Chương 3 Chiếc bình của vua Đại Vệ: -Truyền thuyết Nghìn lẻ một đêm
Hoan Tín sắp xếp vô cùng chu đáo chặt chẽ, Huyền Trang đi theo hắn đến cổng thành Y Ngô, chỉ thấy quốc vương Y Ngô đang chờ sẵn ở đấy. Quốc vương Y Ngô cũng không nỡ để Huyền Trang rời đi, thế nhưng Cao Xương là nước lớn binh hùng tướng mạnh, ông ta không có khả năng chống đối, đành phải quyến luyến tiễn biệt Huyền Trang.
Hoan Tín dẫn theo hơn hai mươi tùy tùng và mấy chục con lạc đà cùng ngựa mang theo đầy đủ vật tư, cùng Huyền Trang đi đến Cao Xương. Ngựa mà người Cao Xương cưỡi đều là Long mã sinh ra từ Yên Kỳ, còn gọi là Hải mã, giống ngựa này quý ngang với ngựa Đại Uyên, chẳng những cao to cường tráng, ngày đi sáu trăm dặm, mà còn bơi rất giỏi, chở người và hành lý bơi mấy chục dặm cũng không thấy mệt mỏi.
Hoan Tín cưỡi trên một con ngựa cao to, nhìn Huyền Trang vẫn cưỡi con hồng mã già yếu lúc trước, có chút không được tự nhiên, nói: “Đại sư, con ngựa này của ngài vừa thấp vừa gầy, chi bằng ngài đổi sang cưỡi con ngựa tốt mà đệ tử đang cưỡi đi!”.
Huyền Trang nở nụ cười, vuốt ve con ngựa gầy ốm: “Con ngựa này chính là bảo bối của bần tăng, nếu không có nó, bần tăng đã sớm bỏ mạng trên sa mạc Mạc Hạ Diên rồi!”.
Hoan Tín không biết phải làm sao, chỉ có thể thuận theo ý của Huyền Trang.
Đường từ Y Ngô đến Cao Xương dài hơn tám trăm dặm, ở giữa đều là sa mạc hoang vắng. Có điều, nơi này nằm trên Con đường Tơ lụa, chỉ cần không lạc đường, cứ cách hơn trăm dặm lại có một giếng nước. Vốn dĩ nơi có giếng nước thì sẽ có người ở, nhưng bị gió cát sa mạc xâm thực qua nhiều năm tháng, rất nhiều nơi đã không còn thích hợp để sinh sống nữa, thế nên nhiều thôn xóm bị bỏ hoang, xung quanh giếng nước đã biến thành cảnh tượng hoang tàn đổ nát. Còn có một số cây hồ dương với sức sống dồi dào đã mọc lên những chồi xanh non giữa hoang mạc.
Thế nhưng, Huyền Trang trên đường đi tới lại phát hiện ra có các lều trại được dựng sẵn bên cạnh các giếng nước. Đoàn người của bọn họ còn chưa đến, người Cao Xương đóng giữ ở đó đã đun nước ấm, nấu xong đồ ăn. Lúc này là tháng Mười một, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm trên sa mạc rất lớn. Không chỉ cung cấp sa y cũng như áo choàng da dê loại tốt nhất cho Huyền Trang sử dụng, người Cao Xương còn đo người A Thuật để may mấy bộ đồ lót, áo khoác da lông, áo trong, giày da trâu, bít tất theo kiểu Túc Đặc cho cậu bé, không thiếu thứ gì. Huyền Trang không khỏi âm thầm cảm thán, vị quốc vương Cao Xương này cẩn thận chu đáo như vậy, ân tình này quả là không dễ trả.
Cao Xương nằm trong bồn địa phía đông dãy Thiên Sơn, một dọc đường từ Y Ngô đến đây đều phải leo dốc, đến sườn núi của cao nguyên thì lại bắt đầu men theo khe núi đã bị nước sông làm xói mòn mà đi xuống. Lúc này đang là mùa đông, một đường thẳng hướng Thiên Sơn, đỉnh núi cao chót vót hòa nhập giữa tầng mây, tuyết đọng trắng lóa, làm nổi bật sắc xanh của những cây tùng, cây bách xen lẫn với nhau.
Sáu ngày sau, bọn họ đến thành Bạch Lực[59] trong bồn địa, nơi này nằm ở biên giới phía đông của Cao Xương. Cao Xương thi hành chế độ quận huyện, có tổng cộng bốn quận hai mươi mốt huyện. Thành Bạch Lực là một huyện trong đó, đứng đầu là quan huyện lệnh. Đến thành Bạch Lực, Huyền Trang mới biết Khúc Văn Thái đã phái trưởng tử của hắn, Thượng thư lệnh[60] cai quản thành Giao Hà[61] là Khúc Nhân Thư đích thân đến nghênh đón mình.
Cao Xương chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Nho gia Mặc Tuân[62] của Trung Nguyên, thực hiện chế độ trưởng tử kế thừa. Khúc Nhân Thư sinh ra đã là thế tử, ở Cao Xương có thể nói là dưới một người, trên vạn người. Huyền Trang không ngờ Khúc Văn Thái lại phái thế tử tới nghênh tiếp, trong lòng cũng có phần kinh sợ.
Khúc Nhân Thư cười nói: “Hôm nay gặp được đại sư, thật sự là may mắn của đệ tử. Đệ tử vốn định đích thân đến Y Ngô đón ngài, có điều thân là thế tử, đến nước khác có phần bất tiện. Do đó sau khi Hoan Tín đi, đệ tử liền đợi tại thành Bạch Lực này, chỉ mong được là người đầu tiên trong toàn thể bách tính Cao Xương nhìn thấy đại sư!”.
Huyền Trang thấy Khúc Nhân Thư hơn ba mươi tuổi, là người tao nhã phóng khoáng, tướng mạo đường hoàng, nói năng rất lịch sự, in đậm khí phách của danh sĩ Trung Nguyên, không khỏi tán thưởng mãi. Cho tới bây giờ, ngài đã gặp cả ba người nhi tử của quốc vương Cao Xương là thế tử Khúc Nhân Thư lịch sự nho nhã, nhị hoàng tử Khúc Đức Dũng hào sảng, oai hùng, tam hoàng tử Khúc Trí Thịnh sôi nổi thẳng thắn, đúng là mỗi người một phong thái, cho nên không khỏi có chút sùng bái vị quốc vương Khúc Văn Thái này.
Hai người nói chuyện một hồi, lúc này mặt trời cũng sắp lặn, Huyền Trang định nghỉ ngơi trong thành một đêm, ngày mai lại lên đường. Chẳng ngờ Khúc Nhân Thư lại lúng túng nói với Huyền Trang: “Đại sư, thành Bạch Lực cách vương thành không xa, phụ vương nóng lòng muốn gặp mặt ngài, nên xin mời đại sư đổi ngựa, chúng ta đến vương thành nghỉ ngơi tiếp!”.
Huyền Trang chưa quen thuộc địa lí, cho rằng “không xa” ở đây chỉ là mấy chục dặm đường, cho nên nghĩ, nếu đã không xa, vậy thì đi thôi. Khúc Nhân Thư rất vui mừng, lập tức đưa ngựa của mình cho Huyền Trang cưỡi. Con ngựa gầy ốm của ngài không được nghỉ ngơi, ngài không nỡ mang nó đi đường suốt đêm, liền giao phó lại cho huyện lệnh thành Bạch Lực sau này lại đưa tới trả mình, còn bản thân thì theo Khúc Nhân Thư tới vương thành.
Đi rồi, Huyền Trang mới biết, không xa này chỉ là cách nói tương đối, mọi người thúc ngựa chạy nhanh, mãi cho đến canh ba mới đến thung lũng Tân Hưng dưới chân dãy Thiên Sơn[63]. Mọi người đi ra theo con đường trong hẻm núi, trước mắt chính là bồn địa mênh mông bát ngát, hai bên đường là vườn nho trải dài ngút tầm mắt.
