định hướng trở thành nhà văn như anh ta chẳng phải như thế vẫn là ít hay sao? Tôi cũng không hiểu anh ta thực sự quyết tâm đến mức nào.

Ở giữa giá sách có đặt máy tính xách tay và máy in. Bản thảo tôi đang giữ được soạn thảo trên máy, có lẽ anh ta đã dùng máy tính đó. Vậy bản thảo viết tay kia là gì?

“Anh Nishizaki. Bản thảo của anh là viết tay à?”

“Hay quá, chưa gì em đã nói về bản thảo rồi. Sugishita từ lúc đến đây chỉ toàn kể chuyện lấy bằng lặn biển thôi.”

“Thế à... Sinh viên nữ sống sướng thật đấy...”

Tôi nhìn Sugishita xem cô có khó chịu khi nghe tôi nói vậy không, nhưng mặt cô ấy vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì, cô đang tự rót rượu vào cốc và đọc tờ hướng dẫn nhỏ gắn trên túi thịt hun khói tôi mang đến.

“Bản thảo anh viết tay. Viết trên máy không thổi hồn vào tác phẩm được. Nhưng gần đây, khi mang đi dự thi họ quy định phải nộp bản đánh chữ hoặc gửi bản mềm. Vậy nên anh phải đánh máy lại, tiện thể sửa lại câu văn cho hay. Nhưng không sao, nhờ vậy mà anh mới có thể đưa em bản thảo như thế này và hỏi cảm tưởng, nên rốt cuộc cũng không tệ lắm. Thực ra ngoài gửi đi dự thi, anh cũng bắt đầu nhờ người khác đọc giúp nữa. Tuy mới chỉ quen các em hôm vừa rồi nhưng anh nghĩ có lẽ các em sẽ hiểu nên mới... Em đọc thấy thế nào?”

Hóa ra anh Nishizaki tổ chức buổi nhậu này vì muốn hỏi cảm tưởng. Với những thứ nhạy cảm như là tiểu thuyết tự mình viết ra, bản thân tôi sẽ khá ngại nếu phải trực tiếp, mặt đối mặt hỏi cảm tưởng của người khác. Nhưng nhìn gương mặt điển trai của Nishizaki lúc này thì có thể thấy anh ta chỉ đơn giản đang rất hào hứng thôi. Tôi đã tưởng ai trên đời này cũng có giá trị quan giống nhau, nhưng hẳn là không phải rồi.

“Thực ra em mới chỉ đọc một chút phần đầu.”

“Trời ạ, em cũng vậy à?”

“Cũng” là sao...? Tôi nhìn sang Sugishita.

“Xin lỗi anh! Em bận nhiều việc quá.”

Cô ấy cúi đầu xin lỗi anh Nishizaki nhưng trông không có vẻ hối lỗi lắm. Sinh viên nữ sống nhàn hạ như vậy không biết bận việc gì? Tụ tập bạn bè à? Hay hẹn hò? Bận bịu quái gì, chỉ là lười không thèm đọc thôi thì có. Tôi nhăn mặt.

“Vậy thì chỉ đến chỗ đã đọc rồi thôi cũng được. Các em cứ chia thành nhiều lần, đọc từng phần rồi từ từ cho anh biết cảm tưởng cũng được.”

Anh Nishizaki vừa nói vừa ăn dưa chuột cắt hình giống như những cái que. Dưa chuột, cà rốt, cần tây đều được cắt hình que bỏ vào chiếc cốc dài. Trông như thức ăn cho chim vậy. Tình cờ câu chuyện cũng là về một con chim.

