← Quay lại trang sách

Chương 8 Nhà gả ta tới phương trời xa

Lúc này, Huyền Trang đang kéo A Thuật chạy trốn trong giếng mương. Tiết tiên sinh mang theo người chặn cả bốn hướng, vài lần nguy hiểm đến mức phải tìm chỗ hiểm mà lẩn trốn. Hai người chạy qua không biết bao nhiêu cái giếng thông gió, nhưng chúng cách mặt đất khá xa, hai người làm thế nào cũng không thể trèo lên được.

“Không được đâu, sư phụ, chúng ta phải tìm một cái giếng để trèo lên thôi, nếu không nhất định sẽ bị bọn chúng bắt được”, A Thuật thở hồng hộc tựa vào vách giếng bằng đá, hai người chạy đến mức cả người đổ mồ hôi, hai chân đều run run.

Huyền Trang thở hổn hển nói: “Mang bản đồ giếng mương của con ra đây!”.

A Thuật lấy tấm bản đồ giếng mương ra, Huyền Trang dùng tay áo lau mồ hôi ướt đẫm trên trán, tìm một góc giếng có chút ánh sáng xem xét tỉ mỉ. A Thuật hỏi: “Sư phụ, trên tấm bản đồ giếng mương này, không có đánh dấu lối ra ở chỗ nào?”.

“Bần tăng không phải muốn tìm lối ra của giếng mương, mà là muốn tìm chỗ chúng ta bị rơi xuống.” Huyền Trang tựa vào vách giếng, đặt bản đồ giếng mương lên trên hai đầu gối, “A Thuật, con nghĩ xem, nếu nhị hoàng tử phát động phản loạn, thừa dịp Cao Xương đại loạn, công chúa Long Sương sẽ lợi dụng đám người lưu vong này như thế nào?”.

A Thuật suy nghĩ: “Tập kích bất ngờ!”.

“Đúng vậy!” Huyền Trang gật đầu, “Mục tiêu là gì?”.

A thuật chấn động: “Chẳng lẽ là… quốc vương Cao Xương?”.

“Không sai!” Huyền Trang khen ngợi nói, “Long Sương Nguyệt Chi vì sao lại để cho bọn họ bí mật trốn trong giếng mương này, hơn nữa lại cất giữ đao thương khí giới? Chỉ có một nguyên nhân, cái giếng mương này, nhất định thông đến vương cung!”.

“Đúng vậy, sư phụ!” A Thuật vỗ tay, “Khúc Văn Thái và Khúc Nhân Thư đều ở trong vương cung, như vậy Long Sương Nguyệt Chi mới có thể thừa dịp nhị hoàng tử tạo phản, bất thình lình ám sát hai người họ. Sư phụ, chẳng lẽ sư phụ muốn tìm lối ra đó? Như vậy chẳng phải là mò kim đáy biển sao?”.

Huyền Trang lắc đầu: “Không sai, A Thuật, con phải biết rằng, bất cứ loại mưu kế nào, càng tinh vi hiệu quả, bên trong càng có những quy luật phải tuân theo. Con xem, vương cung nằm ở phía tây bắc của vương thành, nếu chúng ta muốn xác định được lối ra trong vương cung, có thể tìm theo hướng tây bắc”.

A Thuật cười khổ: “Sư phụ, trong giếng mương thế này, sư phụ xác định phương hướng như thế nào?”.

Huyền Trang chỉ ngón tay về phía miệng giếng đứng, lúc này ánh nắng đang chiếu rọi lên miệng giếng, “Bây giờ có vẻ như đang là giờ Ngọ? Con nhìn ánh nắng đó, ánh nắng này chính là phía bắc”.

A Thuật nghi hoặc: “Sư phụ, nếu chúng ta đi theo hướng bắc, bên kia đều là mương ngầm, không có ánh sáng mặt trời”.

Huyền Trang mỉm cười: “Con hãy nhìn nước mương mà xem, giếng mương này trừ giếng mương Hồ Ma, mương Bạch, mương Bạch Địa, còn lại đa số là ngang dọc bắc nam, đông tây. Nước đến từ Thiên Sơn phía bắc chảy đến, địa thế bắc cao nam thấp, như vậy dòng chảy từ phía bắc về phía nam nước chảy xiết, hướng chảy đông tây sẽ ôn hòa hơn. Vậy chẳng phải dễ dàng xác định phương hướng rồi sao?”.

A Thuật kính nể không thôi, nhưng vẫn có chút nghi vấn: “Sư phụ, vậy làm thế nào xác định được chỗ chúng ta đang đứng?”.

“Đi theo hướng bắc”, Huyền Trang thản nhiên nói, “Con nhìn bản đồ giếng mương mà xem, phía bắc vương thành, mương lớn nối thông đông tây có hai nhánh, phía nam là mương Du Thụ, phía bắc là mương Bắc Bộ. Chúng ta cứ đi thẳng theo hướng bắc, gặp phải mương lớn đầu tiên, chắc chắn là mương Du Thụ”.

Hai người tìm được mục tiêu, liền trốn khỏi sự lục soát của đám người lưu vong, chạy trốn theo hướng bắc. Đám người lưu vong vẫn tìm kiếm theo hướng nam, không ngờ rằng bọn họ đã chủ động đi vào khu trọng yếu nhất, hai bên đi qua nhau.

Đi hơn một dặm về hướng bắc, quả nhiên gặp con mương lớn hướng đông tây cuồn cuộn chảy qua. Hai người tinh thần phấn chấn hẳn lên, nhưng trên tấm bản đồ không có đánh dấu tòa nhà nào trên mặt đất, nhất là khu vực vương cung, tất cả chỉ là một khoảng trống. Điều này không khó giải thích, mương ngầm dưới lòng đất trong vương cung, sao có thể bày ra cho mọi người nhìn thấy được? Do vậy, xác định được vị trí của vương cung thực sự rất khó.

Lúc này, chung quanh đều tối đen như mực, hai người không có ngọn nến nào, không thể xem bản đồ. Huyền Trang suy nghĩ, hỏi A Thuật: “Phía bắc vương thành, có phải là có một nhánh mương Tà, từ mương Mãn Thủy chảy đến đây, trực tiếp chảy vào sông bảo vệ thành?”.

“Ồ!” A Thuật nói, “Giếng mương ở trong vương thành chỉ có một nhánh mương Tà này”.

Huyền Trang nở nụ cười: “Nếu bần tăng đoán không sai, nhánh mương Tà này, chắc chắn xuyên qua vương cung! Dưới mặt đất của vương cung không thể làm được hệ thống nước quá phức tạp. Trong mùa hè nóng nực, người trong cung nhất định sẽ xuống những căn phòng dưới mặt đất để tránh nóng, bởi vậy phải cần đến nhánh mương Tà này, các căn phòng trong cung đều có đủ nhánh giếng mương, giúp các căn phòng dưới lòng đất được thông khí. Được rồi, chúng ta đi tìm nhánh mương Tà này thôi!”.

Hai người tiếp tục đi về phía trước, lại xuất hiện một cái giếng thông gió, trong giếng mương lại sáng bừng lên, càng dễ dàng phán đoán phương hướng, hai người quả nhiên tìm được nhánh mương Tà kia. Nhánh mương Tà này có chút không giống với những nhánh mương khác, bên trong lòng mương rộng rãi, trồng không ít cây nho, thậm chí còn được bao phủ trên giàn gỗ, bao trùm hết toàn bộ thành giếng. Tưởng tượng tới giữa mùa hè, những cây nho nằm rủ trên thành giếng ắt tạo nên cảnh tượng mê hoặc lòng người.