Từ thung lũng Tân Hưng đi về phía nam hai mươi dặm chính là vương thành Cao Xương. Trong màn đêm, tòa thành hùng vĩ tựa như một con thú khổng lồ lẳng lặng nằm trên mặt đất, cổng thành đóng chặt, không có đèn đuốc. Không ngờ khi đến dưới thành, đột nhiên cổng thành mở rộng ra, vô số bó đuốc và đèn lồng chiếu sáng cả thành, quốc vương Cao Xương là Khúc Văn Thái dẫn theo nhị hoàng tử là Khúc Đức Dũng, vương công, quý tộc, người hầu, cung nữ ra nghênh đón, mỗi người cầm trong tay một cây nến, chia làm hai hàng. Thì ra cả đêm bọn họ không ngủ, chỉ vì đợi Huyền Trang đến.
Khúc Văn Thái khoảng năm mươi tuổi, khuôn mặt vuông vắn, hai mắt sáng có thần, cằm để râu ngắn, cử chỉ thong dong, phong thái bất phàm, đầu đội vương miện, người mặc vương bào màu tím giống như quy chế của Trung Nguyên. Vừa nhìn thấy Huyền Trang, Khúc Văn Thái không khỏi cảm phục phong thái của ngài, rảo bước xông tới, dắt dây cương ngựa, quỳ bái trên mặt đất: “Phong thái của đại sư, thật đúng là Thần Phật chuyển thế! Đệ tử trông mong đại sư, giống như sa mạc khô hạn mong mỏi gặp trời mưa, giống như chúng sinh lạc đường hi vọng gặp được Di Lặc Bồ Tát!”.
Đoàn tùy tùng không ngờ Khúc Văn Thái lại cúi lạy ngay tại chỗ, nhất thời luống cuống tay chân, nhưng lại không tìm thấy thảm trải đất. Khúc Nhân Thư nhanh tay nhanh mắt, lập tức cởi áo bào của mình rải lên trên mặt đất, mới tránh cho đầu gối của Khúc Văn Thái không dính bụi bặm.
Huyền Trang cũng không ngờ đế vương lại quỳ lạy. Đây là một việc không thể nào tưởng tượng được ở Trung Nguyên. Ngài muốn nhanh chóng nhảy xuống ngựa, nhưng không ngờ sau khi Khúc Văn Thái quỳ xuống lại cong lưng lên: “Đại sư, xin cho phép đệ tử dùng thân này cung dưỡng, kính mời đại sư xuống ngựa!”.
Huyền Trang nhất thời ngây ngẩn cả người, cảnh tượng này rõ mồn một trước mắt, không phải là dáng vẻ quỳ gối làm bàn đạp của Khúc Trí Thịnh lúc trước hay sao? Làm sao ngài có thể nhận nổi thứ đại lễ này đây? Ngài lập tức nhảy xuống phía bên kia bụng ngựa, vòng qua đầu ngựa, nâng Khúc Văn Thái lên: “Bệ hạ, bần tăng thật sự không nhận nổi đại lễ này. Đế vương trấn an bách tính, tăng lữ giáo dục cảm hóa lòng dân, quốc gia không Phật không ổn định, Phật không có quốc gia không hưng thịnh. Bệ hạ bằng lòng giữ gìn Phật pháp, đã được chư Phật, chúng Bồ Tát phù hộ, sau này nhất định có phúc tuệ vô cùng tận. Bần tăng sao dám để bệ hạ hành đại lễ lớn như vậy đây?”.
Khúc Văn Thái mừng như mở cờ trong bụng, lời này của Huyền Trang thật sự đã gãi đúng chỗ ngứa của ông ta. Trước tiên, Huyền Trang thừa nhận sự thống trị của vương quyền đối với quốc gia, Phật giáo chỉ để trợ giúp ông ta giáo dục cảm hóa bách tính, hai bên hỗ trợ lẫn nhau, không bên nào thiếu được bên nào. Thứ hai, Huyền Trang ở trước mặt mọi người nói với ông ta, cũng tức là nói với các quốc gia khác rằng, quốc vương Cao Xương phổ biến Phật giáo, nói rõ rằng đã nhận được sự phù hộ của chư Phật, có được sự thừa nhận của chư Phật, hơn nữa sẽ còn nhận được phúc báo.
“Đại sư!” Khúc Văn Thái rưng rưng nước mắt: “Đệ tử biết đêm nay đại sư tới vương thành, nên từ sớm đã cùng vương phi dâng hương đọc kinh, cung kính chờ đợi đại sư tới, trong cung đã sắp xếp ổn thỏa, xin mời đại sư vào cung!”.
Bên cạnh có một chiếc kiệu lớn, Khúc Văn Thái đích thân vén rèm lên, mời Huyền Trang vào thành. Hai bên vang lên tiếng nhạc Phật, chiếc kiệu lớn trong vòng vây của quốc vương và văn võ bá quan tiến vào vương cung. Lầu các nơi hậu viện của vương cung đã được quét dọn, trong lầu thu xếp pháp trướng, bên trong là những vật cát tường khảm nạm ngà voi, châu báu, chuỗi ngọc… dưới ánh đèn chiếu rọi, vô cùng rực rỡ và lộng lẫy. Sau đó, vương phi dẫn theo mấy chục cung nữ tới lễ bái. Vị vương phi này hơn ba mươi tuổi, có vẻ không được khỏe, sắc mặt cũng không mấy vui vẻ, thế nhưng dung mạo xinh đẹp như hoa, tư thái thướt tha, nhìn dung mạo cũng giống người Trung Nguyên. Vương phi cũng không chờ lâu, lễ bái xong xuôi, Khúc Văn Thái liền để nàng hồi cung nghỉ ngơi.
Trước khi Huyền Trang gặp Khúc Văn Thái, ngài có phần bất mãn về việc ông ta cử Khúc Đức Dũng chặn giết sứ giả Yên Kỳ, cảm thấy ông ta nhất định là một người ngang ngược có dã tâm, bụng dạ nham hiểm, ngài không muốn tới Cao Xương chính là vì nguyên nhân này. Thế nhưng đêm nay, gặp mặt Khúc Văn Thái, ngài lại cảm thấy người này có trái tim nhân hậu, thành kính sùng Phật, tuyệt đối không phải loại người tàn nhẫn vô tình. Xem ra, thân là quốc vương, vì sự sinh tồn của quốc gia, quả thật không thể không làm như vậy.
Lúc này đã là giờ Dần, chỉ còn một canh giờ nữa là trời sáng. Huyền Trang phát hiện A Thuật ngồi ở trên giường, dáng vẻ nghiêng đầu giống như đang nghe bọn họ trò chuyện, nhưng thật ra thì người đã sớm ngủ thiếp đi, nước miếng chảy cả ra ngoài. Huyền Trang thấy Khúc Văn Thái cũng có vẻ mỏi mệt, liền nói: “Bệ hạ, hôm nay đã làm phiền người phải chờ lâu, thật sự rất áy náy. Bệ hạ nhiều quốc sự, hay là hãy sớm nghỉ ngơi đi!”.
Tinh thần của Khúc Văn Thái phấn chấn, ông ta xua tay: “Không vội, đệ tử không mệt. Có thể nói chuyện với đại sư, được Phật pháp che chở, nào có đất dung thân cho con ma ngủ chứ? Ha ha!”.
Huyền Trang cũng bật cười. Khúc Văn Thái do dự một hồi, dường như có điều muốn nói, thế nhưng không có cách nào nói ra khỏi miệng. Huyền Trang ngao du từ nhỏ, thấy rõ nhân tình thế sự, liền nói: “Bệ hạ có điều gì lo buồn sao?”.
“Ôi!” Khúc Văn Thái vung tay, lệnh cho người tùy tùng bên cạnh đi ra ngoài, trong miệng than thở, sắc mặt thay đổi không ổn định, nhưng lại chần chừ không chịu nói. Huyền Trang cũng không hỏi, chỉ mỉm cười nhìn ông ta.
Khúc Văn Thái dường như đã hạ quyết tâm, đột nhiên đứng lên rồi quỳ gối xuống đất, dập đầu nói: “Xin đại sư hãy cứu đệ tử!”.