“Em mới chỉ đọc đến đoạn tiết lộ nhân vật chính là một con chim thôi, nhưng cái em không hiểu được nhất là nhân vật người đàn ông, vì bất luận người phụ nữ đó có đẹp đến mức nào, để một cô ả ích kỷ, ngạo mạn như thế điều khiển thì quả là một gã đàn ông ngu ngốc... Kết cấu truyện như vậy đã là không ổn rồi. Khi thấy ai đó ngắm con chim rồi hỏi mình ‘Anh có biết nếu có kiếp sau em muốn trở thành gì không?’ đương nhiên ai cũng sẽ trả lời ‘Muốn thành chim’ rồi. Thực chất người phụ nữ cố tình đưa ra những câu hỏi gây khó dễ, dù có trả lời thế nào cũng sẽ bị trách móc mà thôi. Cứ như một kẻ nhàn cư vi bất thiện vậy.”

Tôi chỉ đọc đến nửa chừng nhưng cũng đã thấy câu chuyện này vô bổ, đọc chẳng để làm gì. Có lẽ là do tính cách của người viết. Tôi nghĩ trong cuộc sống cái quan trọng nhất là nỗ lực và tham vọng, nhưng những cái đó hoàn toàn không có ở trong truyện, cũng như chúng không có ở anh Nishizaki vậy.

“Đúng là ý kiến của Ando có khác. Sugishita thấy sao?”

“Em cũng mới chỉ đọc đến đoạn đó thôi, nhưng cảm tưởng của em hơi khác. Đúng là những gì người phụ nữ làm không chấp nhận được, nhưng em không cho là cô ấy đặt câu hỏi đó để gây khó dễ cho đối phương đâu. Người có cá tính mạnh như vậy hẳn sẽ không muốn trở thành chim ở kiếp sau được. Có lẽ cô ấy đã thực sự thất vọng với câu trả lời của người đàn ông.”

“Vậy à. Em đọc cũng có tâm đấy nhỉ. Vậy người phụ nữ đó thích được trả lời như nào?”

“Là con người. Nếu có kiếp sau em vẫn sẽ chính là em, chắc là như vậy.”

“Một cách hiểu thú vị đấy.”

“Nhưng thực ra anh Nishizaki cũng không có câu trả lời cho câu hỏi của người phụ nữ đó đúng không? Em nghĩ điều anh muốn nói với tư cách tác giả là đúng hay sai không quan trọng, việc chấp nhận những đòi hỏi vô lý của nhau chính là tình yêu đích thực.”

“Sugishita giỏi quá, chỉ đọc có một nửa mà đã đoán đúng chủ đề của câu chuyện. Đã hiểu rõ đến như vậy, hay là em cũng thích anh rồi?”

“Rất tiếc, anh đẹp trai quá nên em chịu thôi. Vả lại em hiểu anh Nishizaki đang nghĩ gì chứ không phải em cũng nghĩ như vậy. Hình ảnh người đàn ông trong truyện và anh Nishizaki cũng không giống nhau.”

Ra là thế sao... Vậy mà tôi cứ tưởng Nishizaki có sở thích “kiểu đó” chứ. Đúng là chỉ những kẻ rỗi việc mới hay nói về mấy thứ vớ vẩn nhường này, mà lại còn phóng đại nữa chứ.

“Vậy theo Sugishita, tình yêu là gì? Nói cách khác, tình yêu đích thực là gì?”

Sinh viên chuyên văn thì ra toàn bàn mấy thứ này sao? Sao không nói cái gì có tính thực tiễn hơn?

“Cùng chia sẻ tội lỗi.”

Sugishita lẩm bẩm trong miệng. Anh Nishizaki thì chẳng nói làm gì, nhưng tôi đã tưởng cô ấy sẽ chín chắn hơn một chút. Đúng là thứ lý luận không ra đâu vào đâu, nhưng chính vì thế tôi lại càng muốn phản chứng. Phải bảo vệ lý tính bằng mọi giá.

“Đúng là cái gì cũng nói cho hay được. Vậy thì có khác gì hai đứa nhóc cấp hai, cấp ba cùng ăn cắp, rồi hớn hở dắt tay nhau bỏ chạy hay sao? Đúng là thể loại tình yêu tầm thường.”

“Đấy là đồng phạm. Còn cùng chia sẻ nghĩa là mình chịu một nửa tội lỗi cho người ấy mà không ai biết. ‘Ai’ ở đây đương nhiên bao gồm cả người ấy. Là mình âm thầm lặng lẽ đứng đằng sau chịu tội thay.”

