Chương 9 Cuộc chính biến năm 629 sau Công nguyên
Vương phi đi rồi, Huyền Trang biết mình không chạy thoát được nên đành ngoan ngoãn ngồi khoanh chân trên sàn đất, tay lần tràng hạt lặng lẽ tụng kinh. Cũng may là bên dưới phòng tắm này có suối nước nóng nên sàn nhà mới không bị lạnh. Trái lại, A Thuật lại rất thích suối nước nóng này, cậu vẫn còn nhỏ, vả lại cũng không quan tâm đến hai thị nữ ở bên cạnh, thấy Huyền Trang vẫn nhắm mắt nên cậu liền cởi sạch quần áo trên người rồi lao xuống hồ tắm ngụp lặn trong đó.
Huyền Trang kinh ngạc mở mắt ra nhưng không kịp ngăn A Thuật lại nữa rồi. Hai thị nữ cũng không ngăn cản cậu bé, có vẻ như việc nhìn cậu bơi qua bơi lại cũng khiến họ thấy vô cùng thích thú.
Vương cung Cao Xương khá nhỏ, phòng tắm và tẩm cung rất gần nhau, tiếng vương phi nói chuyện với Khúc Văn Thái mơ hồ vọng tới. Chỉ nghe thấy vương phi nói: “Bệ hạ, chuyện đàm phán với Long Đột Kỵ Chi không được ổn thỏa sao?”.
“Hừ!” Khúc Văn Thái không đáp, rồi bỗng nhiên lại nghe thấy tiếng chén đĩa rơi xuống đất loảng xoảng, ông ta lớn tiếng quát: “Chén trà này sao lại bỏ nhiều muối thế? Định bỏ muối mặn để giết ta hả?”.
Vương phi không nói gì sau đó đột nhiên hét lên một tiếng thảm thiết, chỉ nghe thấy tiếng gốm sứ vỡ vụn kêu rắc rắc, dường như có thứ gì đó rất nặng đang giẫm lên những mảnh sứ. Khúc Văn Thái cười gằn nói: “Trên người nàng sao lại thơm đến vậy? Lại định đi quyến rũ đàn ông sao?”.
“Bệ hạ…” vương phi giận dữ gào lên một tiếng.
“Chẳng lẽ còn không phải sao?” Khúc Văn Thái gầm lên, ngay sau đó là tiếng người ngã phịch xuống đất: “Nếu không phải vì thể diện của Cao Xương, bổn vương quả thật hận không thể rạch nát gương mặt này của nàng’”.
“Trong mắt bệ hạ, gương mặt này của thiếp từ lâu đã trở nên nhơ nhuốc đến mức không thể chấp nhận được nữa rồi.” Giọng nói của vương phi rất kỳ lạ, tựa như từ mặt đất truyền đến nên có chút đè nén, nhả chữ không mấy rõ ràng: “Nếu bệ hạ không vừa lòng, cứ việc rạch mặt thiếp cho xong”.
Trong lòng Huyền Trang thương hại không thôi, những lời Vũ Văn vương phi từng nói quả nhiên là không hề khoa trương một chút nào. Khi mới gặp, lòng sùng mộ ngoan đạo, khoan dung và nhân từ của Khúc Văn Thái quả thực khiến Huyền Trang rất mực cảm động. Nhưng một người tín Phật thì chắc chắn sẽ là người lương thiện sao? Phật nói: Vạn sự trên thế gian là như nhau, đều là hư vọng. Mà Huyền Trang nào có thiên nhãn có thể nhìn thấu chúng sinh chứ!
Thấy ngài có ý định đứng lên, hai người thị nữ liền lập tức bước lên, thấp giọng nói: “Xin đại sư thứ lỗi, nếu ngài ra khỏi đây, chúng nô tỳ đành phải tự xé quần áo trên người”.
Huyền Trang không nói thêm lời nào nữa.
Đúng lúc này, Khúc Văn Thái trong tẩm cung bỗng gầm lên đầy hoảng hốt: “Điên rồi! Nàng điên rồi!”.
Vương phi lớn tiếng cười thảm, la lên: “Phật giảng: ‘Cũng như sen nở chốn bùn nhơ, nhưng vẫn thanh tịnh không nhiễm uế tạp. Ta cũng sinh ra và lớn lên trên đời, chinh phục đời mà chẳng bị bụi đời nhiễm bẩn. Ta chính là Phật tại thế!’ Ha ha, không một ai có thể vấy bẩn ta được nữa rồi!”.
“Mụ điên!” Khúc Văn Thái giận dữ gầm lên một tiếng rồi một tiếng “bịch” nặng nề vang lên, ngỡ như tiếng một bàn chân hung hăng đạp mạnh xuống thân người nằm trên mặt đất. Ngay sau đó liền truyền đến tiếng bước chân hoảng loạn, gấp gáp bỏ đi.
Huyền Trang đột nhiên đứng dậy, hai thị nữ vẫn hết lòng tận tâm với công việc, nhìn chằm chằm ngài đầy cảnh giác, tay vẫn nắm lấy vạt áo. Huyền Trang vội vàng lên tiếng: “Vương phi hình như đã xảy ra chuyện không hay rồi, hai ngươi mau đi xem thế nào!”.
“Không cần phải đi xem nữa…” Hai thị nữ còn đang lưỡng lự chưa biết có nên đi hay không thì tấm rèm che đã bị người khác chậm rãi vén lên. Vương phi đầu tóc rối bời bước vào, cả người nàng toàn vệt máu tươi, máu me trên mặt ướt đầm, nàng vừa bước một bước thì chợt ho ra một ngụm máu rồi ngã nhào xuống đất.
Huyền Trang nhào tới đỡ lấy nàng, trong lòng chợt nặng trĩu. Vương phi cười rất thảm thương, bên má trái của nàng lại có một vết thương khá sâu, kéo từ xương gò má đến khóe miệng, cả người trở nên hốc hác không còn ra dạng người!
Tay nàng cũng chằng chịt vết thương, khắp cánh tay mảnh khảnh và trên cả những ngón tay thon gầy đều găm đầy những mảnh sứ vỡ. Vạt áo trắng tinh trước ngực còn in một dấu chân ướt nhẹp.
“Vương phi…”, nước mắt Huyền Trang lã chã tuôn rơi.
Vương phi gượng cười: “Đại sư, ngài là người bên nhà mẹ đẻ ta, lại là đồng hương của ta, có thể gọi ta một tiếng công chúa không?”.
“Công chúa, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?” Huyền Trang chân tay lúng túng cởi áo cà sa của mình xuống. A Thuật đi tới, im lặng không lên tiếng, gỡ từng mảnh sứ ghim trong tay nàng xuống rồi băng bó cho nàng.
“Cũng không có chuyện gì”, vương phi khi nghe được một tiếng “công chúa” này dường như cảm thấy được an ủi phần nào, hờ hững đáp: “Ông ta hất chén trà xuống đất, ta cúi xuống nhặt thì ông ta giẫm lên tay của ta rồi nghiền nó xuống những mảnh sứ vỡ kia. Ha ha, đại sư, ngài không cần bận tâm, ta đã quen rồi nên cũng không cảm thấy đau”.
“Công chúa!” Hai thị nữ khóc hu hu, “Mặt của người…”.
“Là ta tự rạch bằng mảnh sứ”, vương phi bình thản nói: “Mang gương đồng lại đây!”.
“Công chúa, người vẫn là…” Huyền Trang nhìn thịt nát bấy cùng máu tươi loang lổ trên mặt nàng thì trong lòng chợt thấy khó chịu vô cùng: “Đừng nên nhìn!”.
Vương phi nhìn thị nữ nghiêm giọng quát: “Mang gương đồng tới đây!”.
Một thị nữ bật khóc, chạy như bay đi lấy gương đồng tới, đặt trước mặt nàng, vương phi nhìn dung nhan của mình trong gương đồng tới ngây dại, bỗng nhiên nở nụ cười: “Đại sư, mãi tới thời khắc này ta mới thực sự cảm thấy mình rất đẹp”.