Huyền Trang kinh ngạc, vội vàng nhảy xuống giường, dùng hai tay nâng ông ta dậy: “Bệ hạ, hà tất phải như vậy? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.
Khúc Văn Thái nhắm mắt thở dài, cười khổ nói: “Có một việc trong nhà, vốn không muốn truyền ra bên ngoài, thế nhưng chuyện này lại liên lụy đến vận mệnh của Cao Xương ta… Ôi!” Ông ta do dự một hồi, cuối cùng thấp giọng nói: “Đệ tử nhất thời cũng không biết nên bắt đầu nói từ đâu, nguồn gốc là ở nghịch tử của đệ tử. Nếu như đại sư tại Y Ngô đã quen biết nó, vậy đệ tử sẽ nói về Y Ngô!”.
“Người đang nói đến tam hoàng tử sao?” Huyền Trang kinh hãi, hơn hai mươi ngày trước, Khúc Trí Thịnh hộc máu hôn mê bên ngoài thành Y Ngô, ngài không khỏi lo lắng: “Lẽ nào tam hoàng tử đã xảy ra chuyện?”.
“Nó xảy ra chuyện sao?” Chẳng ngờ Khúc Văn Thái lại tức giận: “Hừ, cho dù bách tính Cao Xương ta có chết hết, thì nó cũng không xảy ra chuyện được! Tên nghiệt tử này… Tên nghiệt tử này, nó còn thoải mái lắm!”.
Huyền Trang nhìn bộ dạng nghiến răng nghiến lợi của Khúc Văn Thái, không khỏi ngỡ ngàng, Trong suy nghĩ của ngài, Khúc Trí Thịnh thành thật chất phác tự nhiên, nhưng vì sao lại khiến Khúc Văn Thái căm hận như vậy?
Khúc Văn Thái lấy lại bình tĩnh, bắt đầu kể lại: “Vài ngày trước, đệ tử lệnh cho nhị hoàng tử là Đức Dũng đi sứ Y Ngô. Vốn dĩ chuyến đi này không cần tam hoàng tử Trí Thịnh đi theo. Có điều đứa trẻ này từ nhỏ đã có tính cách yếu đuối, không tranh với đời, đệ tử cũng là muốn cho nó ra ngoài rèn luyện một phen, nên đã ép nó đi trước lão nhị. Không ngờ, chuyến đi này, lại khiến cho đệ tử rước lấy phiền toái vô cùng vô tận, gần như sắp mang lại tai họa diệt vong cho Cao Xương rồi!”.
“Lúc tam hoàng tử hôn mê ở thành Y Ngô, bần tăng cũng có mặt” Huyền Trang giật mình: “Ngày hôm sau ngài ấy đã được nhị hoàng tử đưa về, hình như không gây ra rắc rối gì mà nhỉ?”.
“Đại sư có điều chưa biết” Khúc Văn Thái cười khổ: “Đi sứ Y Ngô thuận lợi, cũng không phải khó khăn gì. Có điều, khi lão tam trở về, lại chẳng biết mang một chiếc bình đồng từ đâu về cùng. Chiếc bình đồng đó… trên thân bình còn có khắc một dòng chữ Ba Tư bằng vàng: Chiếc bình của vua Đại Vệ!”.
Huyền Trang hít một hơi lạnh, lập tức nhớ tới cảnh tượng kinh hoàng ngày hôm đó trong sa mạc Mạc Hạ Diên, sứ giả Yên Kỳ bị chặn giết. Gia Tư Đinh lúc sắp chết đã nắm chặt lấy tay của mình, miệng lẩm nhẩm bốn chữ: “Trong bình có quỷ…”.
Huyền Trang liếc mắt nhìn A Thuật, trông nó giống như đang ngủ say nhưng hàng lông mi dài lại khẽ rung rung, rõ ràng là đang giả vờ ngủ, ngài thở dài, nhíu mày hỏi: “Chiếc bình đồng ấy có hình dáng như thế nào?”.
“Cao chừng hai thước, nặng hơn ba mươi cân, thân lớn cổ nhỏ, toàn thân bịt kín, thân bình chạm khắc hoa văn phức tạp, miệng bình hàn thiếc, trên nền thiếc có con dấu mang hình ngôi sao sáu cánh.” Trong mắt Khúc Văn Thái thoáng lộ ra sự sợ hãi: “Thiếc trên miệng bình rất cứng, đao kiếm cũng không cạy ra được. Lắc thì thấy trong bình rỗng tuếch. Sau khi Trí Thịnh trở về, liền say mê Chiếc bình của vua Đại Vệ này, dùng ngựa chở nó đi khắp nơi tìm người hỏi thăm. Trong vương thành Cao Xương, người Hồ Hán chung sống loạn tạp, thiếu gì thương lữ đến từ vùng Ba Tư. Sau đó có một thương lữ nói cho nó biết, chiếc bình này, chính là Chiếc bình của vua Đại Vệ trong truyền thuyết của đế quốc Tát San Ba Tư”.
“Hả?” Huyền Trang lại càng tò mò: “Chiếc bình của vua Đại Vệ này còn có truyền thuyết sao?”.
“Không sai!” Khúc Văn Thái càng thêm sợ hãi, thậm chí trên trán còn rịn mồ hôi: “Truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ này được lưu truyền rộng rãi ở Tát San Ba Tư, vô cùng kỳ lạ. Nói là thời kỳ hoàng đế A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ đệ nhất[64] (Ardashir I) khai quốc, bên cạnh bờ biển có một ông lão đánh cá sinh sống, trong nhà ông ta có một người vợ già yếu và ba cô ái nữ, đều dựa vào ông ta nuôi sống, nhà chỉ có bốn bức tường, vừa đói vừa rét. Mặc dù ông ta sống bằng nghề đánh cá, nhưng lại có một thói quen kỳ dị, mỗi ngày chỉ tung lưới bốn mẻ cá, không chịu đánh nhiều hơn. Có một hôm, ông lão đi ra biển tung lưới bắt cá. Lần quăng lưới thứ nhất, ông ta chỉ đánh được một con lừa chết. Ông lão đánh cá vô cùng ủ rũ, lại quăng lưới lần thứ hai, nhưng chỉ kéo lên được một cái vạc sứ chứa đầy bùn cát, ông lão đánh cá bắt đầu tuyệt vọng. Thế nhưng lần quăng lưới thứ ba còn gay go hơn, đánh lên chỉ là một đống xương vỡ và vỏ sò nát vụn. Thế là, ông lão đánh cá vừa khóc vừa quăng lưới lần cuối cùng. Không ngờ lần này đánh lên được một chiếc bình đồng thau. Miệng bình dùng thiếc che lại, trên nắp là con dấu của Sở La Môn Đại Vệ (Solomon David)”.
Huyền Trang yên lặng lắng nghe, tò mò không nhịn được mới hỏi: “Sở La Môn Đại Vệ là ai?”.
“Đệ tử đặc biệt cho tìm những người Ba Tư đó để hỏi thăm, nghe nói Sở La Môn Đại Vệ là quốc vương đời thứ ba của vương quốc Dĩ Sắc Liệt (Israel) thời Thượng cổ, cũng là quốc vương vĩ đại nhất của Dĩ Sắc Liệt.” Khúc Văn Thái nói: “Ông ta là một quốc vương vĩ đại, một chỉ huy quân sự vĩ đại, cũng là trí giả vĩ đại nhất. Dưới sự cai trị của ông ta, vương quốc Dĩ Sắc Liệt đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ huy hoàng. Ông ta tài hoa xuất chúng, một đời viết ra hơn ngàn bài thơ ca. Đây là một người được thần linh chiếu cố, trí tuệ của ông ta tràn đầy thần tính, truyền thuyết nói ông ta có một chiếc nhẫn, phía trên có khắc kí hiệu hình ngôi sao sáu cánh và tên thật của Thượng đế, khiến cho ông ta có được sức mạnh để sai khiến cả ma giới”.
Huyền Trang sợ hãi than lên: “Tam thiên đại thiên thế giới[65], quả nhiên là muôn màu muôn vẻ. Bệ hạ mời người tiếp tục kể!”.