“Như vậy không gọi là tình yêu. Nói đúng ra thì đó chỉ là yêu bản thân mình mà thôi. Nếu im lặng và bao che, chẳng phải người kia cả đời sẽ không nhận ra tội ác mình đã gây ra và trở thành một kẻ không ra gì hay sao? Nếu là mình, người yêu mình phạm tội, mình sẽ không bao che. Làm như vậy là sai.”

“Vậy cậu sẽ đem người ta nộp cho cảnh sát à?”

“Mình sẽ đi cùng và làm mọi việc có thể vì người ấy.”

“Nếu người ta phải vào tù thì sao?”

“Mình sẽ đợi. Và rồi hai chúng mình sẽ bắt đầu cuộc sống mới.”

“Ando chưa có người yêu phải không?”

“Mình đâu có thời gian để chơi bời lêu lổng như cậu. Mình có lý tưởng lớn. Và mình cũng không dễ dàng thay đổi ý chí của bản thân đâu, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa.”

“Thế à, nghe hay ho thật nhỉ.”

Sugishita nói bâng quơ như thế rồi đứng dậy, cầm thịt hun khói mà tôi mang tới đi ra phía bồn rửa bát. Không biết có phải cô ấy đã chịu thua lý lẽ của tôi rồi không? Khi tôi còn chưa hiểu thì anh Nishizaki cầm cây cần tây chỉ về phía tôi.

“Nhiệt huyết quá, Ando đúng là hiện thân của chính nghĩa rồi. Đúng, nếu là bạn gái... thì cùng lắm chia tay là xong. Nhưng tình yêu có nhiều định nghĩa, giả sử nếu người trong gia đình phạm tội thì em có báo cảnh sát không? Người thân vào tù thì chính em cũng sẽ gặp phiền phức. Giả sử khi ấy em đang làm trong một công ty rất tốt, còn sắp được thăng chức, chẳng phải mọi công sức của em sẽ đổ xuống sông xuống biển hay sao?”

“Gia đình em mọi người đều đang sống rất đường hoàng và sau này cũng vậy. Người em sẽ lấy làm vợ cũng sẽ như vậy, em không yêu người phạm tội đâu.”

“Cuộc đời của Ando lý tưởng thật đấy! Nhưng thôi, xét hiện thực chắc Sugishita cũng nghĩ giống em thôi. Rốt cuộc tình yêu đích thực là thứ chỉ tồn tại trong tiểu thuyết... Dừng lại! Sugishita! Em đang làm gì đấy?”

Bỗng nhiên mặt anh Nishizaki biến sắc. Tôi nhìn ra và thấy Sugishita đang đứng trước bếp ga, dùng dĩa xiên hai bên cục thịt hun khói.

“Trên hướng dẫn sử dụng ghi rán áp chảo sẽ ngon hơn, nhưng nhà anh Nishizaki không có nồi hay chảo nên em sẽ nướng trực tiếp trên bếp ga.”

“Thôi được rồi, dừng lại... Thịt hun khói chỉ cần cắt ra rồi ăn thôi. Không chế biến gì còn giữ được vị ngon của thịt hơn ấy.”

Khi tiểu thuyết của mình bị chê anh Nishizaki vẫn ung dung cười được, vậy mà lại bức xúc vì thịt xông khói. Tôi còn tưởng anh ta là người ăn chay cơ nhưng hóa ra không phải vậy, vì vẫn ăn món cá hồi ngâm chua mà Sugishita nấu cơ mà. Tôi cũng muốn được ăn thịt rán nhưng nhìn cái kiểu nướng như đi cắm trại của Sugishita thì thà để nguyên mà cắt ra còn an toàn hơn... Tôi đồng ý với anh Nishizaki.

Sugishita cắt thịt hun khói thành miếng dày, xếp lên đĩa rồi mang ra. Anh Nishizaki cho một miếng vào miệng, ăn có vẻ rất ngon lành.