Huyền Trang và A Thuật nhìn nhau, không khỏi có chút lo lắng, chẳng lẽ do quá đau khổ vì bị hủy đi dung nhan, khiến nàng ấy không còn bình thường nữa rồi?
Nước từ khóe mắt vương phi không ngừng tuôn rơi, nàng nức nở nói: “Đại sư, hoa sen sống trong đầm nước, ba mươi hai cánh hoa, cánh nào cũng xinh đẹp, rồi sau đó không tránh khỏi bị người ta vươn tay ra ngắt lấy mà trêu đùa trong lòng bàn tay. Nhưng nếu như nó bị nát rồi, bị tàn rồi thì sao? Nó tự do tự tại, không vướng bùn lầy, không bị ô nhơ bởi nước đầm lầy, có phải như vậy mới thực sự xinh đẹp không?”.
“Công chúa…” Huyền Trang lệ nhòa khóe mi, giọng nói nghẹn ngào nhưng lại chăm chú nhìn nàng đầy kính phục: “Người thật sự rất đẹp, tựa như nhành hoa kim bà la[93] trên tay Phật Tổ. Muôn vàn vẻ đẹp trên thế gian này cũng không đẹp bằng phong thái tao nhã của người’”.
Vương phi vui mừng mỉm cười, hơi thở lại có phần yếu đi. Huyền Trang lo lắng nhìn dấu chân trên ngực trái của nàng, một cái đạp nặng nề kia e là đã làm tổn thương tới phủ tạng của nàng rồi.
Vương phi chậm rãi nhắm hai mắt lại, trong miệng lại nỉ non: “Ngô gia giá ngã hề thiên nhất phương, viễn thác dị quốc hề Ô Tôn vương. Khung lô vi thất hề chiên vi tường, dĩ nhục vi lương hề lạc vi tương. Cư thường thổ tư hề tâm nội thương, nguyện vi hoàng hộc hề quy cố hương…”
°°°
Khúc Văn Thái vốn định trở về hậu cung giải tỏa tâm trạng, ai ngờ lại bị một màn điên khùng của vương phi làm cho khiếp sợ, ông ta vừa đi ra ngoài vừa lầm bầm chửi rủa: “Điên rồi! Điên rồi! Nữ nhân này đúng là điên thật rồi…”.
“Bệ hạ!” Mới đi chưa được bao xa thì thấy Chu Quý chạy tới.
“Gào cái gì!” Khúc Văn Thái gầm lên một tiếng, giận đến mức muốn đạp cho người kia một cước.
Chu Quý vội vàng quỳ xuống: “Bệ hạ, Long Đột Kỵ Chi lại tới rồi, nói là muốn đưa Sương Nguyệt Chi về nước”.
Khúc Văn Thái giật mình, nghĩ tới Khúc Trí Thịnh lập tức lại thấy đau đầu, phất tay nói: “Bảo lão tới mà tìm Khúc Trí Thịnh, lão có bản lĩnh đưa người đi, bổn vương mong còn chẳng được”.
“Nhưng…” Chu Quý mặt mày nhăn nhó, nhỏ giọng nói: “Nhưng mà tam hoàng tử đang ở trong hậu cung!”.
Khúc Văn Thái lắc đầu ngán ngẩm, ông ta thực sự bị nữ nhân điên khùng kia dọa đến lú lẫn rồi. Chu Quý nói cũng phải, hậu cung sao có thể để người Yên Kỳ bừa bãi xông vào. Khúc Văn Thái ngẫm một lát rồi nói: “Ngươi đi mời Long Đột Kỵ Chi đến đây, bổn vương đích thân dẫn hắn ta đi gặp Khúc Trí Thịnh”.
Chu Quý vâng một tiếng rồi vội vã chạy đi, Khúc Văn Thái trở về chính điện sửa sang lại dáng vẻ, lệnh cho Khúc Đức Dũng điều một trăm túc vệ tới bảo vệ cho mình. Bản thân Khúc Văn Thái cũng hơi sợ việc phải tiếp xúc với tên nghiệt tử Khúc Trí Thịnh này, ông ta không hề nghi ngờ Chiếc bình của vua Đại Vệ đáng sợ kia, nguyên nhân rất đơn giản, sau khi ông ta biết được sự kỳ lạ của chiếc bình thì cũng muốn tìm cách lập khế ước với ma quỷ, nhưng không ngờ lại bị Khúc Trí Thịnh đi trước một bước. Hôm đó, ông ta nấp trong chỗ tối, tận mắt chứng kiến một màn ma quỷ xuất hiện vô cùng khủng khiếp!
“Nếu người Yên Kỳ có thể ép tên nghiệt tử kia dùng hết ba điều ước, bổn vương chẳng phải có thể lấy được Chiếc bình của vua Đại Vệ kia rồi sao?” Ý niệm này vừa dấy lên trong đầu, tim Khúc Văn Thái lập tức liền nhảy lên thình thịch.
Một lúc sau, Chu Quý dẫn theo Long Đột Kỵ Chi tới. Long Đột Kỵ Chi lại dẫn theo mười sáu Long kỵ sĩ, trên người mang đầy đủ vũ trang tiến vào vương cung. Khúc Đức Dũng cảm thấy không vừa lòng, nói: “Phụ vương, tên Long Đột Kỵ Chi này quá vô lễ, vào hậu cung của chúng ta mà lại dẫn theo nhiều người như vậy”.
Khúc Văn Thái lạnh lùng cười: “Cứ để lão dẫn người vào. Hừ, càng nhiều càng tốt”.
Khúc Đức Dũng không hiểu suy nghĩ trong đầu phụ vương mình, nhưng cũng không dám nói nữa. Người hai nước hợp lại một chỗ, chẳng ai thèm đả động tới ai, tiếp tục đi theo Khúc Văn Thái tới hậu điện nơi Khúc Trí Thịnh sống một mình.
Cánh cổng lớn trước hậu điện của Khúc Trí Thịnh lúc này mở toang không hề có trở ngại gì. Ngày đó hắn vì nghênh đón Huyền Trang mà dỡ bỏ hàng gạch mộc, sau này cũng chưa có thời gian để lấp lại. Đám người đi vào, liền nghe thấy bên trong cung điện truyền tới tiếng cười nói, vừa nghe là biết tiếng Khúc Trí Thịnh và Sương Nguyệt Chi đang tán tỉnh ve vãn nhau. Hai người vô cùng vui vẻ, hi hi ha ha, chẳng chút kiêng dè.
Khúc Văn Thái nhìn Long Đột Kỵ Chi, mỉm cười: “Xem ra công chúa Long Sương và nhi tử của ta vô cùng tâm đầu ý hợp, có chút vui quên mất cả trời đất rồi!”.
Long Đột Kỵ Chi tất nhiên cũng nghe thấy tiếng nữ nhi nhà mình, sắc mặt liền trở nên khó coi, dẫn đầu đám người đi vào trong biệt viện. Hắn vừa bước vào liền bị phủ đầu bằng cảnh Khúc Trí Thịnh đầu đội một vỏ quả dưa, trên vạt áo dính đầy vết rượu nho, nhếch nhác chạy ra, vừa chạy vừa la lên với người trong phòng: “Sương Nguyệt Chi, nàng ăn gian…!”.
Trước mắt bỗng dưng xuất hiện nhiều người như vậy, nụ cười trên mặt Khúc Trí Thịnh lập tức tắt ngấm, hắn có chút ngạc nhiên. Hắn không nhận ra Long Đột Kỵ Chi nhưng cũng không hề thấy lạ lẫm với phục sức trên người ông ta, trong lòng bất giác cảm thấy nặng nề, hắn hành lễ với Khúc Văn Thái: “Phụ vương, những người này là ai? Sao phụ vương lại dẫn nhiều người tới như vậy?”.
Khúc Văn Thái lạnh lùng nói: “Vị này chính là quốc vương Yên Kỳ, phụ thân của Sương Nguyệt Chi. Ông ấy tới đương nhiên là để đón Sương Nguyệt Chi trở về!”.