Khúc Văn Thái gật gật đầu, tiếp tục kể: “Sau khi ông lão đánh cá vớt Chiếc bình của vua Đại Vệ lên, liền đục phong tích trên miệng bình ra, nhìn xem bên trong có đồ vật gì hay không, không ngờ từ trong bình lại tỏa ra một đám khói nhỏ, hóa thành một con quỷ cao lớn như núi, tóc tai bù xù, xấu xí hung ác. Ông lão đánh cá bị con quỷ này dọa cho sợ ngây người, vô cùng sợ hãi, không ngờ rằng con quỷ quay ra cầu xin ông tha thứ: ‘Sở La Môn vĩ đại, xin hãy tha thứ cho ta, ta không bao giờ dám phạm vào ý chỉ của ngài nữa.’ Ông lão đánh cá mới nói: ‘Sở La Môn đã qua đời hơn một ngàn năm rồi, bây giờ là thời hậu thế sau khi ngài chết đi. Ma quỷ như ngươi tại sao lại chui vào chiếc bình này chứ?’ Con quỷ vừa nghe, liền nói ngay: ‘Lão đánh cá kia, ta báo cho ngươi một tin vui, bởi vì ta muốn giết chết ngươi!’ Ông lão đánh cá hỏi: ‘Ngươi vì sao lại muốn giết ta? Chẳng lẽ ta cứu ngươi ra, lại phạm phải tội gì sao?’ Con quỷ kể với ông lão, nói nó vốn là ma thần thủ hạ dưới tay Ma vương A Lí Man[66] (Ahriman), tên là A-tạp Mã-nạp (Ake Mana), thần thông quảng đại, những người bị nó nắm trong tay sẽ mất đi khả năng nhận thức chính tà, thiện ác. Bởi vì dám chống đối quốc vương Sở La Môn Đại Vệ, nên đã bị ngài bắt được và phong ấn vào trong chiếc bình này, đóng lên ấn dấu hình ngôi sao sáu cánh, vứt xuống biển sâu, vĩnh viễn không được siêu sinh. Nó ở dưới đáy biển không biết bao nhiêu năm, trong một trăm năm đầu tiên, nó thề rằng: ‘Nếu có ai cứu ta, ta sẽ giúp cho hắn cả đời vinh hoa phú quý’. Nhưng lại chẳng có ai tới cứu nó. Một trăm năm tiếp theo, nó lại thề nguyện: ‘Ai có thể cứu ta, ta sẽ tặng cho hắn tất cả kho báu dưới lòng đất’. Nhưng vẫn không ai cứu nó. Lại một trăm năm nữa, nó thề rằng: ‘Ai có thể cứu ta, ta sẽ cho hắn ba điều ước’. Kết quả vẫn là không ai tới cứu nó. Rồi lại qua một trăm năm nữa, nó trở nên căm hận, thề rằng: ‘Ai tới cứu ta, ta sẽ giết chết hắn’. Mà ông lão đánh cá lại tới cứu nó đúng vào lúc này.”
“A Di Đà phật, vạn vật trên thế gian, sinh tử khôn lường. Chưa từng có thứ gì thoát nổi hai chữ ‘vô thường’. Ông lão đánh cá phúc họa buồn vui trong nháy mắt đều tan biến, quả nhiên là chú giải tuyệt diệu cho ngã Phật chân pháp.” Huyền Trang cũng bị truyền thuyết nơi xứ người này làm cho kinh ngạc, tuy nhiên ngài cảm thấy không cần phải sợ hãi, đây chỉ là một câu chuyện cổ bao hàm nhiều ý nghĩa thâm sâu: “Vậy sau đó thì sao?”.
“Sau đó, ông lão đánh cá nói, ‘ta cứu ngươi, ngươi lại đòi giết chết ta, nếu thế thì phải để ta chết một cách minh bạch. Thân hình của ngươi to lớn như vậy, làm thế nào có thể thu nhỏ lại và chui và trong chiếc bình kia?’ Con quỷ kia có chút đắc ý, muốn khoe ra phép thuật của mình, bèn hóa thân thành một làn khói nhẹ, chui vào trong bình. Ông lão đánh cá mau tay nhanh mắt, nhặt miếng thiếc phong ấn lên, dán chặt vào miệng bình. Con quỷ biết mình bị mắc mưu, muốn ra khỏi bình, nhưng bị phong ấn sao sáu cánh ngăn cản. Ông lão đánh cá đem cái bình ném xuống biển sâu thêm một lần nữa.”
Khúc Văn Thái kể xong, thổn thức không thôi. Huyền Trang thở dài: “Mỗi người đều có phật tính! Đúng là ông lão nhanh trí tự cứu vớt chính mình!”.
Hai người đang trò chuyện, bỗng nhiên nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào khẽ vang lên, hai người kinh ngạc quay đầu lại, thấy A Thuật đang nhắm mắt nằm ngủ nhưng trên mặt lại đầy nước mắt.
Khúc Văn Thái vốn không để ý tới đứa trẻ này, lúc này mới nhịn không được mà ngạc nhiên: “Đại sư, đứa trẻ này làm sao vậy?”.
Huyền Trang trong lòng hiểu rõ, nhíu mày suy nghĩ, đi đến bên A Thuật nhỏ giọng nói: “A Thuật, chớ để uất ức trong lòng. Bệ hạ không phải là người xấu, con có thể đem đầu đuôi câu chuyện kể lại rõ ràng cho người, ta tin rằng bệ hạ nhất định trả lại công bằng cho con”.
A Thuật chậm rãi mở mắt, đôi mắt màu xanh dương tràn đầy nước mắt. Khúc Văn Thái không ngừng vò đầu: “Đại sư, rốt cuộc sao lại thế này?”.
A Thuật bỗng nhiên thét chói tai: “Là ngươi…. Là ngươi giết chết thúc thúc của ta, người của tộc ta!”.
Khúc Văn Thái chấn động: “Đại sư…?”.
Huyền Trang lắc đầu thở dài: “Bệ hạ, đứa trẻ A Thuật này vốn không phải người hầu theo ta từ Trường An tới đây, mà ta nhặt được nó trong sa mạc Mạc Hạ Diên. Nó vốn là người Túc Đặc, cùng thúc thúc của nó và người trong tộc hành thương tới thành Trường An, khi đi qua Yên Kỳ liền kết bạn đồng hành cùng với một đội thương nhân của Yên Kỳ. Không ngờ rằng tại sa mạc Mạc Hạ Diên…”.
Khúc Văn Thái đột nhiên đứng lên, trên mặt lộ rõ thần sắc khó tin, chỉ vào A Thuật: “Lẽ nào… lẽ nào…?”.
Huyền Trang gật đầu, ngưng mắt nhìn ông ta: “Đoàn thương lữ mà nhị hoàng tử giết chết trên sa mạc Mạc Hạ Diên, chính là người trong tộc của nó, lúc ấy nó trốn dưới cát, mới may mắn thoát khỏi kiếp nạn. Sau đó vừa khéo bần tăng đi qua, thương cảm trước nỗi khổ của nó, liền giữ nó lại bên người, dự định sẽ đưa nó trở về quê nhà tại Tát Mã Nhĩ Hãn.”
Khúc Văn Thái suy sụp ngồi xuống, gương mặt đỏ hồng liền chuyển màu trắng bệch, miệng nói ngập ngừng: “Đại sư, đệ tử….!”. Nhìn bộ dạng của ông ta hệt như một đứa trẻ làm chuyện xấu bị bắt ngay tại trận vậy.
“Bệ hạ!” Huyền Trang thấp giọng nói, “Bần tăng tuy rằng biết Cao Xương và Yên Kỳ có tranh chấp, hiểu được nỗi khổ của bệ hạ, nhưng nếu giết hại thương nhân thế này, chẳng phải là vi phạm vào giới luật nhà Phật rồi sao?”.