“... Này, anh Nishizaki, thế rồi truyện Chim thiêu thân của anh được chọn đến vòng nào?”

Sugishita hỏi.

“Lũ giám khảo vòng đầu tiên toàn là những kẻ không hiểu thế nào là tình yêu đích thực.”

“Vậy à, thế là không qua vòng sơ khảo. Anh đã vất vả rồi.”

Tôi chạm cốc với anh Nishizaki. Âm thanh vô nghĩa của những chiếc cốc rẻ tiền.

Hóa ra tôi đã lãng phí thời gian quý giá của mình vào một tác phẩm không qua nổi vòng sơ khảo. Không có chuyện tôi sẽ đọc tiếp. Đến cả thời gian ngồi ăn cùng với hai người này, tôi cũng thấy thật là lãng phí.

Tôi đã định không kết thân với họ nữa, nhưng vài ngày lại phải cùng anh Nishizaki và Sugishita làm việc. Chúng tôi cùng sửa mái nhà dột.

Mấy hôm nay trời tạnh ráo suốt nên không ai nhận ra, có vẻ như hôm bão mái nhà đã bị tốc mất một mảng. Tôi đến nhờ ông chủ nhà sống ở phòng trong cùng dưới tầng một sửa giúp, sau đó thấy ông mang hộp dụng cụ ra, chuẩn bị leo lên mái nhà. Sao không gọi thợ cho rồi hả ông, tôi chán hẳn với ông cụ, quả thật ông ấy cũng đã hơn tám mươi rồi, trèo lên đó nói dại lỡ bị gì thì phiền to, nên tôi đã xin mượn hộp dụng cụ để tự sửa.

Có vẻ nhìn qua cửa sổ thấy tôi đang làm bên ngoài, Sugishita đề nghị giúp với lý do “Hôm bão cậu đã giúp mình mà”. Cùng lúc đó, anh Nishizaki cũng từ trong phòng đi ra. Nói thật tôi đã nghĩ cả hai người họ sẽ chẳng giúp được gì.

Vậy mà người vô dụng hóa ra lại là tôi.

Chúng tôi định sẽ leo lên mái nhà, gỡ mái tôn chỗ bị dột ra, chèn tấm lợp rồi lại đè mái tôn lên. Công việc đầu tiên là dùng cưa cắt tấm lợp mua ở trung tâm mua sắm.

“Ando, cưa từng tí như thế lưỡi cưa sẽ bị cùn đấy. Tưởng em học hệ tự nhiên cơ mà?”

“Em học kỹ sư hóa chứ có phải cái này đâu...”

“Nào, đưa mình làm cho.”

Sugishita lấy cưa từ tay tôi, chưa đầy một phút đã làm xong công việc mà tôi loay hoay năm phút mới xong được một phần ba. Anh Nishizaki thì cầm tấm lợp leo lên mái nhà bằng chiếc thang bắc từ tầng hai.

“Này! Nishizaki, anh có biết đóng đinh không?”

“Không phải lo. Anh mày hơi bị khéo tay đấy.”

Tôi đã cố tình nhắc như vậy mà anh chỉ cười nhạt đáp lại. Trong lúc ấy Sugishita đã cắt xong một tấm lợp khác và đưa cho tôi.

“Ando! Không cần cưa nữa đâu. Cậu cầm cái này leo lên mái nhà đóng đinh đi. Nhưng mà có vẻ cậu cũng không đóng đinh được. Bọn mình cũng chỉ có vừa đủ tấm lợp, cứ để anh Nishizaki làm đi. Giờ giao cho cậu đi nấu bữa trưa... cũng không được nhỉ. Cậu nướng lại cá khô cũng cháy, đấy là đã dùng lò nướng rồi đấy. Chẳng biết phải cho Ando làm gì nữa.”

Tôi chưa từng bị sỉ nhục như vậy bao giờ.

“Từ hồi cấp hai mình có dùng cưa lại lần nào đâu, sao mà biết được. Có phải ai ở quê ra cũng thạo nghề mộc đâu. Cậu chỉ là tình cờ vẫn nhớ thôi, đừng có kiêu căng!”