Mặt mũi Khúc Trí Thịnh méo xệch, nhìn chằm chằm vào Long Đột Kỵ Chi bằng ánh mắt u ám. Long Sương Nguyệt Chi cảm thấy bên ngoài có gì đó không đúng liền vội vàng chạy ra, vừa nhìn thấy Long Đột Kỵ Chi liền sợ giật nảy mình, chào hỏi rất mực khuôn phép: “Sương Nguyệt Chi bái kiến phụ vương!”.
Khúc Trí Thịnh vừa nhìn thấy Sương Nguyệt Chi, nét hung ác trên gương mặt liền tan biến, hắn kéo tay nàng thành khẩn hành lễ với Long Đột Kỵ Chi: “Nhạc phụ đại nhân, Sương Nguyệt Chi sống ở đây rất vui. Con không có bắt cóc nàng như người ta đồn đại, chúng con thật lòng yêu thương nhau. Xin nhạc phụ đại nhân đừng chia rẽ chúng con”.
Long Đột Kỵ Chi suýt chút nữa thì tức muốn nổ phổi, giận dữ nói: “Ai là nhạc phụ của ngươi? Tiểu súc sinh, ngươi cướp mất ái nữ của ta, sỉ nhục Yên Kỳ của ta, ta quyết không đội trời chung với ngươi! Món nợ này chúng ta sẽ tính sau. Sương Nguyệt Chi, theo ta về!”.
Ba từ “tiểu súc sinh” này thực sự như kim châm vào tai Khúc Văn Thái, ông ta giận sôi máu nhưng không thể hiện ra, chỉ làm ra vẻ mặt lạnh lùng quan sát.
Long Đột Kỵ Chi vươn tay tóm lấy Sương Nguyệt Chi nhưng phản ứng của Khúc Trí Thịnh lại vượt ngoài sức tưởng tượng của tất cả mọi người. Hắn dùng sức níu chặt lấy Sương Nguyệt Chi, ba chân bốn cẳng chạy ù vào trong cung điện. Long Đột Kỵ Chi không ngờ tới việc Khúc Trí Thịnh sẽ cướp người bỏ chạy, tay ông ta chới với vươn ra giữa không trung, ngạc nhiên tới nỗi hồi lâu sau mới phản ứng kịp, cũng nhanh chân đuổi theo vào bên trong. Thật không ngờ Khúc Trí Thịnh sớm đã có tính toán, dứt khoát đẩy mạnh Long Sương Nguyệt Chi vào trong cung điện, trở tay đẩy cổng chính lại. Long Đột Kỵ Chi chỉ mải đuổi theo, chợt thấy cánh cổng lớn trước mắt đang xô ập về phía mình, nhất thời mất hồn mất vía, toan vội vã ngửa đầu ra sau nhưng chưa kịp tránh thì bị cánh cổng lớn đập thẳng vào mặt.
Những cánh cổng trong cung đều là gỗ hồng liễu có bọc đinh đồng. Đầu Long Đột Kỵ Chi đập trúng một viên đinh đồng, hắn ngã phịch xuống đất, trên trán sưng u lên thành cục, sống mũi cũng bị đập hõm vào trong, máu tuôn như suối.
Những người xung quanh đều bị chuyện này làm cho sợ đến ngây người. Chu Quý vội vàng tiến lên đỡ ông ta dậy, mọi người suýt chút nữa cười rộ lên, quốc vương Yên Kỳ bị đập bẹp mặt ngay trước mắt họ, trên trán còn mọc thêm một cục u…
“Tiểu súc sinh!” Long Đột Kỵ Chi gần như phát điên, ra sức đá cánh cửa lớn: “Ngươi mở cửa ra cho ta! Lão tử chém chết ngươi!”.
“Nhạc phụ, người đừng có ép con!” Khúc Trí Thịnh thậm chí còn phẫn nộ hơn ông ta: “Người là phụ vương của Sương Nguyệt Chi, vậy cũng chính là phụ vương của con. Người phải biết rằng không phải con sợ người, con là giữ lễ nghi của hậu bối nên mới lấy lễ đối đãi… Con tuyệt đối không để Sương Nguyệt Chi theo người trở về. Nếu người còn cố ép thì đừng trách con trở mặt vô tình!”.
Long Đột Ky Chi lảo đảo đứng ở đó, chỉ cảm thấy mũi và trán không có chỗ nào không đau, đưa tay lên mặt lau bừa cũng thấy tay ngập toàn máu tươi. Ông ta căm phẫn quệt máu trên tay lên cánh cổng, quát lớn: “Cái gọi là lấy lễ đối đãi của ngươi đây sao? Ta nhổ vào! Tiểu súc sinh, hôm nay ngươi không giao người ra, ta tuyệt đối không đội trời chung với ngươi! Người đâu!” Long Đột Kỵ Chi quệt máu tươi trên mặt, gầm lên với đám Long kỵ sĩ: “Đập cửa cho ta!”.
Đám Long kỵ sĩ nhìn nhau, bọn họ không giống Long Đột Kỵ Chi, không vì bị đả thương cả thể xác lẫn tinh thần mà mất hết lý trí. Ở trên đất Cao Xương mà dám phá vỡ cửa vương cung nước người ta… thử hỏi có được không? Nhưng liếc thấy bộ dạng nổi trận lôi đình của quốc vương nước mình, lại thấy Khúc Văn Thái không có ý phản đối liền đánh bạo hành động. Trong cung không có cây gỗ nhọn để phá cửa nhưng gạch ngói thì lại không thiếu. Ngày đó Khúc Trí Thịnh chuyển một đống gạch lớn tới đây để xây cổng, rồi giỡ ra để chất đống bên cạnh. Đám Long kỵ sĩ mỗi người ôm một viên, đồng thanh hò dô một tiếng rồi cùng giáng mạnh vào cánh cổng.
Hình dáng của gạch mộc trong vương cung giống hệt loại gạch ở tường thành, đều dài một thước, rộng bảy tấc, dày đến năm tấc, cả khối e rằng nặng nhẹ không dưới hai mươi, ba mươi cân, đùng một tiếng đập lên, lập tức khiến cửa chính lay động, bụi đất tung bay. Đám Long kỵ sĩ này đều là dũng sĩ của Yên Kỳ, thể lực kinh người, mười sáu người, mỗi người đập một gạch xuống, trục cánh cửa nứt toác, hai cánh cổng lung lay sắp đổ.
Long Đột Kỵ Chi hét lớn một tiếng, phi thân đạp lên cửa, cánh cửa chính ầm ầm sụp đổ, kèm theo đó là một tiếng vang cực lớn, cánh cửa nặng nề đập xuống nền phòng. Long Đột Kỵ Chi cầm loan đao xông vào đại sảnh, ánh nắng từ trên bầu trời chiếu rọi xuống, bụi đất mù mịt bay trong không khí. Ông ta lấy lại bình tĩnh, lại trông thấy Khúc Trí Thịnh và Long Sương Nguyệt Chi đang nắm lấy tay nhau, sóng vai đứng ở nơi sâu trong hành lang, vẻ mặt tuyệt vọng.
“Tiểu súc sinh…” Long Đột Kỵ Chi cười gằn nói, “Xem ngươi chạy đi đâu! Buông tay Sương Nguyệt Chi ra!”.
Khúc Trí Thịnh xót xa nhìn Long Sương Nguyệt Chi: “Phụ vương của nàng tới đón nàng rồi!”.
“Phụ vương!” Long Sương Nguyệt Chi nắm chặt lấy tay Khúc Trí Thịnh, hai mắt đẫm lệ cầu khẩn: “Người bỏ qua cho chúng con đi! Con thật sự yêu Trí Thịnh, con không muốn vì hai nước đối địch mà ngăn cản tình yêu của chúng con. Người cứ coi như chưa từng có đứa con này, chúng con tình nguyện rời khỏi Tây Vực, vĩnh viễn không trở về nữa!”.