Khúc Văn Thái ngồi ngơ ngác, trong lòng cuộn sóng, sự hối hận cùng xấu hổ sâu đậm khiến cho ông ta không thể ngẩng đầu. Cả cuộc đời ông ta luôn hưởng tiếng tốt, lập chí quyết phải trở thành một vị quốc vương sáng suốt, tài đức nhất trong lịch sử của Cao Xương, mới hao tổn tâm cơ, dùng cường thế ép buộc, giành Huyền Trang từ trong tay quốc vương Y Ngô qua đây, không nghĩ tới trong cuộc đua chính trị này mình lại là kẻ hắc ám nhất, một màn kịch đẫm máu nhất, lại bị vị danh tăng Đại Đường bắt gặp tận mắt, lại còn đưa người bị hại đến trước mặt mình đối chất.
“Đại sư…” Khúc Văn Thái ngơ ngác nhìn Huyền Trang, giọt nước mắt rơi trên khuôn mặt, “Đệ tử là cư sĩ từng thọ ngũ giới, sao dám vô cớ sát sinh! Chỉ là, đệ tử muốn vì thiện nghiệp, quốc vương lại là cái gốc của ác nghiệp, trong cuộc tranh chấp giữa hai nước, không thể nói đến lẽ trời, đến tình người. Đại sư cũng biết, quyền khống chế Con đường Tơ lụa là huyết mạch sinh tồn của các tiểu quốc Tây Vực, người Yên Kỳ muốn sửa đổi con đường này, nếu trong lòng đệ tử có thứ gọi là thiện niệm, toàn bộ Cao Xương của ta sẽ bị gió cát của đại mạc thổi bay, dân chúng ly tán, quốc gia suy tàn!”.
“Chẳng lẽ hai nước không thể chung sống hòa thuận với nhau được sao?” Huyền Trang hỏi, “Bệ hạ có cách nào chung sống hòa thuận với Yên Kỳ mà không sinh ra cảnh giết chóc nữa không?”.
Khúc Văn Thái cười đau khổ: “Đây không phải chuyện muốn hay không muốn, đối với Cao Xương của ta mà nói, một khi thay đổi tuyến đường của Con đường Tơ lụa, thương lữ không còn qua đây nữa, thương thuế dần cạn kiệt, đất trồng cấy trên thảo nguyên của ốc đảo trong Cao Xương ta vốn không đủ để nuôi sống ba vạn người dân, vì thế dân chúng sẽ lũ lượt lưu vong qua nước khác.”
“Nói như vậy là nếu dân cư giảm bớt, thì vương quốc cũng không thể tiếp tục tồn tại hay sao?” Huyền Trang hỏi. Lời ngài hỏi không phải để chất vấn, mà là thật tâm mong muốn tìm hiểu vấn đề mà các nước Tây Vực đang gặp phải.
Khúc Văn Thái liên tục lắc đầu: “Đại sư, người không biết, một quốc gia sống trên ốc đảo trong sa mạc, là dựa vào nhân lực để duy trì. Bởi vì trong đại mạc này, nguồn nước trong ốc đảo vốn không đủ, chúng ta phải tôn tạo hệ thống thủy lợi phức tạp để tưới cho hoa màu. Như ở Cao Xương, chúng ta đào mương dẫn nước từ chân dãy Thiên Sơn cách ngoài thành phía bắc hai mươi dặm, từ đây dẫn nước chảy xung quanh vương thành Cao Xương. Trừ bỏ một mương chính, thành tây có mười sáu nhánh mương, thành đông có mười bảy nhánh, thành nam thành bắc mỗi thành chín nhánh. Như thế hệ thống dẫn nước phức tạp này cần tới bao nhiêu người mới duy trì nổi đây?”.
Huyền Trang giật mình: “Có nhiều mương nước vậy sao? Nhưng trên đường bần tăng tới đây lại không thấy nhiều như vậy!”.
“Ha ha!” Khúc Văn Thái cười khổ, “Đại sư đương nhiên không thấy được, đại đa số đều là giếng mương. Cái gọi là giếng mương này, chính là những mương nước được giấu dưới lòng đất. Đại mạc khí hậu khô hạn, nếu để mương nước lộ trên mặt đất thì nước sẽ bốc hơi cạn sạch hoặc chảy thấm vào cát, cho nên chúng ta lợi dụng địa thế cao của Thiên Sơn và địa thế thấp trong vương thành, đào mương nước dưới lòng đất, xuyên qua sa mạc, dẫn nước vào khu vực tưới tiêu. Ở khu vục tưới tiêu, cách mỗi một trăm bước, ngay tại chỗ mương ngầm đào một cái giếng vuông góc, dùng lấy nước tưới. Gần vương thành Cao Xương, tổng chiều dài giếng mương vào khoảng bảy tám trăm dặm. Xin đại sư nghĩ xem, công trình thủy lợi phức tạp này, cần bao nhiêu người duy trì? Một khi dân chúng bỏ đi, hệ thống thuỷ lợi sẽ không thể duy trì được nữa, đồng ruộng bị gió cát ăn mòn, ốc đảo dần dần biến thành hoang mạc, Cao Xương sao có thể tránh khỏi nạn diệt vong! Trên Con đường Tơ lụa cũ, bên bờ hồ La Bố từng có vương quốc Lâu Lan, chính là bởi vì Con đường Tơ lụa thay đổi tuyến đường, bị thương nhân ngó lơ, dân cư bỏ đi, hệ thống thủy lợi của Lâu Lan sụp đổ, trong vòng vài chục năm liền biến thành tòa thành bỏ hoang không người ở”.
Người Trung Nguyên vốn rất quen thuộc với Lâu Lan, sử sách còn ghi lại cuộc xung đột nổi tiếng của Hán triều và Lâu Lan, Lâu Lan trong lòng người Trung Nguyên là một tiểu quốc gian ác, ngang bướng, bất phục điển hình. Hơn trăm năm sau, Vương Xương Linh còn mượn tích này để hoài niệm: “Hoàng sa bách chiến xuyên kim giáp, bất phá Lâu Lan chung bất hoàn.”[67] Khi đó, Lâu Lan đã bị vùi lấp trong đại mạc được bốn trăm năm rồi.
“Trên cõi đời này, mọi người đều phải nỗ lực hết sức, đại quốc tranh bá phải dùng hết toàn lực, tiểu quốc sinh tồn cũng phải dùng hết toàn lực, Phật Di Lặc niết bàn, thật không biết khi nào mới đến!” Huyền Trang cảm khái không thôi.
Bắt gặp ánh mắt A Thuật nhìn mình tràn ngập hận thù, Khúc Văn Thái thở dài: “Bất luận như thế nào, đệ tử giết hại người vô tội cũng là nghiệp chướng nặng nề. Người không thể sống lại, đệ tử ngày mai liền phái người đi sa mạc Mạc Hạ Diên, thu thập xương cốt của đoàn thương lữ Túc Đặc, đưa đến Hiên từ của Cao Xương, để bọn họ được an táng trong một tòa tháp tĩnh lặng. Đệ tử đích thân đến hiến tế.” Quốc vương ôn tồn nhìn A Thuật, “Nếu ngươi có thể tha thứ cho bổn vương, bổn vương hy vọng có thể đền bù cho thúc thúc và những người trong tộc của ngươi, mỗi người một trăm đồng vàng, một ngàn đồng bạc, phái người đưa đến Tát Mã Nhĩ Hãn, để người nhà của họ không phải lo lắng về cuộc sống nữa.”
Tới đây thì Huyền Trang cũng không thể nói gì hơn. Làm người đứng đầu một nước, Khúc Văn Thái tự hạ thấp mình như vậy, đã đủ để thấy sự chân thành của ông ta.
A Thuật không nói lời nào, chỉ im lặng, ngây người một hồi lâu, rồi xoay người nằm lại lên giường, trùm chăn một mình khóc nức nở.
Khúc Văn Thái cùng Huyền Trang nhất thời trầm mặc không nói chuyện, hai người nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc này sắc trời cũng sắp chuyển sáng, Huyền Trang khều bấc đèn: “Bệ hạ, trời sắp sáng rồi, truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ có phải đã kể xong rồi không?”.