“Mình có nói như vậy đâu, chỉ đơn giản là cách cậu dùng cưa dở quá nên để mình làm còn hơn. Liên quan gì đến người ở quê chứ. Cậu nhìn kìa, anh Nishizaki có vẻ không hợp với mấy việc này nhất lại đang rất được việc.”

Tôi nhìn lên trên, thấy Nishizaki đang quỳ xuống mái nhà để đóng đinh. Nhìn tư thế ấy tôi thấy hơi khó chịu nhưng âm thanh chiếc búa giáng xuống rất đều, nghe cũng êm tai.

“Đưa cho anh miếng lợp đi. Ở trên này lâu cháy nắng mất.”

Anh Nishizaki nói lớn giọng. Gì mà cháy nắng. Mà để ý mới thấy, đến mùa hè rồi mà anh ta còn mặc áo dài tay.

“Chờ chút đã.”

Tôi giật lại chiếc cưa Sugishita đang nắm. Không thể để mọi người coi thường mình như vậy được... Nhưng lưỡi cưa lại bị mắc kẹt.

“Sao cậu cứ cố cắt từ phía trên thế!?” cô ấy giật lại chiếc cưa.

“Thì vì cần cắt đều tấm lợp dài hai mét thành bốn tấm, nên cần cắt năm mươi phân một...”

“À, và cái đường kẻ đánh dấu năm mươi phân ấy lại nằm ở phía trên tấm lợp nên cậu cố cưa theo chứ gì. Cưa lệch chút cũng được, bọn mình có phải đang xây lâu đài mô hình đâu.”

Vừa nói dứt lời, cô ấy cũng cắt xong.

Rốt cuộc việc tôi làm được chỉ là đưa tấm lợp Sugishita đã cắt lên mái nhà cho anh Nishizaki. Khi xong việc, ông Nohara mua sushi cho chúng tôi. Chúng tôi bày bàn ăn như tiệc và cả ba cùng ngồi ăn.

Sugishita rủ ông cùng ăn nhưng ông từ chối và nói đã có phần riêng của mình, rồi đưa chúng tôi xem chiếc túi nhỏ đựng loại sushi có vẻ rẻ tiền hơn sushi ông mua cho chúng tôi.

Chúng tôi ăn sushi trong phòng của Sugishita. Ba người ngồi quanh chiếc bàn sưởi không lót chăn, tay cầm cốc trà và bắt đầu ăn.

“Sao ông ấy không bán quách cái nhà trọ này đi, vào chung cư thuê người chăm sóc ở cho sướng nhỉ. Cái nhà thì xập xệ nhưng đất vẫn có giá mà.”

Tôi thử nói ra những điều mà mình đã nghĩ từ lâu.

“Có nhiều người đã từng đến hỏi mua rồi, nhưng ông ấy vẫn từ chối.”

“Sao thế? Cơ hội tốt vậy cơ mà!”

“Nhà đã ở mấy chục năm nay, giờ có người mua là bán luôn à? Ai làm vậy chứ.”

“Vậy à!”

“Giả sử giờ Ando về quê, tự nhiên có người chẳng quen biết đến bảo cậu ‘Từ giờ tao sẽ sống ở đây, mày biến đi’ thì cậu tính sao? Nếu trong phòng của Ando giờ bỗng nhiên để lù lù một chiếc bàn trang điểm đẹp đẽ, còn đồ đạc của cậu bị ném hết ra cửa thì cậu nghĩ thế nào?”

“Chắc không có chuyện đấy đâu, mà nếu có thì chỉ cần làm thủ tục đàng hoàng là được. Mình cũng không có ý định quay trở lại hòn đảo đó. Nếu cứ để ý mấy việc nhỏ nhặt vậy thì sẽ chẳng bao giờ làm được gì lớn cho đời.”

