← Quay lại trang sách

Chương 4 Khế ước của hoàng tử và ma quỷ

Nghe đến đây, Huyền Trang ngây ngẩn cả người: “Tam hoàng tử lại cố chấp đến mức độ này, đến cả vận mệnh quốc gia cũng vứt bỏ không thèm để ý sao?”.

“Hừ! Đâu chỉ như vậy!” Khúc Văn Thái nhắc đến Khúc Trí Thịnh liền tức đến điên người mà không có chỗ xả, “Tên nghiệt tử này… Đệ tử lệnh cho Nhân Thư đi khuyên nó, nó lại dùng Chiếc bình của vua Đại Vệ để uy hiếp Nhân Thư! Đức Dũng vô cùng tức giận, dẫn đầu Túc Vệ trong cung đi cướp người, nó cũng không nhượng bộ chút nào. Đối diện với Chiếc bình của vua Đại Vệ, ai cũng không dám tiến lên. Kết quả… Liên quân Yên Kỳ đã sẵn sàng ra trận, còn nó lại tiêu diêu tự tại trong vương cung”.

Huyền Trang nhíu mày: “Bệ hạ, người đã đi khuyên hoàng tử chưa?”.

“Đi rồi!” Khúc Văn Thái buồn bã thương tâm, “Đệ tử dẫn vương phi đích thân đến khuyên nó, tên nghiệt tử đó không hề để tâm, lại còn tuyên bố, đời này nó nhất định phải cưới Sương Nguyệt Chi, cho dù trời long đất lở, nước mất nhà tan cũng không hề hối tiếc. Ai dám bước vào một bước, ma quỷ trong bình sẽ tru diệt toàn tộc người đó! Tên nghiệt tử này…”. Sắc mặt Khúc Văn Thái đỏ lên, vỗ đùi tức giận không thôi, “lời này của nó vậy mà lại dám nói ngay trước mặt đệ tử! Nó muốn uy hiếp đệ tử!”.

“Trước mắt, trong vương cung lòng người kinh hãi, đệ tử đêm không thể chợp mắt, vô cùng lo lắng.” Khúc Văn Thái mệt mỏi day chân mày, chắp tay hướng Huyền Trang: “Đệ tử nghe nói đại sư đang ở Y Ngô, mới bất đắc dĩ làm phiền đại sư ngày đêm lên đường, chạy tới vương thành, chỉ mong đại sư có thể chỉ điểm cho đệ tử thoát khỏi con đường lầm lạc này”.

Huyền Trang lúc này mới hiểu, tại sao khi đến thành Bạch Lực họ cũng không để cho ngài dừng chân nghỉ lại, cứ bắt ngài phải lên đường ngày đêm tới vương thành, Khúc Văn Thái cũng chờ đợi suốt đêm, kể ra nỗi khổ tâm trong lòng. Ngài trầm tư một lát: “Bệ hạ cần bần tăng làm gì đây?”.

“Đại sư làm gì cũng được, chỉ cần có thể giúp đệ tử hóa giải tai họa trước mắt, đệ tử và ba đời tiên vương Cao Xương nhất định cảm tạ lòng từ bi của đại sư.” Khúc Văn Thái lại một lần nữa thi lễ, “Đại sư là cao tăng Đại Đường, danh chấn Trường An, đến hoàng đế cũng phải kính cẩn, duy trì lễ nghĩa với ngài, các nước Tây Vực đều tôn thờ Phật, đại sư nhất định có thể dùng Phật pháp để cảm hóa các nước Yên Kỳ, Quy Từ, thuận lợi giải quyết chuyện này. Huống hồ, tên nghiệt tử này từng quen biết với đại sư, vô cùng sùng kính đại sư, với Phật pháp cao thâm của đại sư, nhất định có thể trấn áp được ác quỷ, trả lại càn khôn sáng sủa cho Cao Xương ta…”.

Khúc Văn Thái nước mắt chảy xuôi, nghẹn ngào không thể nói tiếp được nữa. Huyền Trang hiểu, một là bản thân ngài là tăng nhân có danh vọng, có địa vị tôn quý được tôn sùng ở Tây Vực, hai là bản thân tới từ Đại Đường, hơn nữa có quan hệ tốt đẹp với hoàng đế Đại Đường - Lý Thế Dân, có thể đem đến áp lực chính trị vô hình, Yên Kỳ lại định đến nương nhờ Đại Đường. Vì vậy nếu bản thân ra mặt giải quyết vấn đề này, đối với Khúc Văn Thái mà nói thật sự là lựa chọn tốt nhất. Còn về việc trấn áp ma quỷ… hình như trong mắt các Phật tử, phàm là tăng nhân thì đều có khả năng thần thông vô thượng. Điểm này Huyền Trang thật sự không muốn giãi bày nữa.

Ngài nhất thời trầm mặc, trong mắt ngài phân biệt rất rõ giữa tôn giáo và vương quyền, ngài chỉ là một tăng nhân bình thường, một lòng cầu pháp, không muốn bước chân vào cuộc tranh chấp vương quyền, nhưng chuyện này lại có chút đặc biệt, dù sao thì ngài cũng không thể trơ mắt nhìn chiến tranh loạn lạc nổ ra, khiến bách tính khốn khổ lầm than. Do dự một lát, Huyền Trang rốt cục cũng gật đầu nói: “Được, bần tăng sẽ làm hết sức mình!”.

Khúc Văn Thái mừng rỡ, quỳ rạp xuống đất, cảm động đến rơi nước mắt. Huyền Trang vội vàng đỡ ông ta lên, trong lòng lại nặng trĩu, cũng không biết mình nhận lời như vậy rốt cuộc là đúng hay sai.

Lúc này sắc trời đã sáng rõ, Huyền Trang và A Thuật đi đường vội vã cả một ngày trời, lại nói chuyện với Khúc Văn Thái một đêm, đã sớm mệt mỏi không chịu nổi. Khúc Văn Thái liên tục tạ lỗi, bảo Huyền Trang đi nghỉ ngơi, còn bản thân tự xin cáo biệt rồi lui ra ngoài. Huyền Trang tiễn ông ta ra cửa, Khúc Văn Thái dẫn người hầu quay người rời đi, đến cửa viện, lại phát hiện Khúc Nhân Thư đang tựa vào khung cửa ngủ gật.

Thấy Khúc Văn Thái đi ra, Khúc Nhân Thư lập tức giật mình tỉnh dậy, quỳ xuống đất lạy: “Phụ vương, nhi tử thỉnh an người!”.

“Hử?” Khúc Văn Thái sửng sốt, “Sao con lại ở đây?”.

Bên cạnh có cung nhân nhỏ giọng nói: “Bệ hạ, người và đại sư Huyền Trang nói chuyện đã lâu, thế tử lo cho sức khỏe của người, nên liên đợi ngoài này một đêm rồi”.

Khúc Văn Thái ồ một tiếng, thản nhiên nói: “Đứng dậy đi, làm tốt chuyện của mình là được rồi, không cần lo lắng cho bổn vương”. Nói xong cũng không thèm nhìn Khúc Nhân Thư, liền ra khỏi cửa lên kiệu đi thẳng về tẩm cung.

Khúc Nhân Thư một mực cung kính đứng dậy, nói: “Cung tiễn phụ vương!”. Sau đó quay đầu nhìn Huyền Trang một cái, chắp hai tay, khom lưng thật sâu, lui về sau mà đi ra.

A Thuật liếc hắn một cái lạnh lùng, nói: “Xem ra vị thế tử này không được quốc vương Cao Xương yêu quý!”

Huyền Trang xoa đầu cậu: “Lúc nửa đêm không phải con đã nói là mệt sao, còn không mau đi ngủ đi!”.

°°°

Nghỉ ngơi đến giờ ngọ, Khúc Văn Thái và vương phi đích thân đến dùng ngự thiện cùng với hai người, cho dù là ngự thiện cung đình, trên thực tế cũng rất đơn giản, bởi vì Huyền Trang không ăn thịt nên chủ yếu là hoa quả và nho, bổ sung thêm thức ăn từ bột mì như bánh nang, nước uống thì có hai loại: trong bình sứ màu trắng có nước trà, pha thêm chút muối và vài sợi gừng, trong bình bạc thì có nước ép nho tươi ngon.

Dùng cơm xong, Khúc Văn Thái gọi tổng quản vương cung Chu Quý tới, lệnh cho hắn đưa Huyền Trang đi gặp Khúc Trí Thịnh.