Tài hoa diễn kịch của vị công chúa này thật sự rất cao, khóc lóc kể lể một phen, cho dù là người sắt thì cũng sẽ bị tiếng khóc này làm cho mềm lòng, Khúc Trí Thịnh càng rơi nhiều nước mắt hơn, đau lòng không thôi.
“Con nói gì?” Long Đột Kỵ Chi có chút hồ đồ, ngay sau đó tỉnh ngộ, hòa nhã nói, “Sương Nguyệt Chi, con bị ma quỷ đầu độc rồi. Trước kia không phải con rất xem thường tiểu tử này sao? Con là bảo bối của Yên Kỳ chúng ta, là ‘Phượng Hoàng Tây Vực’ được mọi người công nhận, hắn sao có thể xứng với con được? Con bị tiểu tử này uy hiếp phải không? Đừng lo, đợi phụ vương chém hắn rồi dẫn con về nhà!”.
“Không, phụ vương!” Long Sương Nguyệt Chi la hét đến lạc cả giọng, “Con thật sự yêu chàng!”.
Long Đột Kỵ Chi bịt tai không thèm nghe, nhìn chằm chằm Khúc Văn Thái: “Họ Khúc kia, nếu ông không quản, vậy thì bây giờ ta lập tức cưỡng ép cướp người đấy. Nếu tiểu súc sinh này có bị tổn thương thì chớ có trách ta!”.
Khúc Văn Thái thản nhiên nói: “Nếu nó đã là súc sinh, trong mắt ông chẳng qua cũng giống như dê heo mà thôi, muốn làm gì thì tùy ông!”.
Long Đột Kỵ Chi sửng sốt, ông ta có thể hiểu sự tức giận trong lời nói của Khúc Văn Thái, nhưng bản thân ông càng cáu hơn, lập tức hừ một tiếng: “Người đâu, mời công chúa về nước!”.
Mười sáu Long kỵ sĩ tiến lên muốn cưỡng ép đưa Long Sương Nguyệt Chi đi, Khúc Trí Thịnh hướng về phía Long Sương Nguyệt Chi cười thảm một tiếng: “Sương Nguyệt Chi…”.
Long Sương Nguyệt Chi chan chứa tình cảm nhìn hắn đăm đăm, bổ nhào vào trong lòng hắn, buồn bã nói: “Ta tuyệt đối không trách chàng!”.
“Đều do bọn họ ép ta…” Khúc Trí Thịnh lầm bầm, rồi bỗng nhiên trở tay kéo tấm màn che sau lưng xuống, dưới ánh mặt trời, Chiếc bình của vua Đại Vệ đúc bằng đồng thau lóng lánh sắc vàng được cung phụng trên bàn thờ Phật lộ ra. Hoa văn trên thân bình giống như sóng mắt đang lưu động một cách quỷ dị.
Đám Long kỵ sĩ lập tức giật mình, Long Đột Kỵ Chi hít sâu một hơi, trầm giọng quát: “Chiếc bình của vua Đại Vệ! Hừ, hôm nay ta cũng muốn xem xem rốt cuộc nó có ma lực gì, người đâu…”.
Lời nói còn chưa dứt, chỉ nghe thấy một tiếng phập, một mũi tên nhọn bắn tới dưới chân ông ta. Long Đột Kỵ Chi cả kinh, trong phút chốc liền nghe thấy bên ngoài hành lang gấp khúc vang lên những tiếng xé gió vun vút, tiếng binh khí va chạm, hòa lẫn cùng tiếng kêu thảm thiết, tiếng gào thét, và tiếng mũi tên đâm xuyên qua cơ thể con người, tiếng binh khí rơi xuống đất tán loạn. Hóa ra, trong đình viện bên ngoài bỗng nhiên xuất hiện gần trăm chiến sĩ mặc đồ đen, che mặt phát động đánh úp bất ngờ với túc vệ canh giữ bên ngoài. Đám túc vệ chỉ có một trăm người, một lượt mũi tên của đối phương đã giết chết hơn ba mươi người, sau đó phát động công kích. Khúc Đức Dũng mặc dù vũ dũng nhưng tình huống xảy ra bất ngờ không kịp đề phòng nên cũng không chống đỡ được, đành phải rút lui vào trong cung.
Khúc Văn Thái sợ ngây người, quát hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì thế?”.
Trả lời ông là những tiếng bước chân lộn xộn. Trong bóng râm của ánh mặt trời, vô số chiến sĩ chạy băng băng, ánh đao lạnh thấu xương, đầu mũi tên lạnh lẽo, lần lượt khống chế cầu thang tầng hai và tầng ba, giương cung lắp tên nhắm vào những người trong đại sảnh. Trong lòng Khúc Văn Thái có phần trầm xuống.
“Các người rốt cuộc là ai?”, Khúc Văn Thái lớn tiếng quát hỏi.
“Bọn họ là kẻ địch của ngươi, giống như ta vậy!” Bên ngoài hành lang gấp khúc vang lên tiếng cười lạnh.
Khúc Văn Thái bỗng nhiên quay đầu lại, chỉ thấy trong vòng vây của những chiến sĩ mặc đồ đen có một lão giả gầy guộc cùng vương phi của mình chậm rãi đi tới, phía sau bọn họ không ngờ lại là Huyền Trang và A Thuật!
Trên gương mặt của Vũ Văn vương phi là một vết sẹo đáng sợ kéo thẳng từ xương gò má tới khóe miệng. Nàng không băng bó lại, máu tươi vẫn còn đang chảy xuống, nhưng bàn tay nàng lại được một mảnh tăng bào tạp sắc bọc lại, bên ngoài còn thấm máu tươi.
Sắc mặt Khúc Văn Thái rất khó coi: “Nàng… Chuyện này là sao?”.
Vương phi cười khẩy: “Bệ hạ, người vẫn không hiểu sao? Ta là đang tạo phản đây!”.
Khúc Văn Thái ngây người, Long Đột Kỵ Chi và Khúc Trí Thịnh cũng trợn mắt há hốc mồm. Ai cũng không ngờ được rằng vương phi Cao Xương lại tạo phản! Nhất là Long Đột Kỵ Chi càng không ngừng kêu khổ, bản thân hắn sao lại xui xẻo như vậy, lại đụng phải chính biến của Cao Xương!
“Tại sao?” Khúc Văn Thái lạnh lùng hỏi.
“Tại sao?” vương phi cười to đến lạc cả giọng, “Ngươi hỏi ta tại sao? Một công chúa Đại Tùy, một nữ nhân yêu ngươi sâu sắc, mười tám năm nay bị ngươi lăng nhục hành hạ không ngừng nghỉ, giữa ngươi và ta liệu còn lại gì chứ? Khi ngươi bịt miệng mũi của nàng ta, dìm nàng ta xuống nước, lúc đó ngươi có từng hỏi tại sao không? Khi ngươi dùng roi da quất lên người nàng ta tạo ra những vết máu loang lổ, ngươi có từng hỏi tại sao không? Khi ngươi đưa nàng ta vào đại trướng của người Đột Quyết, ngươi có từng hỏi tại sao không…”.
Tất cả mọi người đều sợ đến ngây người. Nguyên nhân khiến bọn họ khiếp sợ không chỉ là vì chuyện Khúc Văn Thái ngược đãi vương phi, mà điều khiến họ càng sợ hãi hơn chính là… Sau khi nghe được bí mật đáng sợ chốn cung đình này, bản thân liệu có thể bị quốc vương Cao Xương giết người diệt khẩu hay không!
Trên trán Khúc Văn Thái toát mồ hôi lạnh, gương mặt cuối cùng cũng hiện rõ vẻ kinh hoàng, đôi môi ông ta mấp máy, cười khổ nhìn chằm chằm vào Huyền Trang: “Đại sư… Lẽ nào ngài cũng tạo phản với đệ tử sao?”.
Lời này chẳng ra sao cả, nhưng trong lòng Huyền Trang lại chua xót vô cùng, lắc đầu nói: “Bần tăng chỉ là tù binh của vương phi mà thôi!”.