Khúc Văn Thái vỗ đầu, lộ ra thần sắc ảo não, sự gián đoạn của A Thuật làm ông ta gần như quên hết mọi việc, không để lỡ thời gian liền tiếp tục nói: “Mới vừa rồi đệ tử kể, chính là nói về lai lịch Chiếc bình của vua Đại Vệ. Nghe nói ông lão đánh cá sau đó đã vô tình kể lại việc này, thế nào lại bị A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ biết được. A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ lúc ấy vẫn chưa lên làm hoàng đế Tát San Ba Tư, còn là Tổng đốc thành Pháp Nhĩ Tư[68] (Fars) của đế quốc Phạ Đề Á[69] (Parthia), sau khi có được quyền lực và sự ủng hộ của tôn giáo, liền tính kế khởi binh phản loạn. Nghe nói đến thần tích kỳ lạ về Chiếc bình của vua Đại Vệ, hắn liền phái người bí mật điều tra nghe ngóng, quả nhiên đã vớt được nó từ đáy biển lên. Hắn cùng với con quỷ trong chiếc bình lập nên khế ước, chỉ cần con quỷ thỏa mãn ba nguyện vọng của hắn, hắn sẽ thả nó ra. Nguyện vọng thứ nhất của hắn chính là thôn tính đế quốc Phạ Đề Á. Quả nhiên, trong hai năm liền tấn công thắng lợi, thế như chẻ tre, hắn giết được vị quốc vương cuối cùng của đế quốc Phạ Đề Á, sáng lập nên giang sơn Tát San Ba Tư, đến nay đã được bốn trăm năm”.
“Thực sự thần kỳ như vậy sao?” Huyền Trang kinh hãi, bởi lời kể của Khúc Văn Thái lúc này không còn là truyền thuyết nữa mà chuyển thành chuyện thực lịch sử, “Nguyện vọng thứ hai của hắn là gì?”.
“Lúc ấy, Tát San Ba Tư lập quốc chưa lâu, gặp phải kẻ thù lớn đầu tiên chính là vương quốc Đại Á Mĩ Ni Á[70] (Armenia), vương quốc này diện tích lãnh thổ rộng lớn, thực lực cường đại. Nguyện vọng thứ hai của A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ, chính là chinh phục được Đại Á Mĩ Ni Á. Ba năm sau, hắn liền đạt được nguyện vọng này, quốc vương Đại Á Mĩ Ni Á cũng thần phục hắn”, Khúc Văn Thái nói.
Huyền Trang càng lúc càng tò mò: “Như vậy nguyện vọng thứ ba là gì?”.
“Không có nguyện vọng thứ ba!” Khúc Văn Thái cười khổ, “Nếu sau khi nguyện vọng thứ ba hoàn thành, chính là lúc hắn phải mở Chiếc bình của vua Đại Vệ ra, phóng thích con quỷ. A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ là người thế nào, sao có thể ngu ngốc làm ra chuyện mổ gà lấy trứng như vậy được chứ. Từ đó hắn không hề ước thêm điều gì nữa, cho đến cuối đời, khế ước của hắn và con quỷ cũng không kết thúc. Bởi vì hắn muốn giữ lại Chiếc bình của vua Đại Vệ ở Tát San Ba Tư mãi mãi, cho con cháu ngàn đời kế thừa!”.
Huyền Trang yên lặng, thủ đoạn của bậc trí dũng kiệt xuất này, ngay cả ma quỷ cũng không phải đối thủ: “Như vậy Chiếc bình của vua Đại Vệ sau này quả thực vẫn được giữ ở Tát San Ba Tư, do các vị vua Tát San Ba Tư sau này kế thừa?”.
“Đúng vậy!” Khúc Văn Thái nói, “Đệ tử đã tự mình hỏi qua tất cả những người Ba Tư tại Cao Xương, theo bọn họ nói, Chiếc bình của vua Đại Vệ quả thực được cất giấu nghiêm mật ở cung điện Ba Tư, do các vị hoàng đế của Tát San Ba Tư nắm giữ. Mỗi một đời hoàng đế, chỉ có thể nói ra hai nguyện vọng với Chiếc bình của vua Đại Vệ, dựa vào hai nguyện vọng này, Tát San Ba Tư mới có thể yên ổn thống trị bốn trăm năm. Bốn trăm năm qua, có vô số vị anh hùng, hào kiệt, đối với vương vị hoàng đế như hổ rình mồi, đều luôn bị Chiếc bình của vua Đại Vệ trấn áp, tiêu diệt. Ha ha, đệ tử còn nghe được một câu chuyện tình yêu. Nghe nói khi hoàng đế Tát San Ba Tư là Khố Tư Lỗ đệ nhị còn trẻ, phong lưu ngả ngớn, hắn không tin ma lực trong Chiếc bình của vua Đại Vệ, vì thế hắn đã ước nguyện mình có thể có được mỹ nữ hoàn hảo nhất trên thế gian. Kết quả hắn thực sự gặp được công chúa Hi Lâm của Cách Lỗ Cát Á[71] (Georgia), bèn lập tức cưới nàng làm hoàng hậu, chuyện này quả thực khiến lòng người rúng động. Cho tới bây giờ, vị hoàng hậu Hi Lâm này đã hơn năm mươi tuổi, Khố Tư Lỗ đệ nhị vẫn ân sủng nàng như trước, nói gì nghe nấy.”
Huyền Trang nhăn hàng lông mày: "Chiếc bình của vua Đại Vệ nếu đã là vật bảo truyền quốc của đế quốc Tát San Ba Tư, vậy sao lại có thể theo thương lữ Túc Đặc chuyển tới phương đông được?”.
Khúc Văn Thái cũng lắc đầu khó hiểu, Huyền Trang hỏi A Thuật: “Con có từng nghe thúc thúc của con nói qua không?”.
“Chưa từng!” A Thuật thò đầu ra khỏi chăn, cất tiếng nặng nề đáp, “Thúc thúc của con chưa từng đến Ba Tư, sau khi thúc ấy đem hàng hóa của phương đông vận chuyển đến Tát Mã Nhĩ Hãn thì bán lại cho thương nhân Ba Tư ở đó”.
Huyền Trang suy nghĩ sâu xa một hồi, không phát hiện được manh mối nào. Thế nhưng Gia Tư Đinh có móc nối quan hệ với người Ba Tư là chuyện không thể nghi ngờ, về việc Chiếc bình của vua Đại Vệ làm thế nào rời được khỏi Ba Tư, rồi làm thế nào tới được tay của Gia Tư Đinh, chỉ sợ là còn có cả một quá trình phức tạp vô cùng. Nhưng trước mắt, điều này cũng không quan trọng.
Huyền Trang cũng không ngờ được, việc ngài cố ý xem nhẹ cả quá trình này vừa hay lại là nút thắt ém nhẹm bí mật về Chiếc bình của vua Đại Vệ, khiến cho chuyến đi Tây Vực này của ngài gặp vô vàn khổ ải, linh hồn ngài như bị thiêu đốt, như rơi xuống địa ngục.
“Bệ hạ, vậy về sau thì sao? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?” Huyền Trang hỏi.
“Về sau…” Khúc Văn Thái trên mặt lộ ra vẻ sợ hãi, giọng nói cũng tựa hồ có chút khô khan, “Tam hoàng tử sau khi biết truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ, đã bắt đầu suy nghĩ, làm thế nào để có thể nói chuyện được với con quỷ trong chiếc bình. Ngày ngày nó ở trong cung đùa nghịch với thứ này, đệ tử lúc ấy cũng không cho rằng chuyện này có thật, chỉ nghĩ đó là truyền thuyết của nước người ta. Không ngờ, có một ngày, tổng quản Chu Quý của vương cung đến bẩm báo đệ tử… tên nghiệt tử này, nó… nó thực sự đã phá giải được bí mật trong Chiếc bình của vua Đại Vệ, lập khế ước với ma quỷ!”.
“Cái gì?” Huyền Trang há hốc miệng, hai mắt nhìn đăm đăm, dù thế nào cũng không thể tin được. Ngay cả A Thuật đang nằm trong chăn cũng ngồi bật dậy, nhìn Khúc Văn Thái đến ngẩn cả người. Trước đây, tuy rằng câu chuyện cổ này có nhiều phần chìm nổi, kinh tâm động phách, nhưng chỉ là từ nước khác đồn tới, không có bằng chứng thực sự nào. Không ngờ rằng chỉ trong giây lát, chuyện xưa ở cung điện Ba Tư cách xa ngàn dặm đã hiển hiện ngay bên mình.