“Có vẻ chúng ta đang ở bên dưới vương cung rồi!” Huyền Trang phấn chấn vô cùng.

Vừa dứt lời, chợt nghe vèo một tiếng, một mũi tên nhọn hoắt bay đến cắm vào cọc gỗ của giàn nho! Chợt nghe có tiếng người hô lên: “Ở trong này!”.

Hai người quay đầu nhìn, thì thấy bốn năm tên lưu vong tiến vào nhánh mương Tà, hô lên gọi những tên khác đến. Hai người liếc nhau, không hẹn mà cùng bám vào mô đất ở hai bên mương nước vội vàng trèo lên. Giàn nho hai bên quất lên thân người, leo không bao lâu, chợt thấy trên đỉnh thành giếng xuất hiện mấy ô cửa sổ, thậm chí còn có cả cánh cửa.

“Sư phụ…” A Thuật vừa chạy vừa hét, “Đó có phải cửa của căn phòng dưới lòng đất trong cung không? Chúng ta phá cửa vào đi!”.

“Không!” Huyền Trang vội vàng ngăn cản, “Tìm cánh cửa lớn nhất, đẹp nhất!”.

A Thuật nhất thời không hiểu, nhưng phía sau tên nhọn bay tán loạn, bay sượt qua bên người vèo vèo, cũng không kịp hỏi kỹ nữa. Trong khi hai người chạy trốn, con đường phía trước đột nhiên mở rộng, hiện ra một cái hồ lớn, nước dâng lên chảy vào trong hồ. Hồ nước kia lộng lẫy vô cùng, xung quanh được khảm những tay nắm bằng đá cuội, cá trong hồ bơi qua bơi lại như con thoi, trên đỉnh vừa hay có một cái giếng đứng thông thẳng xuống dưới, ánh nắng chiếu khắp nơi, sóng nước dập dờn bồng bềnh. Xung quanh thấp thoáng những bụi nho, tuy rằng lá cây đã rụng hết, nhưng gốc cây vẫn quấn quanh, nhìn vô cùng thú vị.

Hai người không nghĩ rằng dưới mương ngầm lại có một nơi thế này, không khỏi ngẩn ra, ngừng lại, lập tức nhìn thấy phía bên trái của cạnh hồ có một cái cửa lớn hình vòm, được xây từ gạch mộc dài hơn một trượng, nhưng mặt ngoài của phần gạch mộc còn có một lớp men sứ màu lam nhạt, điêu khắc hoa văn vô cùng tinh xảo, hoành tráng hùng dũng. Lúc này, đám lưu nhân đã đuổi theo tới đây, hai người không rảnh nhìn kỹ, đẩy mạnh cánh cửa, cánh cửa bằng gỗ hồ dương không hề bị khóa, chỉ đẩy nhẹ đã mở ra.

Hai người đều có chút kinh ngạc, không kịp nghĩ nhiều, chui vào trong, rồi quay người đóng cửa lại. Phía sau cánh cửa có một chiếc then cài, Huyền Trang vừa mới gạt xuống để đóng vào, cánh cửa đã vang lên tiếng va đánh thùng một cái. Huyền Trang niệm A Di Đà Phật, thầm nghĩ, nếu chỉ chậm thêm vài giây thì đám lưu vong kia đã kịp xông vào rồi.

Lúc này, bên kia cửa vang lên tiếng của Tiết tiên sinh: “Đại sư, ngài là người xuất gia, sao phải để ý tới chuyện thế tục này? Sinh mệnh luân hồi, vương triều hưng phế, ở trong mắt Phật gia, đơn giản là sinh diệt vô thường. Đích đến của ngài là ở đất Phật Tây Thiên, sao lại phải nhiễu loạn hồng trần nhân quả?”.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang trầm mặc một lát, nói, “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, bần tăng đứng ở trong cánh cửa này, chẳng lẽ không phải là đứng trên đường đi tới Tây Thiên sao? Phật gia bảo vệ chúng sinh thế giới, việc binh đao này, thỏa mãn chấp niệm tham sân si của ông, lại hại vô số chúng sinh vô tội! Tiết tiên sinh, ông tất nhiên có sự kiêu ngạo của riêng mình, không muốn bái phục dưới chân thiên tử Đại Đường, nhưng ông thống lĩnh họ Tiết ở Lũng Tây bôn ba mười hai năm, mười người thì chết tới bảy tám, thà rằng lẩn trốn để làm một tên loạn thần tặc tử cũng không nguyện đường đường chính chính làm người, bần tăng không biết, thứ ông thỏa mãn là sự kiêu ngạo của bản thân ông, hay là sự kiêu ngạo của nhà họ Tiết nữa!”.

“Đại sư…” Tiết tiên sinh thở dài một tiếng, “Ngài cũng biết, khi ngài trở lại mặt đất, nói một câu cũng có thể khiến cho hàng vạn người đầu rơi xuống đất! Người tộc họ Tiết sẽ bị đuổi tận giết tuyệt!”.

Huyền Trang biết lời này của hắn cũng không phải nói quá, mưu đồ tạo phản, hẳn nhiên sẽ không chỉ có mấy trăm người bọn chúng nhúng tay vào, chỉ một câu nói của ngài, thật sự sẽ khiến Cao Xương này máu chảy thành sông. Ngài do dự rất lâu, không khỏi thở dài: “Tiết tiên sinh, ông nên nhanh chóng rời khỏi Cao Xương này đi! Chỉ cần các người đồng ý trở về Đại Đường, bần tăng nguyện ở trước mặt Khúc Văn Thái một mình gánh chịu, giúp ông thoát chết!”.

“Đại sư!” Tiết tiên sinh buồn bã nói, “Khi ngài trên đường đi tới Tây Thiên, ngài không nghĩ tới việc quay đầu lại sao? Con đường này, cũng là con đường đi tới Tây Thiên của lão phu!”.

Huyền Trang trầm mặc, bên kia cửa không có thêm tiếng động gì.

“Sư phụ, đây là ở đâu?” A Thuật lúc này đang ngơ ngác nhìn đại sảnh trước mặt đầy say mê.

Huyền Trang quay người lại, mới nhìn rõ nơi này là một đại sảnh vô cùng trống trải, bốn phía là mấy cái trụ hành lang, mặt trên khắc hoa văn. Cuối đại sảnh có hai chiếc cầu thang, trái phải đối xứng hai bên uốn cong lên. Trên vách tường chính giữa có khắc một pho tượng Thích Ca Mâu Ni. Huyền Trang tới trước tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vái lạy, lúc này mới nói: “Nơi này, chỉ sợ cũng là phòng ngầm trong hậu cung của quốc vương bệ hạ”.

“Con hiểu rồi, sư phụ!” A Thuật bừng tỉnh, “Hóa ra ngài muốn tìm cánh cửa lớn lộng lẫy nhất chính là muốn tìm Khúc Văn Thái!”.

Huyền Trang mỉm cười xoa đầu cậu: “Bần tăng tìm nó, bởi nó nhất định là mục tiêu mà Tiết tiên sinh đã chọn!”.