Khúc Văn Thái thở phào một hơi, suy nghĩ một lát, mới nói: “Ngọc Ba, ta tự biết bản thân mắc nợ nàng rất nhiều. Năm Đại Nghiệp thứ tám, khi nàng mới được gả tới, ta và nàng phu phụ cầm sắt hòa minh, đôn luân ân ái, chẳng lẽ ta chưa từng thật sự yêu nàng sao? Nhưng chỉ trong một năm ngắn ngủi, vị thế tử kiêu ngạo kia, thanh niên cao quý kia, hắn đã bị nàng hủy hoại! Nàng bảo ta cải cách, ta liền cải cách; nàng bảo ta trục xuất Đột Quyết, ta liền trục xuất Đột Quyết; nàng bảo ta trấn áp những kẻ chống đối, ta liền trấn áp những kẻ chống đối. Ta biết nàng làm mọi chuyện đều vì sứ mạng mà hoàng đế triều Tùy giao phó. Ta yêu nàng, ta sùng mộ nhà Hán, ta vui lòng làm theo, dù phải chịu sự phản đối của toàn bộ người Cao Xương, dù phải đón nhận những âm mưu và sự phản bội, chính biến và giết chóc, vì niềm vui của nàng, ta không dao động một chút nào! Nhưng nàng không hiểu chính trị, lại càng không hiểu lòng người, khi chúng ta vung đao trong tay, chém đầu kẻ địch xuống thì đã không có cách nào thu tay lại được nữa rồi! Trong trận chính biến đó, chính sự nhân từ, sự vô tri của nàng khiến cho bọn họ có cơ hội để lợi dụng, công chiếm vương thành! Ngọc Ba, là nàng hủy hoại ta! Hủy hoại Cao Xương!”.
Khúc Văn Thái hét đến khàn cả giọng, than thở khóc lóc, cười thảm thê lương: “Ngọc Ba, là nàng khiến ta vong quốc! Là nàng khiến ta thành chó nhà có tang! Là nàng khiến ta giống như một con chó được che chở dưới trướng của người Đột Quyết! Khiến ta đánh mất tôn nghiêm, lòng tin tan vỡ, khí phách hào hùng không còn sót lại chút nào! Ngọc Ba, ta hận nàng, ta thật sự hận nàng!”.
Vương phi khẽ cười, nhưng vết sẹo và máu tươi trên mặt lại khiến nụ cười của nàng trở nên dữ tợn: “Đúng vậy! Ta và ngươi từ khi mất nước phải đào vong, cứ như vậy căm hận lẫn nhau, hết yêu rồi, tình cũng chẳng còn, tất cả đều tan biến. Mặc cho ngươi lăng nhục cũng được, hành hạ cũng được, giày xéo cũng được, ta vốn đã không thèm để ý tới cái thân xác này nữa rồi, nhưng ta vẫn còn hận. Tình yêu một năm, căm hận mười bảy năm, Văn Thái, ngươi bảo ta làm sao quên được?”.
Nước mắt Khúc Văn Thái rơi như mưa, chỉ lẩm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt…!”.
“Văn Thái, ngươi hãy ra đi như vậy đi!” vương phi lạnh lùng nói, “Đại Tùy đã mất rồi, tình yêu cũng chết rồi, sau khi ngươi chết, nỗi hận này cũng tiêu tan theo. Hãy để nghiệt duyên của chúng ta bắt đầu từ một cuộc chính biến, cũng kết thúc tại một cuộc chính biến đi. Có lẽ, đây mới là nhân quả mà Phật Tổ an bài!”.
Vương phi im lặng quay đầu, bất lực phất tay: “Giết ông ta đi!”.
Tiết tiên sinh đứng bên cạnh giơ tay lên, đang chuẩn bị chém xuống, Huyền Trang bỗng nhiên chạy nhanh tới ngăn trước mặt Khúc Văn Thái, giang hai cánh tay bảo vệ ông: “A Di Đà Phật, xin công chúa hãy suy nghĩ lại!”.
Tiết tiên sinh có chút khó xử, vương phi lại không hề thấy bất ngờ chút nào, thản nhiên nói: “Đại sư, thật ra ta rất muốn giết ngài. Giết ngài rồi, Cao Xương mới có thể hoàn toàn cắt đứt với Lý Đường, trở thành cõi cực lạc cho những lưu dân vong quốc Tùy Tần chúng ta. Nhưng ngài là cao tăng đại đức, trọng tội giết tăng ta không gánh vác nổi. Đời này khi ta xuống địa ngục Nê Lê, có vô số tội nghiệt đang chờ ta, dù rửa cũng rửa không sạch, ta không muốn lại gia tăng thêm tội nghiệt nữa! Ngài đừng ép ta!”.
Huyền Trang mỉm cười, trên khuôn mặt biểu lộ vẻ thương cảm: “Công chúa, thứ mà bần tăng cầu chính là Phật, đối với bần tăng mà nói, đầu mũi tên lưỡi đao đều là Phật. Nếu người có thể được giải thoát, bần tăng chết thì có làm sao? Nhưng bần tăng muốn nói với người một câu: Trước đây muốn mà không có được, hiện tại không có được, tương lai cũng không có được. Tại sao lại không có được? Bởi vì thứ mà người nhận được chỉ là hư vọng. Chuyện cũ như một chiếc đèn, đèn tắt rồi, thứ lay động trước mắt chỉ là ánh đèn mà thôi. Hoa sen sống trong nước, không bị nhiễm bùn. Nếu đã là hoa sen, hà tất phải rước lấy trần duyên?”.
“Nếu đã là hoa sen, hà tất phải rước lấy trần duyên?” vương phi khẽ đọc, tựa như say mê, nàng ta thở dài yếu ớt, “Ông ta không chết, sao ta có thể rửa sạch dơ bẩn trên người được đây?”.
Huyền Trang mỉm cười: “Nếu như ông ta chết, người rửa sạch dơ bẩn trên người như thế nào? Ông ta không chết, trên người của người lại dơ bẩn như thế nào?”.
Sắc mặt vương phi thay đổi, sóng mắt mê ly, rơi vào trầm tư. Huyền Trang khẽ thở phào nhẹ nhõm, lúc này Khúc Văn Thái mới cảm thấy mồ hôi lạnh đã thấm ướt đẫm lưng áo, nhưng cũng ngay tại lúc này trong đình viện bỗng nhiên vang lên tiếng bước chân chạy rầm rập, ngay sau đó những tiếng nổ ầm ầm truyền tới, tất cả cửa sổ ở bốn phương tám hướng đều bị phá tan, vô số túc vệ quân phá cửa sổ xông vào, cung tiễn nhắm chuẩn vào đám dân lưu vong Tùy Tần.
Tất cả mọi người ngây ngẩn, vốn dĩ cuộc đảo chính này có thể được giải quyết thỏa đáng, không ngờ thế cục bỗng nhiên thay đổi.
Chu Quý dẫn theo Trương Hùng sải bước tiến đến, túc vệ quân bao vây toàn bộ đám dân lưu vong Tùy Tần lại. Chu Quý vội vàng chạy tới trước mặt Khúc Văn Thái khóc ròng nói: “Bệ hạ, người không sao chứ? Giờ thì tốt rồi, lão nô lén ra ngoài thông báo cho đại tướng quân, đám nghịch tặc này đã thành cá trong chậu rồi.”
“Bệ hạ!” Trương Hùng xấu hổ, “Thần thỉnh tội. Nếu không có Chu tổng quản thông báo, thần thật sự có chết muôn lần cũng khó chuộc tội”.
“Thái Hoan! Thái Hoan…” Khúc Văn Thái cảm nhận được lòng trung thành của Chu Quý và Trương Hùng, hai mắt không khỏi ướt lệ, lúc này mới hoàn toàn yên tâm. Ông ta lạnh lùng nhìn vương phi chằm chằm: “Bảo người của nàng bỏ vũ khí xuống!”.