“Đúng vậy!” Khúc Văn Thái giống như vừa khóc vừa cười, “Nó thực sự đã lập khế ước với ác quỷ, Chu Quý tận mắt nhìn thấy. Không chỉ là Chu Quý, không dưới mười mấy người trong cung của đệ tử cũng đều tận mắt nhìn thấy. Tên nghiệt tử này lấy máu nóng từ chính ngực mình, tưới lên miệng Chiếc bình của vua Đại Vệ, chiếc bình giống như một người sống không ngừng nuốt lấy dòng máu. Trên thân bình khắc không ít hoa văn, dòng máu tươi kia liền rót đầy lên mỗi hoa văn, hoa văn được khảm bằng tơ vàng và chỉ bạc, tựa mạch máu trên da thịt con người. Sau đó, từ miệng bình bay ra từng làn khói, ngưng tụ khắp bầu trời phía trên cung điện, rất lâu cũng không tan, giống như một thực thể đang sống. Điều quỷ quái nhất là, từ trong đám khói phát ra tiếng người ù ù, bắt đầu đối đáp với tên nghiệt tử kia!”.
“Trong bình có quỷ… Quả nhiên là thật….” Sau gáy Huyền Trang ướt đẫm mồ hôi, nhớ tới đêm đó Gia Tư Đinh trước khi chết đã nhắc đến bốn chữ này, quả thực không rét mà run.
“Trong bình có quỷ? Đó là có ý gì?” Khúc Văn Thái hỏi.
Huyền Trang liền đem lời của Gia Tư Đinh trước khi chết kể lại một lượt, A Thuật nhớ tới tình cảnh thê thảm của thúc thúc mình, khóc thất thanh. Khúc Văn Thái hổ thẹn, ngồi xuống bên thành giường, nhẹ nhàng trấn an cậu ta, tỏ thành ý hối lỗi. A Thuật tựa hồ cũng bị câu chuyện về Chiếc bình của vua Đại Vệ hấp dẫn, lau khô nước mắt, chăm chú nghe hai người họ nói chuyện.
“Tam hoàng tử có từng nói ra tâm nguyện nào không?” Huyền Trang hỏi.
“Đương nhiên là có”, Khúc Văn Thái cười khổ, “Chỉ cần là con người, ai có thể cự tuyệt thứ hấp dẫn này? Tâm nguyện mà nó nói ra… Đại sư đoán xem, nhất định sẽ đoán ra được”.
Huyền Trang giật mình, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, lạc giọng mà hỏi: “Chẳng lẽ là… công chúa Yên Kỳ?”.
Khúc Văn Thái muốn cười nhưng biểu cảm trên gương mặt còn khó coi hơn cả khóc: “Đại sư quả nhiên trí tuệ kinh người, chỉ đoán một lần đã trúng ngay”.
Huyền Trang yên lặng, phàm là người hiểu sơ về Khúc Trí Thịnh một chút, đều đoán được ra tâm nguyện trong lòng hắn. Khúc Văn Thái nói: “Theo Chu Quý cùng các cung nhân hồi báo, nghiệt tử này thề nguyện với ma quỷ, cả đời phải ước đủ ba điều, để phóng thích ác quỷ, mà ác quỷ cũng đã hứa, sẽ giúp nó đạt được nguyện vọng. Sau đó, tên nghiệt tử này nói, ta khổ sở yêu thầm công chúa Long Sương Nguyệt Chi của Yên Kỳ, nguyện vọng đầu tiên của ta là có được tình yêu của công chúa, cả đời bên nhau”.
Nhân phẩm, thiên tính của Khúc Trí Thịnh đều là những đức tính tốt nhất. Chính là quá cố chấp, Huyền Trang vẫn lo lắng hắn vì quá cố chấp mà rơi vào ma đạo, không nghĩ tới hôm nay chuyện ngài lo sợ đã thành sự thực: “Vậy sau này thì sao? Ngài ấy có đạt được tâm nguyện không?”.
“Đạt được rồi!” Khúc Văn Thái sắc mặt xanh mét.
“Không thể nào!” Huyền Trang cảm thấy có chút kỳ quái, “Quý quốc cùng Yên Kỳ quan hệ như nước với lửa, không nói đến việc bệ hạ có đồng ý để tam hoàng tử cưới công chúa Yên Kỳ hay không, chỉ e là ngay đến quốc vương Yên Kỳ cũng không muốn đồng ý gả công chúa cho hoàng tử Cao Xương?”
“Đâu chỉ không muốn, mà kỳ thực là không thể gả!” Khúc Văn Thái cười lạnh, “Lão già Long Đột Kỵ Chi kia tự đại thành cuồng, không có cái dũng khí của bậc trượng phu, đã đấu với đệ tử vài chục năm, nhiều lần bị đệ tử ép tới không thở nổi. Nếu không phải hắn sinh ra được một nữ nhi tốt thì đã sớm bị đệ tử đuổi đến đại mạc uống bão ăn cát rồi. Thế nhưng, đệ tử thật sự hâm mộ hắn sinh ra được một nữ nhi tốt như vậy, Long Sương Nguyệt Chi từ nhỏ đã thông minh, tinh thông bảy thứ tiếng, đặc biệt là am hiểu mưu kế trị quốc, bề ngoài lại xinh đẹp khó bì, được gọi là ‘Phượng Hoàng Tây Vực’. Ha ha! Nếu nàng làm tức phụ của đệ tử, đệ tử thật cũng sẽ rất vui vẻ. Vấn đề là Long Đột Kỵ Chi coi Long Sương Nguyệt Chi là báu vật, một lòng muốn gả cho tiểu khả hãn của Tây Đột Quyết, sao có thể để ý đến một hoàng tử không quyền kế vị như Khúc Trí Thịnh đây?”.
Huyền Trang gật đầu: “Vậy nguyện vọng kia của Tam hoàng tử, làm cách nào có thể đạt được?”.
“Hừ! Yêu thuật! Ma pháp! Quả thực là hoang đường, quái dị!” Khúc Văn Thái nhịn không được đứng lên mắng, kiên nhẫn kể lại, “Sau khi tên nghiệt tử kia đưa ra tâm nguyện đầu tiên, con quỷ liền nói: ‘Ngày mai giờ Thân một khắc, ngươi đến thành Giao Hà, đứng dưới sườn núi Giả Thạch, không được rời đi. Bất kể trên đỉnh núi có thứ gì rơi xuống, đều phải dùng hai tay mà đỡ lấy. Ngay khi nói xong, thì đám khói kia tiêu tan, không còn tung tích hình ảnh nào của con quỷ kia. Vì thế, tên nghiệt tử này ngày thứ hai đã đi đến thành Giao Hà. Giao Hà là quận lớn nhất trong bốn quận của Cao Xương ta, cách vương thành hơn tám mươi dặm về phía tây bắc, là đầu chốt quan trọng của Con đường Tơ lụa. Sườn núi Giả Thạch nằm bên bờ sông nhỏ phía bắc thành Giao Hà, vách núi dốc đứng cao chót vót, cao tới hai ba trượng, màu sắc giống như đất đỏ. Nghiệt tử kia đến giờ Thân liền đứng dưới sườn núi chờ đợi. Hừ. Lúc ấy đệ tử nghe xong lời bẩm báo của Chu Quý, liền bảo hắn phái người đi theo xem, nhưng vẫn có chút không tin, cũng không tự mình đi, thật không ngờ… không ngờ…”.
Mặt Khúc Văn Thái nhăn nhúm, lộ rõ vẻ kinh sợ, nhất thời nói không ra lời.
“Như thế nào?” Huyền Trang thấp giọng hỏi.