Người tên Chu Quý này tuổi cũng gần năm mươi, là một người da trắng, con ngươi màu vàng nhạt, gương mặt nhẵn nhụi không có râu, da thịt trên mặt đã nhão và chảy xệ, khuôn mặt tỏ vẻ sầu khổ. Có lẽ hắn đã quen làm nô bộc rồi, lúc nào cũng mang vẻ mặt kính cẩn nghe lời, nhưng thỉnh thoảng ánh mắt hắn lại sáng lên, lộ ra ánh nhìn lanh lợi và thấu đáo.

Chu Quý tuân mệnh đưa Huyền Trang và A Thuật đi xuyên qua vương cung, vương cung Cao Xương dĩ nhiên không thể nào sánh kịp với hoàng cung Đại Đường, nhưng quy mô to hơn nhiều so với vương cung của quốc vương Y Ngô, phòng ốc có mấy trăm gian, giống như những nhà dân bình thường, đều là nhà vách đất được đắp rất dày. Nhưng điểm không giống với nhà dân đó là xung quanh cửa và cửa sổ đều được khảm nạm ngọc thạch, chạm trổ hoa văn tinh xảo. Càng không giống với cung điện Trung Nguyên, mỗi một căn phòng ở đây đều có hai ba tầng, thoạt nhìn to lớn dị thường.

Đến góc tây bắc của vương cung, trước mắt là một tiểu viện do ba tòa nhà tạo thành, tường bao quanh cao hơn một trượng, phân cách nơi này với những khu vực khác. Chỉ là chính giữa bức tường rào bao quanh có một cái cổng lớn hình vòm, cánh cổng đó đã bị lớp gạch mộc thật dày lấp kín.

Chu Quý khom lưng nói: “Đại sư, đây chính là dinh thự của tam hoàng tử, ngài xem, tiểu viện đã bị quây kín lại rồi”. Hắn nói chuyện bằng giọng lanh lảnh, Huyền Trang đến từ Trung Nguyên đương nhiên không hề xa lạ gì với chuyện này, không hề nghi ngờ, người này là một thái giám đã tịnh thân.

Huyền Trang kinh ngạc nói: “Tam hoàng tử đã quây kín tiểu viện lại, vậy thức ăn nước uống hàng ngày của ngài ấy phải giải quyết như thế nào?”.

Chu Quý cười khổ: “Ngài ấy mặc dù bất kính với bệ hạ, nhưng bệ hạ lại không thể cắt thức ăn nước uống của bọn họ. Đại sư nhìn thấy chưa? Chỗ góc tường có một cái thang, một ngày ba bữa và nước uống, đều sai người ở đầu tường buộc giỏ rồi gửi vào cho ngài ấy”.

Huyền Trang lắc đầu không thôi, Chu Quý từ chiếc thang kia leo lên đầu tường, hướng về bên trong viện mà hét:

“Tam hoàng tử, đại sư Huyền Trang đến đây bái phỏng!”.

Qua một lúc, trên sân thượng lầu hai của cung điện xuất hiện một bóng người, chính là Khúc Trí Thịnh. Hắn nhìn xung quanh, vừa nhìn thấy Huyền Trang đang đứng bên ngoài tường viện, nhất thời mừng rỡ, kích động chắp tay thi lễ: “A ha, đại sư! Ngài từ Y Ngô đến Cao Xương rồi sao? Ai da, sao ngài không nói sớm để Trí Thịnh xuất thành nghênh tiếp ngài”.

Khúc Trí Thịnh này không còn là tên nhóc người bám đầy bụi đất, khốn khổ vì tình ngoài thành Y Ngô nữa, gương mặt hắn giờ đây hồng hào khỏe mạnh, khóe mắt, đuôi lông mày đều mang ý cười vui vẻ, chỉ thiếu mỗi ánh sáng ngời ngời như sao hiện lên trong mắt thôi. Huyền Trang cười nói: “Thực không dám nhận. Tam hoàng tử, xem ra sau khi chia tay người không những vẫn khỏe mạnh mà tâm tình cũng ngày càng tốt nhỉ?”.

“Cũng không phải vậy!” Khúc Trí Thịnh dương dương đắc ý, ló đầu nhìn sau lưng Huyền Trang, thấy không có ai sau lưng ngài, mới rụt cổ lại, áp tay sát bên môi, nhỏ giọng nói: “Sương Nguyệt Chi đồng ý gả cho đệ tử rồi!”. Hắn mặt mày rạng rỡ, vui mừng khôn xiết, giống như một đứa trẻ cuối cùng cũng có được món đồ chơi mà mình mong ước bấy lâu, “Mấy ngày nay nàng luôn ở trong cung với đệ tử… đệ tử thật sự như người đang nằm mộng! Cảm tạ Phật Tổ! Cảm tạ Bồ Tát! Cảm tạ đại sư! Cảm tạ trời đất không gì không thể!”.

“Chúc mừng tam hoàng tử!” Huyền Trang cười nói.

“Ngài đợi một lát, bây giờ đệ tử sẽ bảo Sương Nguyệt Chi ra lễ bái ngài…” Hắn vỗ ót một cái, rồi ảo não nói, “đệ tử quên mất, cửa viện này đã lấp kín rồi… Ngài đợi một chút, đệ tử lệnh cho người dỡ ra ngay đây. Lão Chu, ngươi đi tìm mấy người, mau dỡ ra cho ta!”.

Chu Quý ngẩn người, không ngờ Huyền Trang vừa đến, tam hoàng tử ương ngạnh này lại sai người đi dỡ bỏ đống gạch mộc trên cửa viện, một lát sau mới tỉnh ra, vội vàng chạy đi tìm người.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang hỏi, “Tam hoàng tử, người không sợ sau khi dỡ đi, sẽ có người nhân cơ hội lẻn vào sao?”.

“Sợ gì chứ?” Khúc Trí Thịnh trợn trừng hai mắt lên, “trong tay đệ tử có Chiếc bình của vua Đại Vệ, không gì không thể, còn phải sợ ai nữa? Cho nên việc bít cửa viện lại, chỉ là vì không muốn người khác ồn ào, làm phiền đến sự thanh tịnh của Sương Nguyệt Chi”.

Lúc này, Chu Quý dẫn theo mười mấy túc vệ chạy tới, ba chân bốn cẳng vận chuyển từng viên gạch mộc nặng mấy mươi cân đi. Huyền Trang đang định đi vào, Khúc Trí Thịnh lúc này đã đi tới trong viện, quát gọi những thị vệ kia: “Đừng đi đừng đi, quét dọn bụi bặm trên đất này sạch sẽ nhé. Đại sư thích sạch sẽ, mặt đất bẩn thỉu thế này, bảo ngài đi qua thế nào được!”.

Chu Quý bất đắc dĩ, chỉ đành đưa đám túc vệ đi quét dọn, dọn dẹp sạch sẽ đám bụi bặm trên mặt đất, lại dùng nước sạch vẩy xung quanh. Khúc Trí Thịnh lúc này mới hài lòng, đích thân đến cửa viện nghênh đón Huyền Trang, mời ngài và A Thuật vào trong cung. Chu Quý đứng ngoài cửa viện lưỡng lự, không dám vào. Khúc Trí Thịnh thở dài một tiếng: “Công công cũng vào đi! Ngươi là người chăm nom ta từ nhỏ đến lớn, nếu không phải tất cả mọi người đều đối nghịch với ta, ta làm sao có thể chặn ngươi ngoài cửa được?”

“Tam hoàng tử, lão nô…” Chu Quý cảm động đến mức viền mắt lập tức đỏ lên, lặng lẽ lau nước mắt.

“Tới đây”, Khúc Trí Thịnh cũng tỏ vẻ thương cảm, kéo Chu Quý vào trong, “trong cung này chỉ có ngươi đối xử tốt với ta nhất, đến cả phụ vương và hai vị huynh trưởng cũng đều không bằng”.

Huyền Trang và A Thuật đi theo Khúc Trí Thịnh vào trong cung điện, ngồi quỳ trên tấm thảm Ba Tư thật dày, tỳ nữ trong cung lập tức bưng các loại hoa quả đầy màu sắc lên. Khúc Trí Thịnh chạy vào trong nội điện mời công chúa Long Sương ra, một lúc sau, trong hành lang của nội điện vang lên một loạt tiếng bước chân, liền nghe thấy Khúc Trí Thịnh nhỏ giọng nói: “Vị đại sư Huyền Trang này là một cao tăng có mị lực nhất mà ta từng gặp, nàng nhìn thấy ngài nhất định cũng sẽ thích ngài”.