Hai người vừa nói chuyện vừa bước lên lầu, xem ra nơi này chỉ là một căn phòng tránh nóng dưới lòng đất, không có tác dụng gì khác, hiện tại đang là mùa đông, bên trong giá lạnh vô cùng, cũng không có người quản lý. Bước lên cầu thang, lại gặp một cánh cửa lớn màu vàng được chạm khắc hoa văn, Huyền Trang đẩy một cái, không ngờ tay vừa chạm nhẹ vào, cánh cửa kia đã mở ra một cách nhẹ nhàng không tiếng động, một bầu không khí ấm áp tràn đến. Bên trong là một căn phòng vô cùng rộng lớn, hơi nước mờ mịt, hương thơm hấp dẫn phảng phất truyền đến làm say lòng người.

“Sư phụ, “A Thuật giật mình sợ hãi, “Trên đời này còn có cửa tự động sao?”.

“Tất nhiên là phải đẩy ra, giống như con người đang bước đi trong luân hồi, chỉ là kiếp trước đã an bài thôi.” Bên trong cánh cửa có người nói khẽ. Thanh âm uyển chuyển, vui vẻ êm tai, quả nhiên là một nữ nhân.

Cùng lúc đó, xung quanh vang lên vài tiếng kêu sợ hãi: “Kẻ nào? Dám cả gan đột nhập vào hậu cung của vương phi?”.

Huyền Trang hoảng sợ, lúc này mới phát hiện ra đã có bốn cung nữ vây quanh mình, trước mắt là một bồn tắm rộng hơn một trượng, bồn tắm đó được xây từ đá cẩm thạch trắng, mặt nước tỏa ra hơi nóng ùng ục, phía trên trải đầy hoa tươi. Trong bồn, một mỹ nhân có thân hình yểu điệu đang ngâm mình trong nước, hơi nước bao phủ, chỉ có mái tóc dài màu đen phủ lên trên tấm đá cẩm thạch trắng, đen trắng tương phản, xinh đẹp không tả xiết.

Lần này Huyền Trang kinh ngạc không ít, trong lòng âm thầm kêu khổ, lập tức che kín mắt của A Thuật rồi quay đi, không ngờ rằng chính mình lại làm ra chuyện bậy bạ, đột nhập vào phòng tắm của vương phi! Càng phiền toái hơn là, vương phi lại đang tắm!

Vương phi cười khanh khách không ngừng: “Đại sư, A Thuật vẫn là một đứa trẻ, không giống như ngài”.

Huyền Trang càng xấu hổ: “A Di Đà Phật, thân phận của vương phi, sao có thể không tôn trọng. Bần tăng không biết vương phi lúc này… Thật sự…” Tài nói năng của ngài vốn không có gì cản được, lúc này lại thật sự không biết nên mở lời ra sao, lắp ba lắp bắp, khiến cho vương phi cười đến gập người lại. Nàng đứng lên giữa bồn, trên thân mình trần trụi trắng như tuyết vương đầy bọt nước, ngửa đầu hất tóc, vẩy lên một vệt nước giữa không trung.

Huyền Trang chợt thấy trên đỉnh đầu lạnh buốt, trong miệng liên tục niệm A Di Đà Phật, không dám sờ tay lên đầu.

Vương phi vẫy tay gọi cung nữ, một cung nữ cầm tấm áo choàng bằng lụa mỏng lên, choàng lên thân thể của nàng, quỳ gối xuống phía sau lưng nàng buộc thắt lưng, vương phi cười dài nói: “Đại sư, ngài có thể xoay người lại rồi!”. Huyền Trang chuyển mình nhẹ, nhưng không dám quay người lại, lặng lẽ đẩy A Thuật một cái. A Thuật hiểu ý, bỏ đôi tay đang tự che mắt mình xuống, nhìn ra phía sau, lớn tiếng nói: “Sư phụ, nàng ta mặc xong quần áo rồi!”.

“A Di… Đà Phật…!” Huyền Trang không ngờ cậu bé lại nói ra cái này, lập tức lại lắp ba lắp bắp. Mồ hôi trên trán ướt đầm như mưa.

Vương phi cười ngặt nghẽo, chỉ tay vào A Thuật mà cười không đứng được thẳng lưng: “Ngươi… đứa nhỏ này… Thật sự rất đáng yêu!”.

Huyền Trang lại xấu hổ, xoay người không dám nhìn thẳng vương phi, thấp giọng nói: “A Di Đà Phật, vương phi, nơi đây nguy hiểm, người nên sớm rời đi. Bên ngoài có sát thủ mai phục, bần tăng đang đi tìm bệ hạ”.

Vương phi lơ đễnh, nhẹ nhàng xoay người, nghiêng người dựa lên một tấm đệm mềm mại, hai tay chống cằm nhìn chằm chằm vào Huyền Trang: “Đại sư, nếu đến đây rồi, sao phải đi vội vã như vậy? Ta sớm đã muốn cùng ngài tâm sự, nhưng vẫn vô duyên, chỉ là một vài tên nạn dân lưu vong, đại sư không cần lo lắng”.

Huyền Trang trong lòng trầm xuống: “Người biết sao?”.

Vương phi mỉm cười không nói, Huyền Trang nhìn thấy vẻ mặt của nàng, chậm rãi gật đầu: “A Di Đà Phật, thì ra vương phi chính là nữ thí chủ đeo mặt nạ bằng vàng kia!”.

Nếu như không phải chính tai nghe thấy tiếng nói của nàng, vương phi lại không hề cố ý che giấu, cho dù thế nào Huyền Trang cũng không thể tin được, trong thành Giao Hà, người cầm thiết chùy trong tay, phá vỡ sàn gác, đeo mặt nạ vàng thong dong trước mặt hàng trăm tên kỵ binh đuổi giết, lại là mẫu nghi của một nước, sống trong thâm cung! Ngay cả A Thuật cũng ngây ra, vẻ mặt mờ mịt.

“Ngài nhìn ra sao?” vương phi thản nhiên cười, “Không biết đại sư còn nhìn ra cái gì nữa không?”.

Huyền Trang nhìn phục sức của nàng, hơi có chút thất thần: “Tay áo nhỏ, thắt lưng cao, váy dài… Chẳng trách khi lần đầu tiên nhìn thấy người, bần tăng đã cảm thấy có chút kỳ lạ, đây là phục sức của Tiền Tùy. Thì ra vương phi là người Tiền Tùy. Đám người lưu vong của Tiết tiên sinh này…”.

“Bọn họ đương nhiên là con dân của ta!” vương phi khẽ than nhẹ, “Ta là công chúa Tiền Tùy”.

Huyền Trang chấn kinh, đang muốn nói thêm, thì lại chợt thoáng nghe thấy tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ leng keng từ đại điện truyền đến, ngay lúc đó tiếng bước chân nặng nề vang lên, đánh giáp lá cà, cả đám người hô vang, dường như có vô số binh sĩ đang vội vàng chạy đến tiền điện.

Một cung nữ hốt hoảng chạy vào bẩm báo: “Vương phi, bệ hạ mở tiệc chiêu đãi quốc vương Yên Kỳ, lúc nãy đã xảy ra tranh cãi, hai bên động đao rồi”.

Vương phi bình thản vén mái tóc dài: “Mọi thứ đã bắt đầu rồi, chỉ còn chờ màn kịch hay nhất diễn ra thôi”.

°°°

Tiếng đao kiếm vang lên, bữa yến tiệc tràn ngập sát khí. Trong chính điện vương cung, lúc này đang giương cung bạt kiếm, máu sắp đổ khắp nơi.