Vương phi không để ý tới ông ta, chỉ nói với Huyền Trang: “Đại sư, ngài nói rất đúng, ông ta chết hay không chết chẳng có liên quan gì tới ta cả. Ông ta chỉ là bùn dưới hoa sen, nước trong ao tù mà thôi”.
Trong mắt Khúc Văn Thái lộ ra sự đau đớn sâu đậm, cắn răng quát: “Giết nàng ta!”.
Đám túc vệ vừa nhắm cung tiễn vào vương phi đã thấy nàng ta xoay người nhìn Khúc Văn Thái chằm chằm, trong mắt lộ ra ý cười mỉa mai. Khúc Văn Thái bỗng nhiên cảm thấy có chút bất an, vẫn chưa suy nghĩ cẩn thận thì trên cổ đột nhiên cảm thấy lạnh, một giọng nói trầm trầm vang lên sau lưng: “Phụ vương, không giết được đâu!”.
Khúc Văn Thái khó khăn quay đầu lại, lập tức ngây người, chỉ thấy Khúc Đức Dũng cầm loan đao trong tay, lưỡi đao sắc lạnh đang kề lên cổ của ông, trên gương mặt lạnh lùng tràn đầy vẻ mỉa mai, trào phúng. Tất cả mọi người đều trợn mắt há hốc mồm, trận chính biến này quả nhiên biến đổi bất ngờ, biến hóa kỳ lạ khó tả. Ai có thể nghĩ ra được đằng sau việc vương phi phát động chính biến lại có cả nhị hoàng tử tham dự vào nữa chứ!
Huyền Trang liếc nhìn Long Sương Nguyệt Chi, thấy nét mặt nàng ta không hoảng loạn một chút nào, khóe miệng thậm chí còn nhếch lên mỉm cười, không kiềm chế được thở dài: “Công chúa, phong ba lần này chắc hẳn cũng có mưu kế của người góp vào phải không?”.
Long Sương Nguyệt Chi tiến đến bên tai Huyền Trang, thấp giọng nói: “Đại sư, đã nhường rồi, tiếp theo ngài nên nhìn cho kỹ vào!”.
Khúc Trí Thịnh vẫn luôn nhớ nhưng Long Sương Nguyệt Chi, thấy nàng thì thầm với Huyền Trang liền vội vàng hỏi: “Sương Nguyệt Chi, nàng không sao chứ?”.
Long Sương Nguyệt Chi biểu lộ thần thái nhu nhược của thiếu nữ, rúc vào trong ngực hắn: “Tam lang, ta sợ quá!”.
“Đừng sợ! Đùng sợ! Ta sẽ dùng Chiếc bình của vua Đại Vệ để bảo vệ nàng!” Khúc Trí Thịnh bùi ngùi nói.
Cảnh tượng này khiến Huyền Trang nhìn thấy cũng phải lợm giọng buồn nôn, càng thêm kính sợ không thôi với vị công chúa này.
°°°
Lúc này Khúc Văn Thái cũng phải trợn mắt há hốc mồm, trong đầu đặc sệt như hồ dán. Vương phi phản nghịch ông còn có thể hiểu được, hai người hận nhau mười bảy năm, phát triển tới bước đường ngày hôm nay, ông ta cũng không cảm thấy kỳ quái, nhưng mà Đức Dũng…
“Vì sao con lại làm như vậy?” Khúc Văn Thái ngơ ngác nói, “Con là nhi tử ta yêu thương nhất, là người thân nhất của ta… Vì sao lại phản bội ta?”.
“Bởi vì người ép con!” Khúc Đức Dũng bình tĩnh nói.
“Ta ép con?” Khúc Văn Thái nổi giận, trừng muốn rách cả mí mắt, “Ta cho con tình thương của một người cha, giao túc vệ vương cung cho con, giao chức Hữu vệ đại tướng quân cho con, giao tính mạng của ta và sự an toàn của cả vương thành cho con! Đợi sau khi ta chết, ta còn muốn giao vương vị Cao Xương cho con. Đức Dũng, còn có cái gì ta không cho con nữa đây? Con lại còn nói là ta ép con? Ép con phản bội, ép con mưu phản?”.
Vương phi nhẹ bước đi tới, vươn tay khoác lên cánh tay của Khúc Đức Dũng, nói lời châm chọc: “Ngươi còn giao chính vương phi của mình cho hắn!”.
“Các người…” Lúc này Khúc Văn Thái mới hiểu được mối quan hệ của hai người, sự nhục nhã cực độ dường như khiến hắn phát điên, “Cẩu nam nữ!”.
Khúc Đức Dũng dường như có chút xấu hổ, nhưng vương phi lại ngang nhiên nói: “Chúng ta không phải cẩu nam nữ, mà chỉ là một đôi nam nữ đáng thương bị ngươi dồn đến bước đường cùng mà thôi! Mười bảy năm rồi, ta ngày ngày bị ngươi hành hạ, nếu không có Đức Dũng, ngươi cho rằng ta có dũng khí sống cho tới tận bây giờ sao?”.
“Ta không nói ngươi!” Khúc Văn Thái không kiềm chế được cơn giận mà quát vương phi, rồi nhìn sang Khúc Đức Dũng, hận không thể cắn xé máu thịt của hắn, “Ta đang hỏi hắn! Rốt cuộc ta đã làm gì có lỗi với ngươi? Từ nhỏ đến lớn ngươi là nhi tử ta sủng ái nhất, ta hao tổn hết tâm huyết trên người ngươi, dựa theo quy chế của Cao Xương, vương vị do trưởng tử kế thừa, nhưng ta năm lần bảy lượt muốn phế bỏ Nhân Thư, nâng ngươi lên làm thế tử. Ngươi nói đi, ta rốt cuộc đã có lỗi gì với ngươi?”.
“Người không có lỗi với con sao?” Khúc Đức Dũng cũng phẫn nộ, rống to với ông ta: “Con và đại ca vốn tình như thủ túc, một văn một võ, phối hợp ăn ý. Mơ ước từ nhỏ của con làm một vị đại tướng quân trợ giúp đại ca chinh chiến sa trường, con không muốn làm quốc vương Cao Xương! Nhưng chính người, từ sau khi con cứu người khỏi loạn quân, người lại ăn nói lung tung, nói muốn truyền vương vị Cao Xương cho con…”.
“Ta không có ăn nói lung tung!” Khúc Văn Thái cũng hét lớn.
“Chính vì người không ăn nói lung tung mới ép con đến bước đường ngày hôm nay!” Hốc mắt Khúc Đức Dũng đỏ lên: “Chỉ vì lời hứa hẹn này của người khiến đại ca xem con như kẻ địch! Nhưng sau khi người phục quốc, người lại nuốt lời, lấy cớ thần dân phản đối, lập đại ca làm thế tử. Nhưng mà phụ vương, người có biết không, ta đã không thể quay đầu lại nữa rồi! Đại ca giả vờ hào hiệp, thật ra lòng dạ nhỏ nhen, con với hắn tranh đoạt vương vị, sau khi người trăm tuổi, hắn tất sẽ không bỏ qua cho con! Cũng lại là vì lời hứa hẹn của người khiến một nhóm đông các tướng lĩnh trong quân đội coi con như một món hàng quý, đẩy con lên con đường tranh đoạt vương vị này. Phụ vương, việc hôm nay con mưu phản hoàn toàn là do một tay người tạo nên!”.
Khúc Văn Thái ngây người, không biết nên nói gì mới được, lầm bẩm: “Ta… ta đích thực muốn phế Nhân Thư để lập con”.