Tiếng của công chúa có chút u buồn: “Bây giờ ta sống nhờ trong cung của ngươi, đã là phản bội lại Yên Kỳ, còn mặt mũi nào mà bái kiến đại sư?”.

“Ôi!”, Khúc Trí Thịnh thở dài thườn thượt, nói, “nàng chớ lo lắng, ta nhất định có cách giải quyết ổn thỏa, để phụ vương của nàng thừa nhận hôn sự giữa chúng ta. Đại sư Huyền Trang Phật pháp cao thâm, nếu người chịu cầu phúc cho ta và nàng, chúng ta nhất định có thể được Phật Tổ phù hộ…”.

“Thật sao…?” công chúa lầm bầm không nói thêm gì.

Hai người không nói chuyện nữa, trầm mặc bước vào. Huyền Trang đã từng nhìn thấy vị công chúa này ở Y Ngô, công chúa Long Sương lúc đó kiêu ngạo tôn quý, không ai bì nổi. Nhưng vị công chúa trước mắt này, mặc dù dáng vẻ vẫn mỹ mạo tôn quý như trước, nhưng tinh thần lại có phần sầu muộn, sợ hãi, điềm đạm đáng yêu, dịu dàng động lòng người. Nếu không phải là dung mạo xinh đẹp đặc biệt, hiếm có khó tìm thì chỉ e là người nhìn còn nhầm tưởng đó là hai người hoàn toàn khác biệt.

“Sương Nguyệt Chi bái kiến đại sư!” công chúa Long Sương khom người hành lễ.

Huyền Trang vội vàng đứng dậy thi lễ: “A Di Đà Phật, đã lâu không gặp, phong thái của công chúa vẫn không thay đổi”.

Công chúa Long Sương cười nhạt một tiếng, ngồi quỳ bên cạnh Khúc Trí Thịnh, cặp mắt xanh thẳm nhìn Huyền Trang chăm chú: “Đại sư, hôm nay ngài tới đây, là muốn làm thuyết khách cho quốc vương Cao Xương, khuyên ta trở về sao?”

Khúc Trí Thịnh nhất thời sửng sốt, nghi ngờ nhìn Huyền Trang.

Huyền Trang cười nói: “A Di Đà Phật, dẫu có đem thân trải qua trăm đời kiếp, nợ nghiệp quả chắc gì đã trả xong. Nhân quả đến đúng thời, tự đem thân ra gánh. Nỗi khổ vì yêu mà ly biệt, khổ vì oán ghét phải đối mặt hàng ngày, khổ ấy thực chất cũng chính là quả báo tự thân. Nếu đã có quả nghiệp, ắt có người gieo nhân, hỏi sao bần tăng dám không xét tới nghiệp nhân quả, cố tình cưỡng ép chia rẽ hai vị đây?”.

“Đúng đúng đúng!” Khúc Trí Thịnh lúc này mới thở phào, “đệ tử và Sương Nguyệt Chi chính là nhân duyên kiếp trước, ứng ở kiếp này”.

Công chúa Long Sương lại không lạc quan được như hắn: “Đại sư, ta và Trí Thịnh thật lòng yêu nhau, nhưng quan hệ ân oán hai nước khó giải, mỗi ngày đều rất đau khổ, cầu đại sư chỉ điểm cho chúng ta thoát khỏi con đường lầm lạc”.

“Đúng đúng đúng, cầu đại sư chỉ điểm cho chúng đệ tử thoát khỏi con đường lầm lạc”, Khúc Trí Thịnh đứng trước mặt công chúa, hoàn toàn tự giác trở thành kẻ hầu phụ họa.

Huyền Trang mỉm cười: “Trong tay tam hoàng tử nếu đã có Chiếc bình của vua Đại Vệ, tại sao không ước nguyện với ma quỷ, ai dám phản đối thì giết hết không tha?”.

Khúc Trí Thịnh trợn mắt há mồm: “Thế làm sao được? Đệ tử chỉ muốn ở bên Sương Nguyệt Chi, sao có thể bởi vì bị người khác phản đối mà tùy ý giết người được chứ? Chuyện này không thể được!”.

Huyền Trang lại nói: “Bần tăng nghe nói ma quỷ trong bình đó tên gọi là A-tạp Mã-nạp, giỏi nhất về mê hoặc lòng người, tại sao người không lệnh cho ma quỷ, khiến cả thế giới này không còn ai phản đối hôn nhân của hai người? Chuyện này há chẳng phải sở trường của nó sao?”.

“Như vậy à…?” Khúc Trí Thịnh thoáng động lòng, liếc nhìn công chúa.

Công chúa lại nghiêm mặt nói: “Đại sư, những người phản đối chúng ta cũng lại đều là những người thân yêu quý chúng ta nhất.Chiếc bình của vua Đại Vệ mặc dù thần dị, nhưng dù sao cũng là tà vật, là phận làm con, chúng ta làm sao có thể để ma quỷ khống chế phụ mẫu, huynh đệ của mình được?”

“Đúng đúng đúng…” Khúc Trí Thịnh bừng tỉnh đại ngộ, kính nể mà nhìn công chúa, “vẫn là nàng suy nghĩ thấu đáo!”.

“Vậy thì, công chúa không để ý tới nữa là được”, Huyền Trang thản nhiên nói, “bởi vì sau khi công chúa yêu tam hoàng tử, lưu lại trong vương cung không về, là việc có lợi nhất cho Yên Kỳ và phụ vương của người”.

Trong mắt của Chu Quý lộ ra vẻ tán thưởng, đại sư thăm dò một chút liền đẩy Sương Nguyệt Chi vào tuyệt cảnh, sau đó lưỡi dao lập tức hiện ra, vị hòa thượng này, thật là lợi hại.

Công chúa Long Sương lại hơi nhíu mày: “Đại sư nói vậy là có ý gì?”.

“Không có ý gì khác, quan hệ giữa Yên Kỳ và Cao Xương, công chúa đương nhiên hiểu rõ hơn ai hết, hai nước bởi vì xảy ra xung đột khi thông thương trên Con đường Tơ lụa, người Yên Kỳ tính toán mọi cách để thay đổi tuyến đường của Con đường Tơ lụa, còn Cao Xương lại không từ thủ đoạn tiến hành phá hoại. Công chúa lưu lại trong vương cung Cao Xương, đối với Yên Kỳ mà nói, chính là một cái cớ tuyệt nhất. Quốc vương Yên Kỳ có thể lấy lý do hoàng tử Cao Xương cướp công chúa mà lấy được sự ủng hộ của các quốc gia khác, danh chính ngôn thuận khơi mào chiến tranh, dùng vũ lực để đoạt lấy Con đường Tơ lụa. Chỉ cần cướp được Con đường Tơ lụa về, Yên Kỳ trăm năm hưng thịnh, công chúa sẽ lập được đại hiếu với quốc vương Yên Kỳ! Việc gì cứ phải ép phụ vương người đồng tình với hôn sự của hai người đây?”

Huyền Trang nói rất bình thản, tựa như chỉ đang tán gẫu về thời tiết, nhưng từng từ lại trực tiếp đâm thẳng vào lòng người, thậm chí còn mơ hồ chỉ trích công chúa Long Sương có ý sắp đặt kế hoạch để lừa gạt Khúc Trí Thịnh, chơi một trò chơi, cho quốc vương Yên Kỳ một cái cớ phát động chiến tranh!

Khúc Trí Thịnh trợn mắt há mồm, hết nhìn Huyền Trang lại nhìn sang công chúa Long Sương, nhưng không biết nên làm thế nào cho ổn.

Công chúa Long Sương kinh ngạc nhìn Huyền Trang, con ngươi xanh thẳm rưng rưng muốn khóc, nghẹn ngào nói: “Đại sư nhìn nhận về Sương Nguyệt Chi như vậy sao? Ta thừa nhận, ngày đó ở Yên Kỳ, thật sự ta đã suy nghĩ rất nhiều về quốc sự, nhưng đó chỉ là vì thân là nữ tử, thấy phụ vương lao lực vì chính sự quốc gia, thường xuyên nóng nảy nổi giận, lo nghĩ khó ngủ, nên muốn chia sẻ gánh nặng với phụ vương. Nếu không phải vì yêu Trí Thịnh, ta có thể đem danh tiết của mình ra đánh đổi, khiến Yên Kỳ hổ thẹn hay sao?”.