“Tới giờ Thân một khắc”, Khúc Văn Thái bỗng nhiên lớn tiếng nói, “Trên đỉnh sườn núi Giả Thạch bỗng nhiên có tiếng chân dồn dập, tuấn mã hí vang, một người một ngựa từ đỉnh núi rơi thẳng xuống dưới! Tên nghiệt tử kia tránh không để ngựa rơi vào người, xông lên ôm lấy người nọ, hai người ngã ra, lăn xuống sườn núi. Khi ấy nó mới nhìn xuống trong lòng, người mà nó đang ôm, rõ ràng là công chúa Yên Kỳ - Long Sương Nguyệt Chi!”.
Huyền Trang cùng A Thuật quay mặt nhìn nhau, không thốt nên lời, chuyện này thật sự rất quỷ dị.
“Như vậy… Sau đó thì sao?” Huyền Trang cảm thấy được giọng nói của mình cũng hơi khàn đi.
“Sương Nguyệt Chi bị thương nhẹ, nghiệt tử kia liền đưa nàng ta về vương cung trị thương.” Khúc Văn Thái cũng biết chuyện này làm cho người ta khó có thể tin nổi, nhưng rõ ràng là nó đã thực sự xảy ra rồi, “Sương Nguyệt Chi đối với tên nghiệt tử kia vốn không có cảm xúc gì, nhưng sau khi vết thương lành, tính tình lại thay đổi lớn, vô cùng dịu dàng với nó, cũng không quay về Yên Kỳ, cả ngày ở trong cung cùng nghiệt tử kia chàng chàng thiếp thiếp…”.
Khúc Văn Thái phiền não đến cực điểm, Huyền Trang lại nở nụ cười: “Như thế chẳng phải rất tốt hay sao? Như vậy con dâu cũng là người mà người muốn, vậy sao lại không tác thành cho chuyện tốt của họ?”
Khúc Văn Thái ngẩn người, sau một lúc lâu mới nói: “Đại sư, sự tình không đơn giản như vậy. Nghĩ tới quan hệ của Cao Xương ta với Yên Kỳ, việc này có thể thành sao? Người Yên Kỳ cho rằng Trí Thịnh cưỡng đoạt Sương Nguyệt Chi, đem nhốt nàng ở trong cung. Ngài nghĩ xem, vị công chúa Long Sương này đối với Long Đột Kỵ Chi mà nói giống như bảo bối, hoàng tử Cao Xương ta đoạt mất công chúa của hắn, liệu hắn có chịu bỏ qua không?”.
Huyền Trang thật sự không nghĩ tới điều này, vừa nghĩ sơ qua sắc mặt đã có sự thay đổi lớn, Khúc Văn Thái nhìn thấy sắc mặt của ngài, cười khổ nói: “Đại sư suy nghĩ kỹ xem? Sự hòa hợp giữa hai nước chúng ta vốn đã rất kém, Đức Đũng chặn giết sứ giả Yên Kỳ, làm cho Long Đột Kỵ Chi phẫn nộ không thôi, nhưng hắn không có chứng cớ cũng không thể làm gì được. Hiện giờ Trí Thịnh lại ở trước mắt bao người, đoạt công chúa của hắn… Ngày hôm sau, Yên Kỳ liền hạ quốc thư, muốn chúng ta trả lại công chúa, nếu không liền phát động xung đột vũ trang. Hắn lại mời Quy Từ, ép bức thêm hai quốc gia khác. Mấy năm nay, không ít quốc gia ở Tây Vực đều ghen ghét với sự giàu có của Cao Xương ta. Nhân cơ hội này, ba nước tuyên bố, nếu Cao Xương ta không giao trả công chúa, liền phái liên quân ba nước tiến lên phía bắc, công phá vương thành, cùng lắm thì ngọc nát đá tan, đồng quy vu tận.”
Huyền Trang lúc này mới cảm thấy tình thế nghiêm trọng: “Bệ hạ vì sao không bảo tam hoàng tử thả công chúa Long Sương ra? Rồi khéo lựa lời khuyên giải, nghĩ biện pháp hóa giải trận chiến này”.
Nói tới đây, Khúc Văn Thái lập tức giận đến sắc mặt xanh mét, tay chân phát run: “Đệ tử làm sao lại không muốn chứ? Chính là… Chính là cái tên nghiệt tử kia không chịu! Nó đã chắn kín cổng chính cung điện của mình, vạch thành vùng cấm địa. Tuyên bố, ai dám bức bách nó trả lại công chúa, nó sẽ sai khiến ác quỷ đoạt hồn phách người đó, trấn áp trong địa ngục Nê Lê, vĩnh viễn không được siêu sinh!”.
Chú Thích[59] Thành Bạch Lực nay là huyện Thiện Thiện, một huyện trực thuộc địa khu Turfan, khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc.
[60] Thời Tùy Đường, chức quan Thượng thư lệnh được xét là một trong ba chức quan có quyền lực cao nhất, tương đương với chức Tể tướng.
[61] Giao Hà là một địa điểm khảo cổ học của Trung Quốc nằm ở thung lũng Yamaz, cách thành phố Turfan 10 km về phía tây thuộc khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương. Đây là một pháo đài nằm trên đỉnh một vách đá dốc đứng, giữa hai thung lũng sông sâu. Từ năm 450 đến 640, nó thuộc quận Cao Xương của vương quốc Cao Xương, và năm 640 được nhà Đường đổi thành huyện Giao Hà.
[62] Trường phái Nho gia Mặc Tử và Tuân Tử, hai nhà Nho, nhà tư tưởng lớn của Trung Hoa ở thời Chiến Quốc.
[63] Thiên Sơn, là một dãy núi nằm ở khu vực Trung Á, về phía bắc và phía tây của sa mạc Taklamakan trong khu vực biên giới của Kazakhstan, Kyrgyzstan và khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở phía tây bắc Trung Quốc, về phía nam, nó nối liền với dãy núi Pamir.
[64] Ardashir I là người sáng lập ra triều đại Sassanid, là người trị vì của Istakhr, sau đó là Ba Tư, và cuối cùng thì là “Vua của các vị vua Iran”. Triều đại do Ardashir I sáng lập ra đã trị vì trong vòng bốn thế kỉ cho đến khi bị hạ bệ năm 651 bởi cuộc chinh phạt của dân Ả Rập theo Hồi giáo.
[65] Theo lý giải nhà Phật, “Tam thiên đại thiên thế giới” ý chỉ hằng hà sa số thế giới, gồm Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới.
[66] Ahriman là ác ma vương đứng cao nhất trong hàng ngũ thù địch chống lại Thần tối cao Ahura Mazda - theo thần thoại và tôn giáo của người Ba Tư cổ đại (tức Iran, Iraq ngày nay), cụ thể là đạo Zoroastrian (Bái Hỏa giáo hay Hiên giáo).
[67] Tạm dịch nghĩa: Mặc áo giáp vàng chinh chiến trăm trận trên cát vàng, không phá được Lâu Lan thề cả đời không quay về.
[68] Tỉnh Fars trước đây gọi là Pars, được coi là kinh đô văn hóa của Iran. Tỉnh nằm ở phía nam của đất nước và trung tâm của tỉnh là Shiraz. Fars hoặc Pars là quê hương gốc của người Ba Tư.
[69] Đế quốc Parthia hay còn được gọi là Đế quốc Arsaces là một quốc gia của người Iran ở Trung Đông, có nền chính trị và quân sự phát triển mạnh, và là đối thủ đáng gờm của Đế quốc La Mã.
[70] Đại Armenia cũng gọi là Vương quốc Đại Armenia, là một vương quốc độc lập từ năm 190 TCN tới năm 387, và là một quốc gia chư hầu của La Mã và đế quốc Ba Tư cho tới năm 428. Lãnh thổ của vương quốc này vào thời thịnh trị trải dài từ Caspian đến biển Địa Trung Hải.
[71] Gruzia hay Georgia là một quốc gia tại khu vực Kavkaz. Gruzia nằm tại giao giới của Tây Á và Đông Âu, phía tây giáp biển Đen, phía bắc giáp Nga, phía nam giáp Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia, và phía đông nam giáp Azerbaijan. Thủ đô và thành phố lớn nhất là Tbilisi.