Khi Khúc Trí Thịnh nhìn thấy Long Sương Nguyệt Chi, thì cũng là lúc quốc vương Yên Kỳ là Long Đột Kỵ Chi thống lĩnh một sứ đoàn khổng lồ vừa mới tiến vào vương cung, một trăm hai mươi tên Long kỵ sĩ được trang bị đầy đủ vũ trang, bảo hộ toàn thân. Long Đột Kỵ Chi biết, một khi tiến vào trong vương cung, ở đó dù có dùng vũ lực cũng không thể bảo vệ được chính mình, nhưng hắn không hề sợ hãi, đeo loan đao ngang nhiên đi vào chính điện vương cung.

Không ngờ vào đến chính điện, hắn có chút sững sờ, thì ra có một bữa quốc yến vô cùng long trọng đang chờ đợi hắn!

Nhị hoàng tử Khúc Đức Dũng của Cao Xương, lục bộ trưởng sử, trọng thần vương tộc tất cả đều ở đây, còn cố tình để cho tất cả các thống lĩnh quân đội đều vắng mặt, nhất là danh tướng Tây Vực - Trương Hùng, kẻ khiến cho người khác phải khiếp sợ. Long Đột Kỵ Chi cũng không phải kẻ ngốc, rất nhanh liền cảm nhận được thiện ý sắp đặt của Khúc Văn Thái.

Long Đột Kỵ Chi tuổi ngoài bốn mươi, thể trạng khôi ngô, mặt râu quai nón, là trưởng Long tộc của người Yên Kỳ, Long Đột Kỵ Chi cũng là vị quốc vương hiếu chiến nhất tại Tây Vực. Yên Kỳ trong vòng nửa tháng ngắn ngủi liên tiếp chịu nhục, chẳng những sứ giả đi sứ Đại Đường bị người Cao Xương chặn giết, ngay cả công chúa của mình cũng bị hoàng tử Cao Xương đoạt mất, Long Đột Kỵ Chi tính tình nóng nảy, làm sao chịu được loại nhục nhã này? Bức quốc thư được gửi đến chính là tối hậu thư - có trả lại công chúa hay không? Nếu không trả lại ta sẽ đánh!

Sau khi gửi đi, hắn căn bản không đợi Cao Xương trả lời, liền liên lạc ngay với hai nước Quy Từ, Sơ Lặc, kết thành liên quân, hỏa lực tập trung tại biên giới, chuẩn bị khai chiến. Không ngờ ngay sau đó, lại nhận được thư của cao tăng Huyền Trang của Đại Đường, hy vọng hai nước có thể thông cảm cho nỗi khổ của sinh linh, có thể ngộ ra sự từ bi của Phật, giải quyết tranh chấp của hai nước bằng cách hòa bình. Lại mời Yên Kỳ phái sứ giả đến Cao Xương gặp nhau trò chuyện, cùng tìm cách giải quyết.

Yên Kỳ cũng là Phật quốc, tuy rằng luôn tin vào Phật giáo, nhưng cũng không thể không thận trọng lo lắng trước đề nghị của Huyền Trang, bởi Long Đột Kỵ Chi vẫn luôn mong có được sự ủng hộ của Đại Đường, có được sự lượng thứ của Huyền Trang là quan trọng nhất. Bởi thế Long Đột Kỵ Chi mới nén tính khí nóng nảy của mình xuống, không để hai nước nổ ra chiến tranh ở biên giới, thế nhưng lại ngông nghênh tự mình thống lĩnh sứ đoàn đi tới vương thành Cao Xương.

Nhưng điều mà Long Đột Kỵ Chi không nghĩ tới, tại bữa quốc yến vương cung này, kẻ không nên đến đều đến, người duy nhất nên đến thì lại không đến. Hắn nhìn quanh trái phải, nhìn trước nhìn sau, thế nào cũng không thấy tăng nhân đầu trọc nào.

Long Đột Kỵ Chi lúc này vẫn còn chút giận giữ, chất vấn Khúc Văn Thái: “Bệ hạ, xin hỏi cao tăng Đại Đường ở đâu?”.

Khúc Văn Thái buồn rầu một ngày một đêm, không ngờ vẫn không tránh khỏi, đành phải nói dối: “À, Huyền Trang đại sư hôm qua đi tới thành Giao Hà. Sao vậy? Người không gặp ngài sao?”.

Long Đột Kỵ Chi sửng sốt: “Thành Giao Hà? Không! Đại sư đi tới thành Giao Hà làm gì, không phải muốn tới chủ trì công đạo cho Yên Kỳ ta hay sao?”.

Ai nói là chủ trì công đạo cho ngươi? Cao Xương ta mới chịu oan khuất đây! Khúc Văn Thái thầm mắng, nhưng trên mặt lại vẫn ấm áp ôn hòa: “Ha ha, đại sư chính là phật tử của nhân gian, thiền cơ của ngài, những kẻ phàm tục như chúng ta làm sao có thể đoán ra? Lại đây lại đây, hãy để cho bổn vương được tiếp đón bệ hạ. Bệ hạ là bậc thầy thưởng rượu, thử xem rượu nho của Cao Xương ta có gì đổi mới không!”.

Long Đột Kỵ Chi làm gì còn tâm tình uống rượu, nhưng cũng miễn cưỡng uống vài chén, trong lòng có chút hoài nghi, làm sao có chuyện mời khách đến, mà người mời lại có thể không lộ mặt? Chuyện này khẳng định có âm mưu! Trong lòng hắn dâng lên một nỗi bất an mãnh liệt.

“Bệ hạ!” Long Đột Kỵ Chi buông chén rượu nho xuống, “Nếu cao tăng Đại Đường không ở đây, trong lòng ta có vài điều muốn nói thẳng, Cao Xương các ngài năm lần bảy lượt làm nhục Yên Kỳ ta, chuyện này tính toán thế nào đây?”.

Khúc Văn Thái kinh ngạc: “Long vương, chúng ta là hai nước láng giềng hoà thuận, Cao Xương ta sao lại có thể năm lần bảy lượt làm nhục ngài?”.

“Hừ!” Long Đột Kỵ Chi lạnh lùng nói: “Một tháng trước, là ai ở sa mạc Mạc Hạ Diên chặn giết sứ giả nước ta?”.

Khúc Văn Thái càng tỏ ra kinh ngạc: “Sa mạc Mạc Hạ Diên? Long Vương, sa mạc Mạc Hạ Diên kia không nằm trong Cao Xương ta, sứ giả của các ngài bị giết tại nơi đó, hoặc là đi tìm quốc vương Y Ngô, hoặc là đi tìm hoàng đế Đại Đường, ngài tìm bổn vương làm chi?”.

Long Đột Kỵ Chi giận dữ, nhìn sang Khúc Đức Dũng đang đứng một bên, Khúc Đức Dũng làm như không nhìn thấy: “Bệ hạ, việc người đang làm, trời đất có thể chứng giám. Nếu ngài đã mời ta đến đây, mà không có chút thành ý nào, làm sao có thể nói chuyện được?”.

“Long vương!” Khúc Văn Thái không tức giận chút nào, thản nhiên nói, “Sự nghiệp bang giao hai nước, chặn giết sứ giả nước khác chính là trọng tội đáng lên án. Nếu ngài có chứng cớ, việc kiện cáo này cho dù có đưa tới vương đình Đột Quyết, bổn vương cũng sẽ tháp tùng, nhưng nếu không có chứng cớ, như vậy là ngài đang sỉ nhục bổn vương, Cao Xương ta sẽ tranh luận với ngài đến cùng!”.