“Phụ vương!” Khúc Đức Dũng sầu thảm nói, “Người càng nói như vậy là càng đẩy con tới con đường mưu phản đấy! Đại ca có nguồn gốc Hán học uyên thâm, quan hệ giữa con với người Đột Quyết lại tốt đẹp, quốc sách của người thay đổi thất thường, chần chừ bất định. Khi người đi nương nhờ Đột Quyết thì muốn phế bỏ đại ca, truyền ngôi cho con. Con cũng chuẩn bị tâm lý đầy đủ rồi, người lại thay đổi ý kiến muốn nương nhờ Đại Đường, ngay sau đó liền nuốt lời. Người bảo con thích ứng thế nào được đây? Người chỉ bảo con phải kiên nhẫn, kiên nhẫn, nhưng sự kiên nhẫn của con cũng bị người mài mòn từng chút một rồi. Lần này người nghênh đón đại sư Huyền Trang, người Cao Xương ai ai cũng đều biết người đã hạ quyết tâm lấy lòng Đại Đường, truyền lại ngôi cho con là việc bất khả thi. Nhưng những năm gần đây, tính mạng bản thân và gia đình của vô số người đã buộc trên lưng ngựa của con, với thủ đoạn của đại ca, ngày nào đó một khi hắn đăng cơ, những người này nhất định phải bị diệt trừ hết sạch. Phụ vương, đây đều là những tùy tùng nguyện đi theo con, những huynh đệ đồng bào phải vào sinh ra tử mới có được, con chỉ có thể liều chết đánh một trận vì bọn họ, vì bản thân con, vật lộn vì một tương lai tốt đẹp mà thôi!”.
Vẻ mặt Khúc Văn Thái đau thương nhìn Huyền Trang, lại nhìn Trương Hùng, bỗng nhiên hỏi: “Thái Hoan, bổn vương… thực sự như vậy sao?”.
Trương Hùng trầm mặc một lát, không nói gì gật đầu: “Bệ hạ, thần không biết nhiều về nhị hoàng tử, nhưng tâm tư của đại hoàng tử thế nào thân vẫn biết được một chút. Năm đó khi người thi hành Hán hóa thay đổi chế độ xã hội thì tuổi của đại hoàng tử đã lớn, ngài ấy dưới sự hun đúc của người mới quyết tâm học tập Hán học, cuối cùng đầy bụng tri thức. Nhưng người lại nhanh chóng bỏ chế độ nhà Hán, nương nhờ Đột Quyết, chán ghét đủ kiểu với đại hoàng tử. Đại hoàng tử từng có một lần muốn vứt bỏ Nho học, làm người vui lòng, nhưng khi người dựa vào Đột Quyết thì tôn trọng phong tục Đột Quyết, khi dựa vào Trung Nguyên thì tôn trọng văn hóa nhà Hán, đại hoàng tử không biết theo ai, sợ mất đi vương vị, cho nên những năm gần đây luôn nói năng thận trọng đối với việc triều chính”.
Khúc Văn Thái thở dài một tiếng, nhắm hai mắt lại. Khúc Đức Dũng nói: “Đại tướng quân, bảo người của ngươi bỏ vũ khí xuống, nếu không thì chính là ngươi ép chết bệ hạ đấy!”.
Trương Hùng mồ hôi như mưa nhìn Khúc Văn Thái. Thân thể Khúc Văn Thái vô lực, chán nản té xuống đất. Khúc Đức Dũng lúc này đang kề đao trên cổ ông ta, lưỡi đao thuận thế cắt một đường trên da thịt, thiếu chút nữa cắt đứt cổ của Khúc Văn Thái. Toàn thân Khúc Văn Thái toát mồ hôi lạnh. Ông ta sợ hãi, Trương Hùng còn sợ hơn, vội vàng ra lệnh cho quân lính bỏ vũ khí xuống.
Khúc Đức Dũng lệnh cho Trương Hùng dẫn người rút lui khỏi cung, tay không đứng trong viện, còn bản thân lại móc trong ngực ra một chiếc kèn, đưa lên miệng thổi. Tiếng kèn nặng nề chấn động cung đình, từ xa liền nghe thấy bốn phương tám hướng vang lên tiếng bước chân nặng nề, chạy băng băng va chạm nhau, một đội chiến sĩ võ trang đầy đủ khống chế cả vương cung, đương nhiên đều là trung binh tinh nhuệ nhất trong Cao Xương rồi!
Trên phương diện thể chế binh bộ, Cao Xương tiếp tục áp dụng chính sách của Nam Bắc triều, chia làm ngũ binh: trung binh, ngoại binh, kỵ binh, biệt binh và đô binh. Nhưng cụ thể đến tiểu quốc nhỏ như thế này, công dụng của ngũ binh lại không giống với Trung Nguyên. Trung binh - tên như ý nghĩa, chính là bảo vệ vương cung, nhân số tuy ít, nhưng lại là tinh nhuệ nhất, vẫn luôn chịu sự khống chế của Khúc Đức Dũng; ngoại binh đóng ở tất cả các quận khác; kỵ binh Cao Xương chỉ có một chi, cũng trú đóng ở vương thành, do Khúc Đức Dũng nắm giữ; đô binh là chủ lực trú đóng ở vương thành Cao Xương, trước giờ do Trương Hùng thống lĩnh; biệt binh không đáng nhắc tới, tương đương với quân dự bị.
Bản thân Khúc Văn Thái thật ra chỉ nắm giữ ba trăm túc vệ bên người, từ đó có thể biết được quyền lực của Khúc Đức Dũng lớn mạnh ra sao, Khúc Văn Thái tín nhiệm hắn đến mức độ nào.
Trương Hùng nghe thấy tiếng bước chân biết ngay rằng toàn bộ hơn ngàn trung binh xuất động thì lập tức quăng đi ý niệm chống cự trong đầu. Khúc Đức Dũng dương dương tự đắc bảo người của Tiết tiên sinh lùi lại, thay bằng trung binh của mình, khống chế đám người Khúc Văn Thái, Huyền Trang, Long Sương Nguyệt Chi, sau đó hỏi vương phi: “Ngọc Ba, người của nàng có thể lui được chưa?”.
Vương phi mỉm cười: “Đây là vương cung của chàng, vương quốc của chàng, lưu dân chỉ nhờ chàng che chở. Nếu chàng đã khống chế được đại cục, bọn họ đương nhiên có thể bỏ vũ khí xuống làm lương dân”.
Dứt lời liền phất tay ra lệnh cho Tiết tiên sinh dẫn lưu dân rút lui khỏi đại sảnh.
Khúc Đức Dũng rất hài lòng: “Ngọc Ba, nàng đối tốt với ta, cho dù ta làm quốc vương cũng vĩnh viên không quên”. Hắn nhìn chằm chằm gương mặt của vương phi, bỗng nhiên có chút đau lòng, nhẹ nhàng ôm nàng vào ngực, dịu dàng nói: “Vì sao nàng lại ngốc như vậy? Chúng ta đã trù tính bao nhiêu năm, chỉ một lát là thành công rồi, nàng tội gì phải hủy đi dung nhan của mình?”.
Vương phi buồn bã nói: “Đức Dũng, lấy sắc hầu người, cuối cùng cũng có lúc suy tàn. Chính là gương mặt này đã mang đến cho ta một đời thê lương, phá hủy nó cũng tốt, sau khi chàng thành công, ta liền đến hoàng tự xuất gia, vĩnh viễn làm bạn với thanh đăng cổ Phật!”.
“Ngọc Ba, nàng nói gì vậy!” Khúc Đức Dũng bừng bừng nổi giận, “Trong những ngày tháng gian nan kia, ta và nàng nâng đỡ lẫn nhau, chẳng lẽ ta yêu nàng là vì gương mặt của nàng sao? Ta không ngại quá khứ của nàng, không ngại nàng từng bị nhục nhã, vì ta biết điểm quý giá của nàng. Dựa theo phong tục Đột Quyết, chấp nhận chế độ kế hôn, nàng chính là vương phi tương lai của ta!”.
Khúc Văn Thái tức giận đến mức nổi trận lôi đình, phẫn nộ quát: “Cẩu nam nữ, các ngươi có biết xấu hổ không hả?”.
Khúc Đức Dũng cười lạnh: “Trước đời tổ phụ ta, Cao Xương đã đặt chế độ nhận kế hôn, tổ phụ cũng từng cưới hậu phi của tằng tổ phụ ta, hiện giờ ta khôi phục lại chế độ cũ có gì không thể?”.
Khúc Văn Thái yên lặng không nói gì.