“Cho đời cơ à, khá thật đấy. Tớ rất thích những người có tham vọng như vậy. Nhưng mà Ando này, cậu chỉ biết học với bóng đá thôi nhỉ? Như vậy có ổn không?”

“Gì mà ‘chỉ biết’? Cậu đó, đang học đại học mà chỉ nói đến lặn biển, không nỗ lực gì, toàn đi chơi thâu đêm đến sáng mới mò về, vậy nói được gì mình chứ? Nỗ lực của mình không hề tầm thường chút nào đâu. Vậy Sugishita, cậu thì làm được gì?”

“Mình chẳng làm được gì to tát, vì vậy mình không có ý chê bai gì Ando cả. Mình ngưỡng mộ vì cậu học và chơi bóng giỏi, và nghĩ Ando chắc chắn sẽ vào được công ty lớn, làm những việc lớn lao và đạt được ước mơ. Nhưng nếu chỉ vậy liệu cậu có thể vươn ra thế giới không? Nếu ở Nhật Bản chắc chắn mình sẽ thua Ando, nhưng nếu ở đảo không người hoặc vùng đất xa xôi hẻo lánh, mình nghĩ mình có thể lật ngược tình thế.”

“Cái gì chứ, sao mình lại phải tới nơi xa xôi hẻo lánh? Chẳng nhẽ mình bị giáng chức? Mình sẽ không bao giờ thất bại như thế đâu.”

“Anh thì không hiểu mấy đứa đang nói gì lắm...”

Sugishita quay sang nhìn anh Nishizaki. Những lúc thế này anh cứ ăn dưa chuột là được rồi, nhưng trong khi tôi đang nói chuyện với Sugishita, mấy miếng sushi ngon đã bị vơi đi khá nhiều.

“Nhưng vấn đề hẳn là ở cách hiểu về thế giới của hai đứa. Thế giới mà Ando nói tới chắc là mấy nước phát triển có lá cờ gắn ở suất cơm rang của trẻ con như nước Mỹ, nước Anh nhỉ. Anh nghĩ chắc em sẽ thành công được trên đĩa cơm đó thôi.”

Tôi chợt cáu tiết vì cảm thấy như cuộc đời của mình đang bị coi thường. Chỉ là không dùng được cái cưa thôi, sao phải nói người ta như vậy? Một tay tác giả tự phong suốt ngày chây lười ở nhà, không cố tìm việc làm thì có quyền gì cơ chứ.

Tôi đặt mạnh cốc trà xuống. Nhưng anh Nishizaki vẫn tiếp tục nói không dừng.

“Hơn nữa, lý do Sugishita đến sáng mới về nhà là do em ấy bận đi làm đêm. Không phải mấy quán đèn mờ vớ vẩn đâu, mà là công việc lao động đàng hoàng. Lặn biển cũng là một phần của việc làm thêm. Em ấy rất cố gắng vì không muốn trở thành gánh nặng cho gia đình đấy, Nozomi... à nhầm, Sugishita với ông cụ chủ nhà là bạn cùng chơi shogi, anh với ông ấy lại là bạn trà nên từ trước anh đã biết về Sugishita, biết cả họ tên. Ngoài ra căn nhà này do bố của ông cụ làm nghề mộc xây lên, thời chiến tranh ông ấy đã cùng mẹ bảo vệ nó. Sau này ông kết hôn nhưng không có con, ông coi những người sống ở đây như con cháu mình vậy. Chỗ này là nơi chất chứa nhiều kỷ niệm của cuộc đời ông. Vợ ông đã mất cách đây mười năm, ông cụ cũng có lương hưu nên không có chuyện ông sẽ bán chỗ này đâu. Phải không Sugishita?”

“Đúng đấy. Thì ra anh Nishizaki cũng biết chuyện này.”

“Anh thích giao thiệp mà, vả lại đằng nào cũng không có nhà để về, anh cũng thích nơi này nữa. Anh không mang đồ ăn đến cho ông được như Sugishita, nhưng ít nhất anh cũng chăm nom được cho ông, mong là ông cụ luôn khỏe mạnh. Ando, em cũng cố hòa đồng với mọi người đi. Anh có việc sắp đến hạn rồi, về trước đây. Hai đứa ở lại lo mà xin lỗi nhau.”