Long Đột Kỵ Chi quả thật không có chứng cớ, chứng cớ thực sự hắn cũng không dùng đến, chặn giết sứ giả không khác gì tuyên chiến, cứ thế đánh nhau là được. Hắn chỉ không ngờ da mặt của lão già Khúc Văn Thái này lại dày như vậy. Nhưng từ lời nói của Khúc Văn Thái, hắn có thể nghe ra, Cao Xương căn bản không có thành ý muốn giải quyết. Vậy bọn họ mời ta đến làm gì?

Long Đột Kỵ Chi càng lúc càng cảm thấy bất an, đành ổn định lại tâm trạng, cười lạnh nói: “Việc chặn giết sứ giả chúng ta tất nhiên có chứng cớ, nhưng vì muốn giữ thể diện cho ngài, không tiện công bố mà thôi. Việc này tạm thời không đề cập tới, còn chuyện Sương Nguyệt Chi bị bắt, không biết ngài định nói thế nào đây?”.

Khúc Văn Thái vô cùng phiền não: “Việc này bổn vương đã giải thích kỹ càng trong quốc thư rồi, nhưng cho dù như thế nào, đây cũng là lỗi của Cao Xương ta, bổn vương nhất định sẽ trả lại công chúa, nghiêm trị nghiệt tử. Long vương thấy thế nào?”.

“Đây là thành ý của ngài sao?” Long Đột Ky Chi giận tím mặt, “Trưởng nữ của ngài gả cho trưởng tử Đát Độ Thiết của Khả hãn Thống Diệp Hộ, nếu như trước khi nàng ta xuất giá, hài tử nhà ta lại bắt nàng đi, giấu ở trong vương cung hơn tháng, ngài đến đòi người, ta nói với ngài, chúng ta sẽ trả lại công chúa, nghiêm trị nghiệt tử. Ngài có đồng ý không?”.

Khúc Văn Thái còn chưa kịp nói, Khúc Đức Dũng giận tím mặt, gầm lên: “To gan! Hỗn xược!”.

Vương cung Tây Vực không cấm mang theo đao, một vài trọng thần hấp tấp nóng nảy rút thanh đao mang theo người ra. Long Đột Kỵ Chi cười lạnh: “Người xem, ta chỉ vừa nói như vậy, các ngươi liền nổi giận không nhịn được, rút đao khiêu chiến…” Ông ta ném mạnh chén rượu xuống mặt đất, giận dữ hét lên, “Việc Cao Xương các người muốn làm đã rõ rành rành ra đó rồi đấy thôi!”.

Chén rượu vừa rơi xuống đất, liền làm chấn động tinh thần của tất cả mọi người, tình hình trong cung điện lập tức trở nên rối loạn, túc vệ của vương cung Cao Xương đều rút đao ra, theo bốn phương tám hướng ào ào lao đến, vây quanh chính điện. Người Yên Kỳ cũng không chịu yếu thế, nhóm Long kỵ sĩ vọt vào đại điện bảo vệ sứ đoàn, một vài sứ giả nóng nảy tức giận đạp đổ chiếc bàn nhỏ trước mặt, rút đao ở thắt lưng ra. Long Đột Kỵ Chi ngồi ngay ngắn bất động, lúc này ông ta thật trầm tĩnh, khuôn mặt mang nụ cười lạnh lẽo, vẫn ung dung rót cho chính mình một chén rượu nho.

Khúc Văn Thái giận tím mặt, đập mạnh lên bàn, quát: “Còn ra thể thống gì nữa! Các ngươi lui ra cho bổn vương!”.

Khúc Đức Dũng vừa thấy phụ vương nổi giận, vội vàng cho đám túc vệ lui về, thế cục trong đại điện cũng dịu xuống, đám người nhìn nhau đầy căm tức, lục tục ngồi xuống. Khúc Văn Thái hỏi: “Long vương, vậy theo ngài, chuyện này giải quyết thế nào?”.

“Thả Sương Nguyệt Chi ra, Khúc Trí Thịnh giao cho Yên Kỳ ta xử trí!” Long Đột Kỵ Chi lạnh lùng nói, “Ngoài ra, Con đường Tơ lụa dịch chuyển về phía nam, dọc thành Giao Hà theo hướng nam đến thẳng vương thành Yên Kỳ!”.

Khúc Văn Thái rốt cục không nhịn nổi cơn tức, cười lạnh: “Thật là tham lam! Bồi thường cho một nữ nhi mà muốn đổi lấy một Con đường Tơ lụa! Bổn vương không ngại nói cho ngài, lúc này công chúa ở ngay trong hậu cung, nếu ngài muốn thì cứ đến đón nàng ta đi! Tên nghiệt tử kia bổn vương tất nhiên sẽ xử trí, nhưng xử trí như thế nào không tới phiên người Yên Kỳ các ngài lên tiếng. Con đường Tơ lụa không thể dịch chuyển về phía nam, liên quân ba nước các ngài nếu có thể tiêu diệt Cao Xương ta thì cứ việc đánh chiếm tất cả mọi thứ mà Khúc Văn Thái ta sở hữu. Không thắng được trên chiến trường, hết thảy đều chỉ là nói suông mà thôi!”.

Nói xong, hắn nổi giận đùng đùng đứng lên rời khỏi đại điện. Long Đột Kỵ Chi thừa biết Khúc Văn Thái không có khả năng đáp ứng điều kiện này, cũng không hề bất ngờ, chỉ cười lạnh một tiếng, một cước đạp đổ mấy chiếc bàn, mang theo sứ đoàn nghênh ngang bước đi.

Cuộc thương lượng vừa bắt đầu đã vỡ tan.

°°°

Bên trong tẩm cung, vương phi dường như rơi vào hồi ức xa xăm: “Nhà mẹ đẻ ta họ Vũ Văn, đại sư nhất định từng nghe đến tên tuổi dòng họ này rồi.”

Huyền Trang tất nhiên có từng nghe qua. Từ thời kỳ Nam Bắc triều cho tới Tùy Đường, đây là dòng họ hiển hách số một, là quốc tính của Bắc Chu. Tới triều nhà Tùy, Vũ Văn Thuật đều được hai đời Tùy Văn Đế và Tùy Dạng Đế tin yêu, quyền lực của gia tộc Vũ Văn khuynh đảo cả triều đình và dân chúng. Năm Đại Nghiệp thứ mười bốn, Vũ Văn Hóa Cập - nhi tử của Vũ Văn Thuật giết chết Tùy Dạng Đế, có thể nói triều nhà Tùy mất trong tay của dòng họ Vũ Văn.

“Ta là một chi của tướng quân trụ quốc nhà Chu - Vũ Văn Khánh, nguyên quán Lạc Dương, khuê danh Ngọc Ba. Có thể nói là cùng quê với đại sư”, vương phi nói một cách yếu ớt, “Năm Đại Nghiệp thứ tư, Văn Thái cùng tiên vương tới Trương Dịch yết kiến Dạng Đế, theo hoàng đế vào Trường An, lại theo ngài đi viễn chinh Cao Ly. Dạng Đế cực kỳ yêu thích Văn Thái, cật lực lôi kéo hắn, hy vọng có thể mở ra con đường thông qua Tây Vực. Năm Đại Nghiệp thứ tám, thậm chí còn sắc phong ta là Hoa Dung công chúa, gả cho Văn Thái. Sau khi thành hôn, ta theo Văn Thái đi tới Cao Xương, ta nói gì Văn Thái cũng đều nghe lời, dưới sự khuyên bảo của ta, khởi xướng cải cách Hán hóa. Không ngờ khi thực hiện chưa đến một năm, liền kích động chính biến, cả nhà phải trốn đến Đột Quyết lưu vong, lang bạt kỳ hồ, mãi đến sáu năm sau, mới bình định phản loạn, trở lại Cao Xương”.