Chu Quý ở bên cạnh chen miệng vào nói: “Đại sư có điều không biết, quốc vương Yên Kỳ vẫn luôn muốn gả công chúa cho A Sử Na Nê Thục[72] của Tây Đột Quyết. Nê Thục là chắt trai của Khả hãn đứng đầu, đời đời kiếp kiếp nhậm chức Mạc Hạ Thiết, có danh vọng cao quý ở Tây Đột Quyết, nhận được sự ủng hộ và yêu mến của mười bộ tộc. Chỉ vì công chúa muốn giúp đỡ quốc vương Yên Kỳ trọng chấn thực lực quốc gia, nên hôn sự mới liên tục bị trì hoãn”.

Huyền Trang gật đầu, nhưng không nói lời nào. Có lẽ, chuyện liên hôn chính trị giữa các nước với nhau, ngược lại lại là kết cục tốt đẹp nhất cho vị Thượng Hoàng Tây Vực này!

Công chúa Long Sương cười thê lương: “Đại sư chỉ trích Sương Nguyệt Chi, nhưng ngài có từng nghĩ, nếu ta gả cho Nê Thục, dựa vào sự say mê của Nê Thục với ta, Yên Kỳ ta hưng thịnh một thời trong các quốc gia Tây Vực, là chuyện khó khăn gì chứ? Nhưng ta từ bỏ Nê Thục, yêu thương Trí Thịnh, Yên Kỳ nhất định sẽ bị Tây Đột Quyết căm hận, vậy còn có thể mượn tay đại quân đến đánh bại vương thành Cao Xương hay sao? Phải biết, trưởng nữ của quốc vương Cao Xương gả cho trưởng tử của Khả hãn Thống Diệp Hộ. Khả hãn Thống Diệp Hộ có thể trơ mắt nhìn Cao Xương bị Yên Kỳ ta tiêu diệt sao? Ta tội gì phải vì một kế hoạch trăm chỗ sơ hở như vậy mà hủy hoại sự trong sạch một đời của mình chứ?”.

Huyền Trang nhất thời trầm tư, kiến giải của Chu Quý và công chúa Long Sương chắc không phải là giả, các nước Tây Vực trên phương diện liên hôn chính trị, lợi hại được mất đều tính toán rất rõ ràng, ai cũng không giấu được ai. Bất luận đối với Yên Kỳ hay là bản thân công chúa Long Sương, việc liên hôn với Nê Thục đều là lựa chọn tốt nhất, mà công chúa Long Sương lại yêu Khúc Trí Thịnh, không hề phù hợp với lợi ích của Yên Kỳ. Vậy thì vấn đề rốt cuộc nằm ở đâu? Lẽ nào quả thật là do sự mê hoặc của ma quỷ sao?

“Đại sư, ngài quả thật đã nghĩ nhiều rồi!” Khúc Trí Thịnh thấy công chúa đau lòng, gấp tới vò đầu bứt tai, nếu không phải có người ngoài ở đây thì hắn đã sớm ôm lấy nàng mà dỗ dành rồi, “Sương Nguyệt Chi tuyệt đối không phải là loại người đó, ngài không hiểu, nhưng đệ tử và nàng sớm tối bên nhau, tình yêu nàng dành cho đệ tử sâu nặng như thế nào, lẽ nào đệ tử lại không rõ sao?”.

Huyền Trang thương hại nhìn hắn, nhỏ giọng nói: “Tam hoàng tử, Phật gia nói nhân quả, ngoại trừ tiên nhân, hậu quả, ở giữa còn có một chữ duyên, vậy nên mới trở thành nhân duyên quả báo. Bần tăng chỉ tin Phật, không tin ma. Chiếc bình của vua Đại Vệ này bí hiểm trùng trùng, khó có thể dự đoán được, nếu người muốn bần tăng tìm cách thành toàn cho ngài và công chúa Long Sương, bần tăng nhất định phải làm rõ ràng nguyên do bên trong chuyện này”.

“Tất cả đều nghe theo đại sư ngài!” Khúc Trí Thịnh cực kỳ kính phục Huyền Trang, “Đại sư, đệ tử lần đầu tiên gặp được ngài, đã ngưỡng mộ ngài rồi. Trên cơ thể ngài có một cỗ Phật tính, chỉ cần đệ tử ở bên cạnh ngài, thì toàn thân đều được thả lỏng, như tắm trong Phật quang vậy. Nhưng mà đại sư, ngài ngàn vạn lần không thể làm tổn thương trái tim của Sương Nguyệt Chi, bằng không đệ tử cũng không muốn biết cái gì là nhân, cái gì là duyên, chỉ cần kết quả này là đủ rồi!”.

Huyền Trang mỉm cười gật đầu, hỏi: “Không biết bần tăng có thể nhìn Chiếc bình của vua Đại Vệ kia một chút được không?”.

“Cái này…” Khúc Trí Thịnh hơi do dự, rồi lại lập tức đồng ý, “Được!”.

Được Khúc Trí Thịnh dẫn đường, mọi người đứng dậy, men theo hành lang rất dài tiến vào hậu cung. Chính giữa hậu cung là một tòa Phật đường, cũng không biết Khúc Trí Thịnh nghĩ như thế nào, lại thờ Chiếc bình của vua Đại Vệ có ẩn chứa ma quỷ kia trong Phật đường. Hắn không quan tâm Phật pháp và ma quái liệu có xung đột với nhau hay không, cũng không quan tâm ma quỷ A-tạp Mã-nạp trong bình liệu có cảm thấy bị đè nén hay ko.

“Mời đại sư xem, đây chính là Chiếc bình của vua Đại Vệ.” Khúc Trí Thịnh vén tấm màn màu vàng lên, lộ ra một chiếc bình đồng vàng cao lớn. Chiếc bình của vua Đại Vệ này cao khoảng hai thước hai[73], bụng to cổ nhỏ, thân bình chia làm hai tầng, tầng ngoài điêu khắc, hoa văn phức tạp tinh xảo, tầng trong sáng đến nỗi có thể soi gương, dưới ánh mặt trời chiếu rọi, tựa như hoa văn ở tầng ngoài đang chầm chậm chuyển động. Miệng bình được hàn kín bằng thiếc, bên trên in ấn giám sao sáu cánh nổi tiếng của hoàng đế Sở La Môn Đại Vệ.

Đây chính là bảo vật trấn quốc được truyền thừa suốt bốn trăm năm của Tát San Ba Tư, là thần vật có thể thỏa mãn bất cứ tâm nguyện nào! Thế nhân đều có dục vọng, mà Chiếc bình của vua Đại Vệ này lại vừa khéo đánh vào yếu điểm của lòng người, khuyếch đại dục vọng của họ đến cực hạn. Mọi người nhất thời gần như ngừng thở, Chiếc bình của vua Đại Vệ yên lặng hiện ra trước mắt, phát ra sức hấp dẫn yêu mị, hoa văn trên thân bình dường như lộ ra nụ cười mê hoặc, đang nói chuyện với họ.

Ngươi muốn có được tất cả của cải trên trời dưới đất này? Giải thoát cho ta, ta có thể thỏa mãn ngươi!

Ngươi muốn có được quyền lực chí cao vô thượng khắp mặt đất này? Hãy lập khế ước với ta đi, ta có thể thỏa mãn ngươi!

Ngươi muốn có được nữ tử đẹp nhất thế gian không? Lập lời thề đi, ta có thể thỏa mãn ngươi!

Ngươi còn muốn gì nữa?

Trên trời dưới đất, ta không gì không thể làm được; thiên thu vạn đại, ta bất diệt muôn đời!

Đến thiền tâm của Huyền Trang vững như bàn thạch mà khi nhìn chiếc bình yêu dị này cũng không nhịn được mà lay động Phật tâm. Lại nhìn sang Chu Quý, ánh mắt ông ta như bị mê hoặc, dường như muốn ngất đi vậy. Ngay cả một đứa trẻ như A Thuật cũng hoàn toàn ngây dại, trong mắt lộ ra khát vọng và sợ hãi nồng đậm.

“A Di Đà Phật!”, Huyền Trang hỏi, “Tam hoàng tử, Chiếc bình của vua Đại Vệ cứ đặt trong Phật đường như vậy, ngài không sợ có người trộm mất sao?”