Cuối cùng anh Nishizaki nhón một miếng lườn cá ngừ rồi về.

Tuy vẫn khó chịu nhưng phải thừa nhận là mình có điểm cần xem xét lại thật, tôi xin lỗi Sugishita. Sugishita cũng xin lỗi vì đã quá lời rồi điềm nhiên nói sang chuyện khác.

“Chơi shogi với mình không?”

Vậy là tôi đã để Sugishita dạy mình trò giải trí đó, vì từng nghĩ chắc sẽ có lúc mình cần nó trong cuộc đời.

Đánh bại Sugishita... Tôi đã tưởng chỉ cần nhớ được cách đi quân cờ là có thể đánh thắng Sugishita, nhưng thực tế thì mãi vẫn chưa vượt được cô ấy. Anh Nishizaki còn xỏ xiên “Tự nhiên em lại kiếm được đối thủ khó xơi phết nhỉ”, nhưng dần dần tôi đã học được cách mặc kệ anh ta rồi.

Vấn đề lớn hơn là Sugishita, không biết cô ấy có ý định dạy tôi chơi cờ thật không nữa khi mà chỉ vừa đi các quân cờ vừa nhắc tên các thế trận như là “Huyệt Hùng” hay “Mỹ Nồng Vây”[3]. Thật thảm hại làm sao, tôi thì dán mắt vào bàn cờ vừa nghĩ vừa đánh, trong khi Sugishita miệng thì tán chuyện vu vơ nhưng tay vẫn liên tục đi được nước cờ đáp lại.

“Anh Nishizaki đã gửi tác phẩm mới đi thi, nhưng nghe nói lại trượt ở vòng sơ loại rồi.”

Trong lúc chơi, chúng tôi cứ nói mấy chuyện vớ vẩn như vậy. Và rồi rất tự nhiên, Sugishita bắt đầu rủ tôi tham gia các hoạt động khác nữa.

“Ando có thích lặn biển không? Chúng mình cùng đi đi.”

Tôi không có thời gian rảnh và cũng không có tiền. Thỉnh thoảng tôi lại phải ru rú trong phòng nghiên cứu cả ngày, nên cũng không có thời gian đi làm thêm. Tôi chưa đến mức khó khăn trong cuộc sống nhưng cũng không có tiền để chơi bời. Chẳng phải Sugishita cũng đang phải vừa học vừa lao động chân tay à? Bắt người ta xin lỗi mà cô ấy thì chỉ nghĩ đến việc chơi bời thôi sao?

Tôi chỉ trả lời mập mờ “Nếu sắp xếp được thời gian thì đi”, nhưng sau đó trong khi ngồi uống rượu với Sugishita sau khi thua cờ, tôi đã nghe lời cô ấy, đi phỏng vấn ở công ty vệ sinh môi trường.

Câu chuyện lặn biển cũng không được nói đến nữa.

Tôi nhận được công việc làm thêm ngay lập tức, cũng may có thể tự đăng ký giờ làm và lương cũng khá cao. Ban đầu tôi làm những việc cơ bản của công ty vệ sinh, như là dọn dẹp những chung cư mới xây trước khi bàn giao và dọn tòa văn phòng buổi đêm. Có lần cả đội đăng ký lau dọn các phòng trong chung cư năm mươi tầng, tôi và Sugishita cùng cọ phòng khách trên tầng cao nhất. Sugishita vốn là người có thể dùng giẻ lau nhanh gấp đôi tôi, nhưng bỗng nhiên cô ấy đứng thẫn thờ cạnh cửa sổ.

“Đừng bảo cậu sợ độ cao nên tay không cử động được nhé?”