Vũ Văn vương phi nước mắt chầm chậm chảy xuống, thấp giọng ngâm nga: “Ngô gia giá ngã hề thiên nhất phương, viễn thác dị quốc hề Ô Tôn vương. Khung lô vi thất hề chiên vi tường, dĩ nhục vi lương hề lạc vi tương. Cư thường thổ tư hề tâm nội thương, nguyện vi hoàng hộc hề quy cố hương.”[90]

Huyền Trang im lặng nghe, trong lòng ngài cảm thấy thật thê lương. Huyền Trang vốn tinh thông Nho học, đương nhiên nghe hiểu, bài hát nàng ta đang hát là bài “Hoàng Hộc ca[91]” của công chúa Tế Quân triều Tây Hán. Công chúa Tế Quân thân thế thê lương, là vị công chúa đầu tiên của triều Tây Hán được đưa đi hoà thân. Nàng là con gái của Hán Giang Đô vương Lưu Kiến, khi còn nhỏ, Lưu Kiên mưu phản bất thành nên tự sát, mẫu thân nàng bị liên đới nên phải chịu tội chém đầu. Sau khi lớn lên, Hán Vũ Đế muốn liên hợp với nước Ô Tôn[92] để chống lại Hung Nô nên phong nàng làm công chúa, gả cho quốc vương Ô Tôn là Côn Mạc. Côn Mạc khi ấy đã lớn tuổi, chỉ hai năm sau đã qua đời, cháu trai hắn là Sầm Tâu lên nối nghiệp. Tập tục ở Ô Tôn là chế độ hôn nhân thừa kế, tức là Sầm Tâu sẽ thừa hưởng tất cả thê thiếp của Côn Mạc. Công chúa Tế Quân không thể chấp nhận sự việc như thế, nàng yêu cầu Hán Vũ đế cho mình về nước. Hán Vũ đế không đồng ý, ra lệnh cho nàng phải gả cho Sầm Tâu, Tế Quân đành phải tái giá. Một năm sau, nàng chết vì quá đau buồn.

“Công chúa Giải Ưu nhà Hán, Vương Chiêu Quân, công chúa An Nghĩa nhà Tuỳ, công chúa Nghĩa Thành, còn cả ta nữa! Ha ha ha ha…” Vũ Văn vương phi cười lớn: “Còn đòi làm cường Hán, đại Tuỳ, tất cả đều là lũ nhu nhược! Thanh danh hiển hách của bọn chúng, giang sơn gấm vóc của bọn chúng, không phải đều là dùng những nữ tử mềm yếu như ta để đổi lấy sao?”.

Huyền Trang không biết nên trả lời ra sao, thở dài: “Vương phi, tiền Tuỳ đã mất, sứ mệnh của người cũng kết thúc rồi. Bần tăng thấy quốc vương bệ hạ cũng rất sủng ái người, sao người không hưởng thụ tình yêu nhân thế, tình nghĩa vợ chồng?”.

“Hắn tốt với ta sao?” vương phi Vũ Văn cười thê lương: “Đúng là hắn tốt với ta lắm! Trong mắt đại sư, Văn Thái là dạng người gì?”.

Huyền Trang không hiểu tại sao nàng lại hỏi điều này, ngẫm nghĩ nói: “Bệ hạ tính tình trầm ổn, nhân nghĩa từ bi, ban nhân đức đi khắp đất nước, bá tánh ấm no hoà thuận vui vẻ”.

Vương phi Vũ Văn dùng ánh mắt trào phúng nhìn ngài: “Đó là Khúc Văn Thái trong mắt đại sư ngài đúng không? Nhưng không phải là Khúc Văn Thái trong mắt ta”. Nói xong, vương phi kéo quần áo trên người mình xuống, sống lưng trần trụi phơi bày trước mắt Huyền Trang.

Huyền Trang hoảng hốt, vội vàng xoay người đi, nhưng trong giây phút ấy, lòng ngài cảm thấy thật nặng nề. Trên cánh tay trắng ngần của vương phi và trên sống lưng, không ngờ chỗ nào cũng có những vết thâm xanh đen và vết roi đan xen ngang dọc lẫn nhau.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang lạnh lùng nói: “Xin vương phi tự trọng!”.

Vũ Văn vương phi cười to, từ tốn mặc quần áo lại, nói một cách trào phúng: “Đại sư, ngài nhìn thấy rõ chưa? Những vết roi, những vết tím xanh đó đều là những vết thương do hắn thượng cẳng chân hạ cẳng tay đối xử với ta đó. Đây chính là Khúc Văn Thái nhân nghĩa từ bi trong mắt ngài! Là Khúc Văn Thái cả đời xây chùa, bố thí tăng lữ được ngài ca tụng là nhân đức hiền lành đó!”.

Huyền Trang không thể tin được: “Những vết thương này… là do quốc vương ra tay đánh người sao?”.

Việc này khiến người ta phải kinh sợ, ngay cả A Thuật đang đứng một bên cũng vô cùng giật mình. Vương phi của một quốc gia là thân phận gì? Nàng chính là đại diện cho thể diện của một quốc gia, lại bị người ta khuất nhục đến độ như thế. Một khi việc này bị truyền ra sẽ khiến cả nước phải ồ lên, các nước trong Tây Vực phải khiếp sợ.

“Đại sư cho rằng còn ai dám động đến một đầu ngón tay của vương phi ta nữa?” Vũ Văn vương phi lạnh lùng nói: “Khúc Văn Thái thực ra chỉ là một tên nhu nhược, một tên ngụy quân tử, một tên cuồng ngược đãi! Hắn kính Phật, bái Phật, nịnh Phật, hộ Phật chỉ để dựng lên cái mặt nạ dối trá cho bản thân, che đi nội tâm ngoan độc tàn bạo. Năm đó lúc bình định phản loạn, chỉ trong một ngày hắn chém hết cửu tộc của sáu mươi tên phản loạn, hơn ba nghìn đầu người rơi xuống đất, từ ông lão tám mươi tới đứa trẻ còn đang bú sữa, không tha một ai! Hắn mạnh mẽ nhưng cũng yếu đuối, từ bi mà lại tàn bạo, kiên định rồi lại trở mặt nhanh như chớp. Đối với mỗi người hắn mang một gương mặt khác nhau. Trong mắt đại sư, hắn là vua hiền. Trong mắt ta hắn là tên cuồng ngược đãi. Trong mắt đại hoàng tử là người lạnh lùng hung ác, nhị hoàng tử thấy hắn là người thất tín bội nghĩa, tam hoàng tử chỉ thấy hắn lạnh nhạt vô tình. Trong mắt đại thần hắn là kẻ buồn vui thất thường. Mà bá tánh lại thấy hắn từ bi nhân nghĩa… Đại sư, ngài tưởng tượng xem ta gả cho hắn mười tám năm, đã phải trải qua cuộc sống như thế nào?”.