“Không sợ!” Khúc Trí Thịnh nói, “ma quỷ trong bình đã lập khế ước với đệ tử rồi, người khác có trộm đi cũng vô dụng. Bất luận là nghìn dặm, vạn dặm, một khi tâm niệm của đệ tử rung động, ma quỷ sẽ thoát ra ngoài”.

“Lúc đầu ngài làm thế nào đánh thức ma quỷ vậy?” Huyền Trang hỏi.

Khúc Trí Thịnh không chút giấu giếm, nói: “Pháp sư ngài xem, chính giữa ấn giám sao sáu cánh là một hình lục giác, hơi lõm xuống, không có khe hở, nhưng khi đệ tử nhỏ máu tươi vào trong hình lục giác, không nghĩ đến việc nó lại nuốt sạch sẽ trong chớp mắt. Sau đó hoa văn khắc ở tầng ngoài được rót đầy máu tươi, tạo nên một hình vẽ quỷ dị, dường như mở ra vô số đôi mắt quỷ. Sau đó, ma quỷ liền thức tỉnh”.

Huyền Trang gật đầu: “Người không hề che giấu công chúa, nói rằng thông qua khế ước với ma quỷ, mới bảo ma quỷ khống chế tâm thần của nàng, khiến nàng yêu ngài?”.

Khúc Trí Thịnh lắc đầu, hài lòng nhìn công chúa Long Sương: “Không có. Đệ tử làm sao có thể gạt Sương Nguyệt Chi được?”

“Công chúa, người cũng không cảm thấy bản thân bị ma quỷ khống chế tâm thần sao?” Huyền Trang lại hỏi công chúa Long Sương.

Công chúa cũng lắc đầu, lộ vẻ mê man: “Không hề, cảm giác yêu Trí Thịnh rất tốt đẹp. Ta chỉ muốn hàng ngày, hàng đêm đều ở bên chàng!”.

Hai người nhìn nhau nở nụ cười, mười đầu ngón tay đan chặt vào nhau, nhu tình mật ý trong tròng mắt không nói hết được. Nhưng Huyền Trang lại càng cảm thấy kỳ quái khó có thể dùng lời diễn tả được, da đầu cũng căng lên. Ngài nhìn chằm chằm vào Chiếc bình của vua Đại Vệ trước mặt, tiếng hét lúc sắp chết của Gia Tư Đinh vẫn quanh quẩn bên tai: “Trong bình có quỷ!”.

“Đại sư, có hiệu quả không?” Huyền Trang vừa trở về, Khúc Văn Thái đã nghe tin mà tới, sốt ruột hỏi.

Huyền Trang suy tư một hồi, lắc đầu: “Bệ hạ, chuyện này đêm qua bần tăng suy nghĩ hơi đơn giản rồi, nguyên do bên trong e rằng vô cùng phúc tạp, cần chút thời gian và cơ hội”.

“Ồ!” Khúc Văn Thái hơi thất vọng, nhưng ông ta cũng biết chuyện này không thể giải quyết nhanh như vậy được, liền cười khổ nói: “Đại sư đừng trách đệ tử thúc giục, chỉ là… rạng sáng hôm nay, liên quân ba nước cùng Yên Kỳ đã gửi thông điệp cuối cùng tới, yêu cầu trong vòng ba ngày phải thả công chúa, bằng không sẽ huy động quân đội tiến lên phía bắc”.

Tâm trạng Huyền Trang nặng nề, hỏi: “Bệ hạ đã cầu viện trợ từ triều đình Đột Quyết chưa? Bần tăng nhớ rằng ngài và Khả hãn Thống Diệp Hộ là thông gia với nhau nhỉ?”.

“Đúng vậy!” Khúc Văn Thái lắc đầu không thôi, nói, “Hiện nay Yên Kỳ chiếm được đạo nghĩa, được khắp nơi đồng tình, Khả hãn Thống Diệp Hộ không thể quá thiên vị… Đại sư ngài xem!” ông ta lấy một cuộn giấy da dê từ trong ngực ra, “đây là chiếu lệnh vừa nãy mà Thổ Đồn[74] của triều đình Đột Quyết ở trong thành đưa tới, yêu cầu đệ tử xử lý ổn thỏa tranh chấp với Yên Kỳ, thả công chúa. Điều này chứng tỏ vương triều đã bày tỏ thái độ, nếu liên quân ba nước tiến công, Đột Quyết chỉ có thể hỗ trợ tiến hành hòa giải, chứ không xuất binh can thiệp”.

Huyền Trang đương nhiên hiểu, loại liên hôn chính trị giống như Khúc Văn Thái và Khả hãn Thống Diệp Hộ vẫn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, Thống Diệp Hộ nhất định không vì một Cao Xương mà khiến các quốc gia ở Tây Vực lục đục.

“Như thế này đi”, Huyền Trang nghĩ một lúc liền nói: “Bần tăng viết một bức thư cho quốc vương Yên Kỳ, mời ngài ấy phái sứ đoàn tới Cao Xương, bệ hạ và ngài ấy gặp mặt nói chuyện thẳng thắn, tốt nhất là dẫn ngài ấy đi gặp công chúa Long Sương, để ngài ấy tận mắt nhìn thấy. Nếu có thể không dấy lên đao binh, thì không khác nào xây tòa tháp bảy tầng rồi!”.

Khúc Văn Thái vui mừng khôn xiết: “Đệ tử cũng từng viết quốc thư trần thuật chuyện này, nhưng quốc vương Yên Kỳ lại nói vô cùng hoang đường, toàn là lời bậy bạ, hắn căn bản không tin, đệ tử cũng không thể làm gì được. Nếu đại sư đã bằng lòng đứng giữa làm chứng, vậy thì không còn gì bằng!”.

Hai người trở lại đại điện, Khúc Văn Thái đích thân mài mực, Huyền Trang dùng tiếng Hán và tiếng Phạn[75] viết mỗi loại một bức thư, giao cho Khúc Văn Thái. Khúc Văn Thái muốn dùng quốc thư niêm phong lại, nhưng bị Huyền Trang ngăn cản: “Bệ hạ, vẫn là nên mời một tăng lữ gửi đi là tốt nhất!”.

Khúc Văn Thái lập tức hiểu ra: “Vẫn là đại sư thấu đáo!”.

Yên Kỳ cũng là Phật quốc, với địa vị của Huyền Trang, đích thân viết thư, quốc vương Yên Kỳ dù kính Phật thật tâm hay không cũng không thể nào bỏ mặc không ngó tới. Nhưng quan hệ hai nước hiện nay đang sứt mẻ, nếu như quốc vương Cao Xương thay mặt ngài gửi thư tới, đây xem như quốc thư của Cao Xương thì hẳn quốc vương Yên Kỳ sẽ ngầm đoán định rằng vị hòa thượng tới từ Đại Đường này đang thiên về phe Khúc Văn Thái, trong lòng ắt nảy sinh chống đối.

“Đại sư, bước tiếp theo ngài muốn làm gì?” Khúc Văn Thái hỏi.

Huyền Trang suy nghĩ một chút: “Bần tăng định đến sườn núi Giả Thạch ở thành Giao Hà xem sao”.

“Đến đó làm chi?” Khúc Văn Thái kinh ngạc hỏi.

Huyền Trang mỉm cười: “Để cứu cái duyên giữa nhân và quả này!”.

Khúc Văn Thái rất thông minh, không hỏi thêm nữa, trầm ngâm nói: “Thành Giao Hà cách vương thành hơn tám mươi dặm, người Hồ Hán sống ở đó rất hỗn tạp, thế lực cũng phức tạp… Như vậy đi, đệ tử phái đại tướng quân Trương Hùng dẫn binh hộ tống ngài. Đại tướng quân vũ dũng hơn người, là danh tướng số một Tây Vực, có hắn hộ tống, đại sư nhất định sẽ bình yên vô sự”. Ông ta thấy Huyền Trang muốn từ chối, lập tức khoát tay, “Đại sư, an nguy của ngài vô cùng quan trọng đối với đệ tử. Không chỉ bởi vì ngài giúp đệ tử, mà đối với Cao Xương, nếu để bất cứ vị cao tăng nào gặp bất trắc, đó ắt sẽ là đại họa trời sập. Xin đại sư chớ từ chối”.

Huyền Trang chỉ có thể đồng ý, Khúc Văn Thái lập tức triệu Trương Hùng đến, lệnh cho hắn dẫn một đội kỵ binh cùng Huyền Trang đến thành Giao Hà, lại đặc biệt phái Chu Quý đi cùng, chăm lo cho việc ăn uống ngủ nghỉ của Huyền Trang trong suốt chuyến đi.