“Không, mình chỉ nghĩ nếu được sống ở những nơi cao thế này hẳn sẽ thích lắm thôi. Mình bắt đầu công việc này cũng vì muốn lau cửa sổ tòa nhà, nhưng sau khi tuyển họ bảo con gái không được làm việc đó. Họ nói nếu mình trên năm mươi cân, đủ để đứng vững họ sẽ cho mình làm thử một lần, nhưng mình ăn mãi mà vẫn không béo lên, nên là từ bỏ ý định rồi.”

“Cậu muốn lau cửa sổ đến vậy sao?”

“Vì khi đang ở giữa không trung, xung quanh chẳng có gì hết thì sẽ dễ cảm thấy ‘mình đang ở trên cao’ hơn.”

“Tớ tưởng chỉ khói mới thích lên cao, hóa ra mấy tên ngốc cũng vậy.” Vì lỡ mồm xỏ xiên cô ấy nên rốt cuộc tôi đã không hỏi được lý do tại sao Sugishita lại thích những chỗ cao.

Sau hai lần đi học lặn vào cuối tuần, tổng bốn ngày, chúng tôi lấy được bằng lặn biển. Việc học lặn này chúng tôi được công ty vệ sinh tài trợ bảy mươi phần trăm học phí, đổi lại tuần tiếp theo đó phải đi làm vệ sinh ở Vịnh Tokyo. Hóa ra là như vậy. Tôi cảm giác mình đã bị lừa một cú rất đau, nhưng ngoài ra tôi còn đăng ký tham gia làm tình nguyện ở một hội bảo vệ san hô, mùa hè này sẽ đi Okinawa lặn. Nhưng có đi được hay không thì cũng khó nói...

Và tôi bắt đầu đi xin việc. Cũng có vài công ty ngành hóa học liên lạc cho tôi, nhưng bản thân vì muốn làm việc gì đó tầm cỡ thế giới nên tôi đã giới hạn chỉ xin vào làm ở các công ty thương mại.

“Cậu thêm cả việc tình nguyện vào sơ yếu lý lịch đi. Hình như công ty Ando đang ứng tuyển cũng hỗ trợ các tổ chức tình nguyện đấy.”

Tôi đã viết như vậy vào mục “Hoạt động khác” trong sơ yếu lý lịch theo lời Sugishita. Khá ngạc nhiên là khi phỏng vấn họ hầu như chỉ hỏi về việc đó. Tôi đã nói rất nhiều về hòn đảo nơi mình sinh ra - ban đầu tôi còn nghĩ đây sẽ là điểm bất lợi, lần đi làm vệ sinh ở Vịnh Tokyo và những vấn đề môi trường biển.

Đó là công ty thương mại M, công ty mà tôi muốn vào làm nhất. Một công việc kinh doanh mà lại đi tuyển sinh viên ngành khoa học tự nhiên... tôi nghĩ mình nhận được việc là do thực lực của bản thân, nhưng cũng có vài phần trăm là công của Sugishita.

Để cảm ơn, tôi đã mạnh dạn mời cô ấy cùng đi du lịch ở Okinawa, cũng vì muốn được lặn biển thật sự sau khi đã học bài bản. Khi tôi đề nghị, Sugishita vui ra mặt, mấy ngày hôm sau còn bảo: “Tớ tìm được mối này tuyệt vời lắm!”

“Sắp tới một thành viên trong hội bảo vệ san hô trong công ty M vừa nhận cậu vào làm ấy sẽ có một chuyến đi đến đảo Ishigaki, trên blog viết vậy. Nhân cơ hội ấy mình xin đi cùng thử xem. Sở thích của người đó là shogi, nên biết đâu lại làm thân được.”

Người đó là Noguchi Takahiro. Đúng là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được gặp một người lý tưởng, theo nghĩa là người mà mình mong ước được như họ.

Tất cả là nhờ công của Sugishita.

Tôi đã chọn công việc lau cửa sổ tòa nhà cao tầng trong buổi làm thêm cuối cùng. Tôi đăng ký cùng với một tay cũng gọi là thân quen, rồi nhờ hắn hôm đó không đi làm. Sau đó tôi bảo Sugishita là có việc dọn sàn đột xuất, cả hai cùng đến