Huyền Trang sợ đến ngây người. Vạt áo của Vũ Văn vương phi còn chưa chỉnh lại cẩn thận, mơ hồ lộ ra vết roi nâu nhạt. Huyền Trang không thể tưởng tượng nổi vị quốc vương luôn cung kính với ngài, sùng kính Phật pháp như vậy lại có thể tàn nhẫn vung roi đánh lên thê tử của mình.

“Vương phi đầu tiên của Khúc Văn Thái là người Đột Quyết, là mẫu thân của Khúc Nhân Thư và Khúc Đức Dũng, bà ta mất sớm. Sau đó hắn cưới một công chúa người Áp Đạt, đó là mẫu thân của Khúc Trí Thịnh. Hai mươi năm trước, vị công chúa Áp Đạt này cũng đã chết, người Đột Quyết muốn hắn cưới thêm một cô gái Đột Quyết nữa về làm vợ. Nhưng Khúc Văn Thái là thái tử Cao Xương, cực kỳ tự phụ, phẫn nộ trước sự áp bức bóc lột của người Đột Quyết, muốn thoát khỏi Đột Quyết, liền đến nương nhờ Đại Tuỳ, vì thế đã xin Dạng Đế tứ hôn cho hắn cưới ta”, Vũ Văn vương phi thản nhiên nói.

“Dạng Đế đã sớm ra quyết định, tuy hắn thích bày vẽ, nhưng cũng rất thực tế. Ta cũng được, công chúa An Nghĩa hay công chúa Nghĩa Thành cũng thế. Mỗi một công chúa hoà thân đều mang trong mình sứ mệnh nặng nề, ảnh hưởng đến hoàng tộc, đến triều đình. Năm thứ nhất, hai người chúng ta cùng chung chí hướng, tình cảm hoà thuận, hắn đối đãi với ta rất tốt, ta vẫn luôn nghĩ rằng mình như vậy là tìm được tình yêu đích thực ở nơi tha hương dị quốc. Ta tốn bao nhiêu công sức giúp hắn thay đổi chế độ Hán hoá, thậm chí còn vận dụng quan hệ của gia tộc Vũ Văn để giúp Cao Xương. Nhưng tiếc thay, hắn thúc đẩy việc thay đổi quy chế quá thô bạo, lúc này ta đã đứng trên lập trường của Cao Xương để suy nghĩ vấn đề, khuyên hắn nhiều lần đừng nóng vội nhưng hắn không nghe, cuối cùng lại khơi ngòi cho đám phản loạn. Một nhà chúng ta khốn khổ đào vong trốn sang Đột Quyết…”

Huyền Trang và A Thuật yên lặng lắng nghe, trong đại điện yên tĩnh không một tiếng động, ao nước nóng bắn lên vài bọt khí, bốn thị nữ nhìn qua có vẻ là tâm phúc của vương phi, nghe nàng kể lại chuyện cũ, mắt họ đều ngân ngấn lệ. Một thị nữ lớn tuổi trong đám đó nhẹ nhàng đi qua, vỗ lưng vương phi, dịu dàng nói: “Công chúa, không cần nói nữa. Nỗi khổ của người chắc đại sư cũng thấu hiểu”.

Vũ Văn vương phi lắc đầu than nhẹ: “Phật nói, trên đời này có tám nỗi khổ: sinh, lão, bệnh, tử, oán ghét mà phải cận kề, yêu mà phải li biệt, cầu không được, phiền não. Nhưng có nỗi khổ nào bằng được nỗi khổ của công chúa phải đi hoà thân không? Đặc biệt là công chúa hoà thân của vong quốc. Năm ấy, chúng ta lưu vong đến Đột Quyết, nhận hết tủi nhục. Khúc Văn Thái cầu xin ta đi xin cứu viện từ hoàng đế nhà Tùy, giúp hắn phục quốc. Nhưng ngài biết không, đầu tiên là Dương Huyền Cảm tạo phản, còn chinh phạt Cao Ly lần thứ ba thất bại, các phiên vương lũ lượt tạo phản. Bệ hạ tuần du Nhạn Môn quan, suýt bị người Đột Quyết bắt đi, bản thân hắn là ốc còn không mang nổi mình ốc, hơi sức đâu mà lo cho một công chúa hoà thân? Sau đó là đại loạn Tuỳ mạt, cả phương bắc trừ Trường An ra, tất cả đều rơi vào tay phản quân, bản thân Tùy đế cũng chạy tới Giang Đô. Năm Đại Nghiệp thứ mười ba, sau khi Tiết Cử tạo phản ở Lũng Hữu, tin tức giữa ta và triều đình bị cắt đứt. Những năm ấy, chúng ta phải chịu đựng thế nào chứ. Sự kiêu ngạo và tự phụ của Khúc Văn Thái bị đả kích mạnh mẽ, tính tình ngày càng bất thường, hắn cho rằng ta là nữ nhân mang điềm xấu, ngày ngày đánh mắng, lăng nhục ta. Hắn túm tóc ta, tát ta, dùng đũa sắt nung nóng, lấy nước đá tạt ta giữa trời băng đất tuyết, khiến ta suýt chết cóng, có lần hắn còn ấn đầu ta xuống hồ nước… Sau khi Đại Tuỳ mất nước, hắn hoàn toàn hết hy vọng nơi ta, để cầu Đột Quyết tha thứ, hắn thậm chí còn đưa ta lên giường của quý tộc Đột Quyết…”

Nàng cười thê lương: “Đại sư, tám nỗi khổ của đời người, có cái nào so được với ta chăng?”.

Đám thị nữ quỳ rạp xuống đất khóc oà, vương phi lạnh lùng quát: “Khóc cái gì mà khóc? Lau hết nước mắt cho ta, chờ sau này ta chết, còn có ai vì ta mà khóc?”.

“Thế nên, người nuôi dưỡng lưu dân, ý đồ dấy lên phản loạn, giết chết Khúc Văn Thái?” Huyền Trang thở dài.

“Giết hắn?” vương phi ngạo nghễ: “Nếu ta muốn giết hắn, chỉ một ly rượu độc là đưa hắn xuống địa ngục rồi. Việc ta làm, chính là sứ mệnh mà hoàng đế và phụ thân của cái đất nước không trông cậy gì được kia giao cho ta. Đại Tuỳ đã mất, nhưng công chúa của nó vẫn còn sống, con dân tha hương của nó vẫn còn người để dựa vào. Vốn ban đầu Tiết tiên sinh và những lưu dân kia được công chúa Nghĩa Thành đang ở Đột Quyết che chở. Không chỉ có lưu dân, công chúa Nghĩa Thành còn đón cả Tiêu hoàng hậu của Dạng Đế đến Đột Quyết. Đem đứa con mồ côi từ trong bụng mẹ là Dương Chính của Tề vương Dương Lượng lập lên làm Tuỳ vương, giao hơn vạn lưu dân cho Dương Chính để thành lập triều đình. Nàng ta còn cổ động Khả hãn và Hiệt Lợi Khả hãn tấn công Lý Đường mấy lần. Chẳng qua mấy năm trước Lý Đường toan tính thâu tóm Đột Quyết, nàng ta sống khó khăn hơn nên mới kêu đám Tiết tiên sinh sang nương nhờ ta”.