°°°

Trương Hùng này khoảng bốn mươi tuổi, tướng mạo nho nhã, thân thể tráng kiện, nhưng chân lại bước vòng kiềng, vừa nhìn đã biết là quân nhân mài đũng quần trên lưng ngựa trong thời gian dài. Lúc mới đầu Huyền Trang không biết, sau đó nghe Khúc Văn Thái giới thiệu, mới biết Trương Hùng này là một người rất giỏi, là nhân vật cường quyền thuộc phái thực lực của Cao Xương.

Trương Hùng, tự Thái Hoan, nguyên quán Nam Dương, Hà Nam, sống tại Cao Xương, thân cô của hắn là vương phi của tiên vương Khúc Bá Nhã, họ hàng của Khúc Văn Thái, phu nhân của hắn là Khúc thị cũng xuất thân từ vương tộc.

Năm đó Cao Xương xảy ra “chính biến Nghĩa Hòa”, hai phụ tử Khúc Văn Thái chính là nhờ sự bảo vệ của Trương Hùng mới chạy thoát khỏi Cao Xương, bảy năm sau, cũng dưới sự giúp đỡ của Trương Hùng, phụ tử một nhà Khúc Văn Thái mới đánh bại được bọn phản loạn, đoạt lại vương vị.

Trương Hùng đối với Huyền Trang rất mực cung kính, nhân dịp ra khỏi vương thành, không ngừng giới thiệu phong cảnh Cao Xương cho Huyền Trang, hai người trò chuyện rất vui vẻ.

Hôm qua lúc Huyền Trang tiến vào vương thành là đêm muộn, không có cảm tưởng gì mấy về thành Cao Xương, lúc này cưỡi trên lưng ngựa, mới cảm nhận được sự phồn hoa của nó, quả thật không phải là nói chơi. Vương thành Cao Xương không chỉ to hơn thành Y Ngô gấp mấy lần, chia thành ba bộ phận là cung thành, nội thành, ngoại thành, cưỡi ngựa đi qua đường lớn nam bắc, lọt vào tầm mắt là không khí tấp nập, rộn ràng, đâu đâu cũng là thương lữ từ nam chí bắc, sử dụng những ngôn ngữ phức tạp, lộn xộn, mặc những kiểu trang phục rực rỡ, chen chúc trên đường lớn, cò kè mặc cả sôi nổi vô cùng.

Khi cưỡi ngựa đi qua, phải tiến hành xua đuổi đám thương lữ chặn đường, nhưng trong vương thành, những thương lữ này cũng không sợ quân đội. Huyền Trang tận mắt nhìn thấy một thương nhân người Hồ bị kỵ sĩ dùng cán mâu đẩy ra, vẫn còn xòe năm ngón tay nói với người bán hàng: “Sáu trăm năm mươi cân! Loại hương liệu này tôi cần sáu trăm năm mươi cân… nao sa[76] (sal ammoniac) cũng là của tôi, hai trăm cân…”.

Chu Quý cười nói: “Đại sư, thời Tiền Tùy gọi Cao Xương chúng tôi là “cửa ngõ Tây Vực”, ngài xem những thương lữ từ nam chí bắc, ngoại trừ thương lữ các nước Khang, Hà, Tào, An, Thạch của vùng Túc Đặc ra, còn có người Cao Xa[77] họ Địch, người Quy Từ họ Bạch, người Xa Sư[78] họ Xa và các thương lữ ở những vùng xa xôi hơn như Thổ Hỏa La và Ba Tư. Hiện tại Đại Đường và Đông Đột Quyết đang quyết chiến ác liệt, thương lữ như thế này vẫn còn ít, đợi đến khi chiến sự bình ổn lại rồi, số người sẽ tăng vọt lên gấp đôi”.

“Ồ?” Huyền Trang nhớ đến mấy chục vạn đại quân quyết đấu trên đại thảo nguyên dài mấy ngàn dặm, không khỏi lo lắng. Lúc trước ngài có từng nghe Lý Thế Dân nhắc đến, phải lấy binh sĩ cả nước, đánh một trận tiêu diệt Đông Đột Quyết, giải quyết triệt để tai họa lớn trăm năm nay của vương triều Trung Nguyên này. Không biết Lý Thế Dân rốt cuộc có thành công hay không, Huyền Trang chỉ có thể thầm cầu nguyện ở trong lòng.

“Hai vị đại nhân, theo như lời hai người nói, là hi vọng Đại Đường thắng, hay là Đông Đột Quyết thắng?” Huyền Trang cười hỏi.

Ngài vốn cho rằng câu hỏi này hơi nhạy cảm, không ngờ Trương Hùng lại không hề do dự, thản nhiên nói: “Đương nhiên là Đại Đường thắng rồi! Tổ tiên của người Cao Xương chúng tôi đều đến từ Hà Tây, vẫn đường đường là người Hán, làm sao có thể bằng lòng nương nhờ vào đám người man di này được? Huống chi, đối với Con đường Tơ lụa mà nói, chỉ có vương triều Trung Nguyên lớn mạnh, giàu có, mới có thể sản xuất ra càng nhiều tơ lụa và đồ gốm, mới có thể mua được càng nhiều vàng bạc và hương liệu, Con đường Tơ lụa mới có thể ngày càng phồn hoa hơn. Chỉ là Trung Nguyên thường xuyên xảy ra nội chiến, hưng suy như đèn tắt sao dời, Cao Xương chúng tôi mặc dù là người Hán, cũng thật sự là không thể trông chờ gì vào vương triều Trung Nguyên, chỉ có thể tự cố gắng sinh tồn trong kẽ hở của các dân tộc khác mà thôi!”.

Huyền Trang thương xót không nguôi, vận mệnh của Cao Xương thực sự lay động được trái tim ngài, thân là quốc gia người Hán, lại một mình vật lộn để sinh tồn ở Tây Vực, loại gian khổ đó thật sự là không thể tưởng tượng được.

Huyền Trang hỏi Chu Quý: “Tổng quản đại nhân thì sao?”.

Chu Quý cười: “Lão nô không phải là người Hán, cũng không phải là người Tây Vực, càng không phải người Đột Quyết, chỉ cần Cao Xương của lão nô được yên bình, Bệ hạ an khang khỏe mạnh, lão nô từ trước tới nay chưa bao giờ suy nghĩ tới việc tranh giành giữa các nước lớn như thế này”.

Huyền Trang nhìn bộ dạng của hắn, lại thật sự hơi tò mò: “Tổng quản đại nhân, ngài là người nơi nào?”.

Trương Hùng cười nói: “Đại sư, Chu tổng quản là người Áp Đạt[79] (Hephthalite).”

“Áp Đạt?” Huyền Trang suy nghĩ kỹ càng, nhưng thật sự ngài chưa từng nghe nói đến quốc gia này.

Trên gương mặt Chu Quý hiện lên vẻ hồi tưởng lại: “Cũng khó trách đại sư không biết, quốc gia của ta đã bị Ba Tư và Tây Đột Quyết tiêu diệt từ ba mươi năm trước rồi, các tộc nhân đều chạy tứ tán khắp nơi, sớm đã như lửa ở đuôi đèn, ánh sáng nơi đầu hương, biến mất trong đêm đen rồi”.

Trương Hùng biết quá tường tận đoạn lịch sử này, mới giải thích: “Đại sư, người Áp Đạt là một chi nhánh của Đại Nguyệt Chi[80] thời Hán triều, mấy trăm năm trước xưng bá Tây Vực, bọn họ từng đánh bại Bái Chiêm Đình và Ba Tư, thậm chí đánh bại cả Thiên Trúc, thành lập đế quốc mênh mông nhất Tây Vực. Ba mươi năm trước, tình hình quốc gia của người Áp Đạt suy yếu, bị Ba Tư và Tây Đột Quyết liên thủ tiêu diệt”.

Huyền Trang thở dài thương xót không thôi, Chu Quý than thở: “Sau khi quốc gia diệt vong, một đám tộc nhân chúng ta bảo vệ công chúa tuổi còn nhỏ đến Cao Xương, được người Cao Xương đối đãi tử tế, liền lưu lại ở nơi này. Sau đó, công chúa gả cho thế tử đương thời, hiện tại là bệ hạ, ta vì chăm sóc công chúa, mới tịnh thân nhập cung làm thái giám”.

Huyền Trang nói: “Vậy công chúa Áp Đạt đâu?”.