Huyền Trang không tán thành hành vi của nàng, khuyên nhủ: “Vương phi, Tuỳ Mạt loạn thế mười bảy năm, bây giờ lòng người đã định, quốc lực Đại Đường khôi phục, không ngừng phát triển, tội gì phải đi thu nạp lưu dân, đối địch với Đại Đường chứ? Dù sao nơi đó vẫn là cố hương của ngài”.

“Đại sư, không phải ta muốn gây lên chiến loạn”, vương phi thất thần: “Nghĩ đến những công chúa vong quốc như chúng ta, không còn nơi nương tựa trên đời. Nhìn thấy những nạn dân lưu vong của nhà Tùy đó như thấy thân nhân của chính mình vậy. Nếu ta có thể dựng lên cơ đồ cho họ ở Cao Xương, bắt ta làm gì ta cũng nguyện ý”.

Huyền Trang cười khổ: “Một bước sai, sai toàn bộ. Bần tăng vẫn cho rằng người bắt cóc mình là Long Sương Nguyệt Chi, những lưu dân đó cũng do nàng ta nuôi dưỡng, không ngờ sự tình lại chuyển hướng đột ngột như thế này”.

Vương phi Vũ Văn cười khanh khách: “Đại sư luôn biết trước thiên cơ, sao lại sảy chân ở việc này?”.

“Tại vì… tại vì…” Huyền Trang cười khổ: “Bần tăng luôn kính nể Long Sương Nguyệt Chi, thấy được phong thái nữ trung hào kiệt vung chùy cưỡi ngựa của Long Sương Nguyệt Chi, ta vẫn cứ tưởng là nàng ta. Ai ngờ vương phi lại dũng cảm như thế cơ chứ!”.

“Nữ nhi họ Vũ Văn nào có ai yếu mềm!” vương phi lạnh lùng nói.

“Đúng vậy!” Huyền Trang cũng cảm khái: “Bây giờ bần tăng mới hiểu được, vương phi đã có tâm mưu phản từ lâu, âm thầm nuôi dưỡng lưu dân. Long Sương Nguyệt Chi kia cũng mưu mô sâu hiểm không lường được, không ngờ lại âm thầm trốn tránh, cố ý dẫn vương phi tới bắt cóc bần tăng, khơi lên sóng gió ở Cao Xương, để trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi. Tuy bần tăng đã nhận lời đánh cuộc cùng nàng ta, nhưng ván cờ này còn chưa bắt đầu, ta đã thua một bậc”.

Vũ Văn vương phi thấy Huyền Trang tôn sùng Long Sương Nguyệt Chi như thế, hiển nhiên thấy không thoải mái, hừ một tiếng: “Yêu nữ kia cũng xứng để sai khiến ta sao? Ngày ấy ngài đến thành Giao Hà, nàng ta tới gặp ta, cố ý vừa dụ vừa khuyên ta ra tay, ta cũng chỉ muốn mượn sức nàng ta để chuyển hướng mục tiêu của người khác, vậy nên mới cố ý làm theo nàng ta. Huống chi cướp ngài đi chỉ có trăm lợi mà không có hại”.

Huyền Trang suy nghĩ: “Bây giờ xem ra vương phi cố ý muốn Cao Xương rung chuyển, hai vị hoàng tử đoạt ngôi, từ đó ngài lợi dụng lưu dân khống chế thời cuộc sao?”.

Vương phi cười thật xinh đẹp: “Đại sư là người thông minh. Đúng vậy, ta muốn làm cho Khúc Văn Thái chỉ còn hai bàn tay trắng, để hắn cô độc ngồi trên vương tọa, không còn chỗ dựa giữa Tây Vực này, đưa mắt nhìn ra sa mạc mênh mông, giống như một công chúa vong quốc đi hoà thân”.

Huyền Trang còn định nói thêm, đột nhiên một tỳ nữ hốt hoảng chạy vào: “Vương phi, bệ hạ trở lại. Ngài… tâm trạng ngài ấy có vẻ không tốt”.

Cơ thể vương phi run nhẹ, gai ốc gợn nổi trên làn da trắng muốt của nàng ta.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang nói: “Nếu vương phi đã nói ra việc cơ mật như thế, vậy chắc sẽ không để bần tăng rời đi?”.

Vương phi cười cười: “Đại sư, ngài cứ ở đây mấy ngày đi. Bao giờ sóng yên biển lặng ta lập tức thả ngài đi”.

Huyền Trang cười khổ: “Bần tăng chỉ là một tăng nhân, sao có thể ở trong hậu cung của vương phi được”.

Vương phi liếc xéo ngài: “Nơi này chỉ có một cánh cửa, nếu ngài dám đi ra ngoài, bổn cung liền cởi hết quần áo, khóc tâu với Khúc Văn Thái nói là ngài muốn cưỡng gian bổn cung”.

Huyền Trang ngây người, ngài nhìn A Thuật, tựa hồ nghe không hiểu. A Thuật nghẹn đỏ cả mắt, muốn cười nhưng phải cố gắng kìm lại, nhìn vô cùng khổ sở. Chiêu này có lực sát thương quá lớn đối với Huyền Trang, ngài xuất gia lúc mười tuổi, mười ba tuổi quy y, từ nhỏ đã nghiên cứu kinh Phật. Tuy đi ngàn dặm đường, đọc vạn quyển sách, liếc mắt một cái là nhìn thấy mưu quyền, nhưng chưa từng gặp qua người phụ nữ nào vô lại đến thế, càng chưa từng gặp người nào dám lấy danh tiết bản thân ra uy hiếp mình. Trong lúc nhất thời ngài cũng không biết nên làm như thế nào mới phải.

“Sao nào, đại sư không tin à? Ngài cứ bước thử một bước ra khỏi cung điện này xem”, vương phi duỗi tay cởi quần áo, biểu tình trên mặt lại vô cùng bình tĩnh: “Ta đã không còn là người trong sạch gì, từng bị vô số quý tộc Đột Quyết xem như món hàng để chơi đùa rồi. Đại sư là Phật tử nhân gian, thanh tịnh như sen trắng. Bị người ta sỉ nhục là tằng tịu cùng ngài cũng xem như một phần phúc phận của ta!”.

“A Di Đà Phật…!” Huyền Trang cảm thấy thật bất đắc dĩ, nhớ năm ấy mười tám tầng địa ngục Nê Lê của Thôi Giác ngài cũng qua lại như không, đến mưu tăng Pháp Nhã cũng bó tay với ngài. Bây giờ đụng phải vị vương phi này, ngài lại chẳng có cách nào chống đỡ cả.

Vương phi cười dài, trong tiếng cười lại ẩn chứa nỗi niềm thê lương không kể xiết. Nàng đứng dậy từ đệm dựa, uyển chuyển bước đi, rời khỏi phòng tắm. Áo dài trắng như tuyết, thoạt nhìn tựa như một đoá sen héo tàn.

Chú Thích

[90] Tạm dịch nghĩa: Nhà gả ta tới phương trời xa, tới vùng dị quốc vua Ô Tôn cai trị. Lều vải thay nhà, tường là chăn dạ, lấy thịt thay cơm, sữa dùng thay nước. Ở nơi này thường đau lòng tưởng nhớ, muốn làm cánh hạc tìm về lại cố hương.

[91] Bài thơ còn có tên khác là Bi sầu ca.

[92] Một dân tộc ở tây bắc cổ đại. Đầu thế kỷ thứ II, Ô Tôn và Nguyệt Thị sống du mục ở vùng nay là Đôn Hoàng, Cam Túc, Kỳ Liên, phía bắc tiếp cận Hung Nô.