Trên mặt Chu Quý hiện vẻ đau buồn khôn nguôi: “Hai mươi năm trước đã lâm bệnh mà qua đời rồi”.

“A Di Đà Phật, chúng sanh sinh ra đã là khổ, các vương quốc tồn tại cũng là một loại khổ” Huyền Trang lẩm bẩm, “Cõi Di Lặc Tịnh độ, rốt cuộc đến bao giờ mới có thể giáng lâm? Non xanh nước biếc, thảy đều biến mất. Trăm hoa xòe nở, muôn loài hòa hợp. Gạo tẻ tự chín, ăn sống cũng được, người ăn vào trường thọ, không còn biết đau khổ. Y áo không cần người dệt vải, từ đất mọc lên cây y phục, từ cây cho ra xiêm áo lụa, mặc cho người lấy mặc; phòng ốc cung điện, cũng do biến hóa mà thành, trên mặt đất tuyệt nhiên không có gì vẩn đục và nhơ bẩn…”

Chu Quý lặng lẽ lắng nghe, ánh mắt đau thương cũng từ từ dịu dàng trở lại, cười nói: “Đại sư đã từng tới chùa Phật trong vương thành chưa?”.

Huyền Trang lắc đầu: “Đêm qua bần tăng mới vào thành, còn chưa kịp đi lễ bái chùa Phật. Chùa Phật của vương thành Cao Xương ở nơi đâu? Khi bần tăng từ Giao Hà về, nhất định phải đi lễ bái từng chùa mới được”.

Vừa nghe lời này, Chu Quý trước tiên nở nụ cười: “Đại sư, trong ngoài thành Cao Xương, tổng cộng có hơn ba trăm ngôi chùa Phật, ngài muốn lễ bái tất cả, e rằng một năm cũng chưa bái hết được”.

Huyền Trang không khỏi ngây người. Vào thời Nam Bắc triều, khi Phật giáo còn đang cực thịnh, chẳng qua cũng chỉ lưu lại một sự cảm khái “Nam triều có bốn trăm tám mươi ngôi chùa” trong câu thơ của người Đường mà thôi, nhưng cả vương thành Cao Xương này mới có hơn ba vạn nhân khẩu, vậy mà chỉ riêng xung quanh vương thành đã có đến ba trăm ngôi chùa Phật! Bình quân cứ mỗi một trăm người lại có một ngôi chùa Phật, thật là không thể tưởng tượng nổi!

Huyền Trang đột nhiên nảy sinh cảm giác âm thầm lo lắng, ngài lập chí phải làm Phật môn hưng thịnh, vì vậy mới không tiếc nguy hiểm mà tới Thiên Trúc cầu Phật, nhưng cho dù ngài có cầu được Phật về, khiến Phật giáo hưng thịnh giống như ở Cao Xương này, thì ba vạn nhân khẩu ba trăm ngôi chùa, lẽ nào là phúc của Phật giáo sao? Ngài nhíu mày suy nghĩ sâu xa, vấn đề này lại không phải là một câu hỏi có thể dễ dàng nghĩ ra được đáp án.

Ba người trò chuyện một đường từ cổng Huyền Đức của thành bắc đi ra, trên ốc đảo nơi đâu cũng là những vườn nho cao vút dày đặc. Lúc này là mùa đông, thân nho trơ trụi, một mảnh vàng úa, mênh mông bát ngát. Có thể suy ra được sự sôi nổi vào mùa thu hoạch.

Đang đi, đột nhiên thấy một mảng lửa đỏ trên dãy núi phía bắc, nham thạch đỏ rực, cả dãy núi ùng ục sôi trào, tựa như cả bầu trời đều đang cháy hừng hực. Huyền Trang giật nảy người, ghìm ngựa dừng lại, hỏi: “Đại tướng quân, đây là chuyện gì vậy? Ngọn núi này sao lại… cháy rồi?”.

Trương Hùng thoáng kinh ngạc, rồi cùng Chu Quý bật cười ha hả, đến A Thuật bên cạnh cũng cười nghiêng ngả. Trương Hùng cười nói: “Ha ha, đệ tử quên mất, đại sư ngày đêm lên đường qua thung lũng Tân Hưng, chẳng trách chưa từng nhìn thấy ngọn Hỏa Diệm Sơn này!”.

A Thuật nói: “Sư phụ, ngọn núi này tên là Hỏa Diệm Sơn, nhưng không phải là nó đang cháy thật sự đâu. Nham thạch trên ngọn núi này màu đỏ thẫm, trên núi không có một ngọn cỏ, khi mặt trời đỏ chiếu xuống, lòng núi sẽ bốc hơi lên, mây khói lượn lờ, thật sự rất giống như đang cháy. Lần đầu tiên con cùng thúc thúc đi ngang qua nơi này, cũng cho rằng nó đang cháy”.

Huyền Trang tặc lưỡi kêu kỳ lạ, Chu Quý cũng cười nói: “Đại sư, ngọn núi này mặc dù không cháy, nhưng đến giữa mùa hè, nhiệt độ trên núi rất cao, đặt trứng gà trên nền cát, chỉ chốc lát là có thể nướng chín. Có vài bách tính ăn bánh nang, chỉ cần trải bột lên trên đá, một lát sau là có thể phơi đến mức bánh ngoài giòn trong mềm”.

°°°

Con đường từ vương thành đến thành Giao Hà chính là ở phía dưới ngọn Hỏa Diệm Sơn này, men theo chân núi đi về phía tây sáu mươi, bảy mươi dặm. Khi bọn họ ra khỏi thành đã là hoàng hôn, đi ba mươi dặm thì trời chuyển về đêm. Trương Hùng lệnh cho các kỵ binh dựng lều trại, nghỉ ngơi dưới núi một đêm, sáng hôm sau là đến ngoài thành Giao Hà.

Thành Giao Hà là đô thành của nước Xa Sư hai trăm năm trước, nằm tại giao điểm của hai con sông là châu Hà Tâm, dưới sự gột rửa mài mòn của nước sông, địa thế của châu Hà Tâm càng ngày càng cao, hình thành một đài đất kiên cố cao mười trượng, hình dáng lại giống như một cánh lá liễu cực lớn, hướng nam bắc dài tới năm trăm trượng, hướng đông tây nơi rộng nhất lên tới trăm trượng.

Bởi vì mùa hạ nơi đây nóng như thiêu như đốt, tiết trời khô hanh, trên mặt đất của thành Giao Hà không hề được xây dựng gì, người dân vì tránh nóng nên đào xuống mặt đất, làm thành những ngôi nhà dạng hầm, sân của các hộ gia đình thông nhau, nên đã hình thành một con đường ngầm dưới lòng đất. Kỳ lạ nhất là, kiến trúc nơi đây không phải là từng tầng từng tầng hướng lên trên, mà là hướng xuống dưới, những ngôi nhà và sân đầu tiên cách mặt đất gần nhất, muốn xây thêm nhà ở, thì đào sâu thêm xuống dưới lòng đất, đất đào ra sẽ được xây thành tường bao và những căn phòng bằng đất. Lỗ thông gió và giếng nước của nhà hầm dưới đất thông nhau, luồng khí mát lạnh tự nhiên trong giếng nước có thể điều hòa nhiệt độ trong phòng, chống nóng hạ nhiệt. Kết quả là, đài đất này liền bị con người cắt gọt, đào khoét, ra khỏi cửa chính là vách đá, trên đỉnh đầu lại là mặt đất, tự nhiên đã hình thành tầng tầng lớp lớp tường thành, cả thành phố trở thành một tòa pháo đài quân sự có nhiều công năng phức tạp.

Trên thực tế, tòa thành Giao Hà này cũng là thành phố vững chắc nhất Tây Vực, dưới thành là sông ngòi sâu hoắm, bất luận là đứng ở đáy sông hay là chỗ cao bên bờ đối diện, căn bản đều không nhìn rõ được phòng ngự bên trong thành. Gần hai trăm năm trước, Hung Nô hùng mạnh bao vây nước Xa Sư đến tận tám năm, cuối cùng vẫn là người Xa Sư chủ động rút lui, mới coi như đánh thắng, thành công chiếm được tòa pháo đài này.

Vì vậy tòa pháo đài phòng ngự cuối cùng có cấu tạo phức tạp này, đối với lịch sử các vương triều Trung Nguyên đều là căn cứ địa đáng tin cậy nhất khi mở rộng lãnh thổ đến Tây Vực. Trước mắt, thành Giao Hà là một quận lớn nhất của Cao Xương, từ trước đến nay đều sắc phong thế tử làm chủ thành Giao Hà, quản lý thành phố. Cũng có nghĩa là, trưởng quản cao nhất của thành Giao Hà chính là Khúc Nhân Thư.

Chu Quý dẫn người vào thành trước rồi đi thông báo với thái thú Giao Hà, Huyền Trang và Trương Hùng đi chậm rãi, đến ngoài thành Giao Hà, Trương Hùng đột nhiên hỏi: “Đại sư, nghe nói mấy tháng trước, hoàng đế bệ hạ Đại Đường sau khi xuất binh đánh Đông Đột Quyết, đã từng làm một câu thơ: ‘Tái ngoại bi phong thiết, Giao Hà băng dĩ kết. Hạn Hải bách trùng ba, Âm Sơn thiên lí tuyết’[81]. Đây có phải ngầm ám chỉ triều đình đang yêu cầu đòi lãnh thổ của Cao Xương ta không?”.

“Ồ?” Huyền Trang hơi ngẩn người, Trương Hùng mỉm cười nhìn ngài, nhưng Huyền Trang lại phát giác ra sự sợ hãi đối với vị thiên tử Đại Đường từ trong nụ cười của hắn. Huyền Trang suy nghĩ một lát rồi nói: “Bần tăng chỉ là một hòa thượng, không hiểu quốc sự. Nhưng đối với người Đại Đường ta mà nói, thơ cú là dùng để biểu đạt ý nghĩ, nhưng không có ý chỉ thực tế. Câu thơ về thành Giao Hà, càng không lạ lẫm gì, ví dụ như đại nhân Ngô Thế Nam mấy năm trước có làm một bài thơ: ‘Diệm diệm qua sương động, cảnh cảnh kiếm hồng phù. Thiên Sơn đông hạ tuyết, Giao Hà nam bắc lưu’[82]. Cũng có bài thơ khác: ‘Hoàn khủng tài phùng bãi, vô tín đạt Giao Hà’[83]. Bần tăng nghĩ, triều đình Đại Đường có đồng thuận trong việc công chiếm Tây Vực, chiếm lĩnh Giao Hà đâu nhỉ?”.

Trương Hùng cười lớn: “Tài hùng biện của đại sư đúng là cao siêu, đệ tử bái phục. Chỉ là đùa chút mà thôi, ngàn vạn lần xin đại sư đừng coi là thật!”.

Huyền Trang âm thầm cảm khái, người Cao Xương này, một mặt hy vọng có được sự che chở của chính quyền người Hán ở Trung Nguyên, một mặt lại hi vọng giữ vững độc lập, cũng thật là quá mâu thuẫn rồi.

Lúc này Chu Quý dẫn theo thái thú Giao Hà đích thân ra thành nghênh đón, mọi người vào thành từ cổng nam, cổng thành chật hẹp, sau khi vào lại càng chật hẹp hơn, hai bên đều là những bức tường đất cao ngất, không nhìn thấy nhà dân. Mọi người dẫn Huyền Trang vòng qua mấy lối rẽ, cảnh vật trước mắt liền hiện ra sáng sủa rộng rãi hơn hẳn, một con đường rộng lớn nối liền toàn thành, nhưng kỳ lạ là hai bên vẫn là tường đất, không có nhà dân.

Đám người Huyền Trang vòng qua một lỗ hổng trên đường lớn, mới nhìn thấy nhà dân tầng tầng lớp lớp chồng chất hai bên đường, bên trong người đi đường và thương nhân mua bán rất đông, nhà trọ, chùa Phật, nơi làm việc của quan lại, chợ, các khu vực được phân chia cực kỳ cẩn thận. Chỉ là, đi ở giữa thấy hai bên đường là vách núi, ngẩng đầu nhìn chẳng thấy bầu trời mà là đường đất, Huyền Trang mới chợt nhớ ra mình đang đi dưới lòng đất, không khỏi cảm thấy hơi kỳ quái.

Sườn Giả Thạch mà Khúc Trí Thịnh hôm đó đi tới là ở ngoài cổng đông, nơi này đã ra khỏi thành Giao Hà rồi, nằm bên bờ sông, phía trên là bờ sông cao ngất, hình thành một bờ dốc thẳng đứng.

“Đại sư, nơi này chính là sườn Giả Thạch” Chu Quý chỉ vào một bờ dốc đất màu đỏ đậm, “lúc đầu tam hoàng tử đứng tại chỗ này”.

Huyền Trang gật đầu, hỏi Trương Hùng: “Hai vị và các vị tướng sĩ có thể đứng xa ra chút được không?”

Trương Hùng và Chu Quý hơi ngẩn người, đưa mắt nhìn nhau, cũng không truy hỏi liền phất tay lệnh cho kỵ binh lui về sau ba mươi trượng, còn bản thân cũng đi đến nơi xa chờ đợi. A Thuật nhỏ giọng hỏi: “Sư phụ, sao ngài lại bảo bọn họ đi hết vậy?”.

Huyền Trang chần chừ một lúc, thở dài: “Chính tại chỗ này hoàng tử Khúc Trí Thịnh đã đón được công chúa Long Sương, bần tăng nghĩ đến khả năng cao là có người dùng mưu kế. Nếu là mưu kế của con người, vậy thì nhất định có liên quan tới việc tranh giành lợi ích quốc gia, quan hệ giữa các nước Tây Vực rắc rối phức tạp, không thể không phòng bị”.

A Thuật ngạc nhiên nói: “Sư phụ, dường như ngài đã chắc chắn ma quỷ trong Chiếc bình của vua Đại Vệ là giả, đúng không?”.

“Giả?” Huyền Trang kinh ngạc nói, “bần tăng không nghĩ thế, dù sao thì cũng có rất nhiều chuyện mà trí tuệ của con người không thể nào giải thích được. Phải rồi, A Thuật, thân thể con nhanh nhẹn, có thể leo lên bờ dốc bên kia, xem xem trên vách đá có khảm… cọc gỗ hoặc là lỗ thủng gì đó hay không, ừm, tốt nhất là mang theo một đoạn dây thừng, đến lúc đó con cũng kéo cả bần tăng lên”.

A Thuật đáp vâng một tiếng, liền đi tìm Trương Hùng xin một đoạn dây thừng buộc quanh hông, rồi leo lên trên. Bờ dốc này cao khoảng ba bốn trượng, lại thẳng đứng, rất ít những thứ có thể vịn tay hoặc giẫm chân. Nhưng những điều này lại không tạo ra trở ngại gì cho A Thuật, cơ thể cậu bé quả thật rất linh hoạt, có khi dùng hai tay là có thể đu cả cơ thể lên, giống như một con thằn lằn lớn. Sau thời gian một nén nhang, A Thuật đã xem xét xong cả vách đá, hướng về phía Huyền Trang hét lên: “Sư phụ, không có!”.

“Được, con thả dây thừng xuống đây!” Huyền Trang vẫy vẫy tay với cậu.

A Thuật buộc chặt dây thừng vào một gốc cây chết khô trên vách núi, sau đó ném đầu còn lại xuống. Huyền Trang buộc quanh hông, nắm lấy dây thừng mà leo lên trên, thỉnh thoảng dùng tay móc tầng đất trên vách đá, nhưng không hề phát hiện bất cứ dấu vết nào chứng tỏ từng bị tác động bởi con người. Huyền Trang nhất thời nghi ngờ, liền trực tiếp leo thẳng lên trên.

Bên trên bờ dốc, chính là một bình nguyên mênh mông vô bờ, hai người ngắm nhìn thành Giao Hà nằm lọt thỏm giữa hai bên bờ, Huyền Trang quỳ rạp trên mặt đất quan sát thật kỹ càng. Từ khi công chúa Long Sương cưỡi ngựa rơi xuống vách đá đến hiện tại là gần nửa tháng, nhưng dấu vết vó ngựa trên mặt đất vẫn có thể thấy rõ ràng.

Dấu vết móng ngựa kia lúc ẩn lúc hiện, dài ba bốn mươi trượng, nhìn phân bổ của vó ngựa, là tốc độ chạy bình thường, chỉ là tới bên vách đá vết móng lại lộn xộn, thậm chí có một vết kéo rất dài, tựa như công chúa phát hiện trước mặt là vách núi nên liều mạng ghìm ngựa.

Huyền Trang mỉm cười, đột nhiên nói: “A Thuật, nếu như bần tăn