Khúc Đức Dũng triệu tới một vị tướng quân, lạnh lùng nói: “Phụng ý chỉ bệ hạ, tra ra thế tử Khúc Nhân Thư cấu kết với ngoại thần ý đồ mưu nghịch, lập tức ban chết. Đi đi, dùng một ly rượu độc, cho đại ca ta thể diện để xuống địa ngục!”.
Tên tướng quân kia khom người nói: “Tuân mệnh!”. Ngay sau đó dẫn theo một đám trung binh nhanh chóng đi lùng bắt Khúc Nhân Thư.
Huyền Trang xót xa nói: “Nhị hoàng tử, thủ túc tương tàn, ngươi muốn vào địa ngục A Tì sao?”.
Khúc Đức Dũng lạnh lùng nói: “Hoàng đế Đại Đường nếu không phải thủ túc tương tàn, ngôi vị của hắn từ đâu mà tới?”.
Huyền Trang muốn tiến lên ngăn cản, lại bị đám trung binh dùng đao kiếm giữ lại, không thể động đậy được. Khúc Văn Thái thở dài một tiếng, nước mắt tuôn trào.
Khúc Đức Dũng hài lòng nhìn cả thế cục đều bị khống chế dưới tay mình, nhưng vấn đề xử lý người Yên Kỳ lại có chút khó khăn.
“Long Vương, không biết người Yên Kỳ các vị có thể hiểu được nỗi khổ tâm riêng của ta hay không?” Khúc Đức Dũng mỉm cười hỏi Long Đột Kỵ Chi, trong tiếng cười còn ẩn chứa sát khí.
Long Đột Kỵ Chi đã lăn lộn ở Tây Vực cả đời, mặc dù tính tình gắt gỏng, nhưng có gì mà không hiểu, lúc này cười nói: “Chính biến của quý quốc thì có liên quan gì đến Yên Kỳ ta đây? Ta chỉ tới cùng đàm phán với quốc vương Cao Xương, nếu vương vị của Cao Xương thay người, chỉ cần có thể thỏa mãn điều kiện của Yên Kỳ ta, đương nhiên có thể khôi phục lại quan hệ hữu hảo giữa hai nước, toàn lực duy trì ổn định Cao Xương!”.
Trong lòng Khúc Đức Dũng xao động, trầm ngâm nói: “Điều kiện của các ngươi, Sương Nguyệt Chi à, đương nhiên phải trả. Khúc Trí Thịnh… lại không thể giao cho các ngươi xử trí.” Hắn nhìn Khúc Trí Thịnh, biểu lộ ý xin lỗi, “Hắn dù sao cũng là huynh đệ ruột của ta, là người của vương tộc họ Khúc, không thể để người ngoài làm nhục được. Chúng ta sẽ hành hình ở Cao Xương, chém một đao. Về phần Con đường Tơ lụa dời về phía nam, trên nguyên tắc ta có thể đồng ý, về phần chi tiết cụ thể chờ Cao Xương ổn định lại, ta nguyện đích thân tới Yên Kỳ thương nghị. Ngài thấy thế nào?”.
Long Đột Kỵ Chi bị niềm vui bất ngờ này đánh động, đầu óc thậm chí có chút trì độn. Ông ta đến đàm phán, vốn rao giá trên trời, chỉ chờ người Cao Xương trả giá, nhưng không ngờ xảy ra một trận chính biến lại thành không đánh mà thắng, lấy được quyền khống chế Con đường Tơ lụa! Chỉ cần Khúc Đức Dũng nguyện ý tới Yên Kỳ đàm phán, cho thấy hắn có mười phần thành ý, Long Đột Kỵ Chi sao có thể không đáp ứng được? Cho nên lúc này mới xúc động tỏ thái độ: “Bệ hạ, người kế thừa vương vị Cao Xương, không phải là phúc của vạn dân Cao Xương thì cũng là phúc phận của Yên Kỳ ta. Người nhất định nhận được tình hữu nghị chân thành nhất của Yên Kỳ ta, chỉ cần bệ hạ nói một câu, đại quân tam quốc cùng Yên Kỳ đang trú đóng tại biên cảnh nguyện ý vì ngài đóng góp nỗ lực lớn nhất cho sự yên ổn của Cao Xương”.
Khúc Đức Dũng cũng bị niềm vui bất ngờ khổng lồ này đánh động, có ba quốc gia lớn Yên Kỳ, Quy Từ, Sơ Lặc ủng hộ, chớ nói thế lực quốc nội Cao Xương phản đối, dù là cả Tây Vực này, còn có ai dám làm ảnh hưởng tới địa vị của mình chứ? Gương mặt Khúc Văn Thái và Trương Hùng xám như tro.
Hai người đạt thành hiệp ước đồng minh, Long Kỵ Đột Chi không muốn dây dưa vào trận chính biến này thêm nữa, hắn sải bước đi tới trước mặt Long Sương Nguyệt Chi, tóm lấy nàng nói: “Sương Nguyệt Chi, đi theo ta!”.
Long Sương Nguyệt Chi ôm thật chặt cánh tay Khúc Trí Thịnh, vẻ mặt hoảng sợ: “Phụ vương, con không… Trí Thịnh, cứu ta…!”.
Huyền Trang và A Thuật thờ ơ lạnh lùng nhìn màn biểu diễn của Long Sương Nguyệt Chi, có chút khó hiểu, đến lúc này kế hoạch của nàng ta có thể nói đã thực hiện được hơn phân nửa, vì sao còn phải diễn tiếp vở kịch này?
“Buông nàng ấy ra!” Hai mắt Khúc Trí Thịnh lập tức đỏ bừng, khàn giọng rống to.
Long Đột Kỵ Chi tái mặt, rút loan đao ra, bổ một đao tới quát: “Tiểu súc sinh, lão tử chém ngươi ngay tại đây!”.
Ánh đao như tuyết, thấy Khúc Trí Thịnh sắp bị chém một đao, Huyền Trang chấn động vội vàng xông tới ngăn cản trước mặt Khúc Trí Thịnh: “A Di Đà Phật! Bệ hạ, xin nương tay…”.
Long Đột Kỵ Chi chấn động, ông ta cũng không có can đảm chém chết một vị cao tăng từ Đại Đường tới đâu, đành phải thu đao lại. Long Sương Nguyệt Chi vội vàng nhắc nhở: “Tam lang, Chiếc bình của vua Đại Vệ!”.
Khúc Trí Thịnh tỉnh ngộ, nhân cơ hội này liền nắm lấy tay Long Sương Nguyệt Chi chạy tới sau Chiếc bình của vua Đại Vệ, trên gương mặt xuất hiện vẻ điên loạn, rút đao nhỏ cắt ngón tay mình, nhỏ máu tươi lên phong ấn trên miệng Chiếc bình của vua Đại Vệ.
Tất cả mọi người đều sợ ngây người trước hành động cổ quái này của hắn. Khúc Trí Thịnh lúc này giống như một con sói ác bị ép đến bước đường cùng, biểu lộ vẻ dữ tợn, khàn giọng kêu to: “Ai dám cướp Sương Nguyệt Chi đi, ta muốn kẻ đó trọn đời không được siêu sinh’”.
Long Đột Kỵ Chi ra vẻ cười cợt nói: “Giả thần giả quỷ, cái bình nát này hù dọa ai được..
Lời còn chưa dứt, ông ta lập tức kinh ngạc. Trên thân Chiếc bình của vua Đại Vệ kia bỗng nhiên xảy ra sự biến hóa quỷ dị, sau khi máu tươi được nhỏ lên, một tia máu nho nhỏ nhanh chóng lan ra giữa những hoa văn chạm rỗng. Tia máu này giống như có sinh mạng, thân bình tỏa ra một tầng ánh sáng đỏ nhàn nhạt. Giữa lớp trong và lớp ngoài có ánh sáng rực rỡ, sau đó một luồng khí đen xuất hiện bao quanh bốn phía, giống như một con ác long đang giãy giụa muốn thoát ra.
Chú Thích[93] Còn gọi là Kim bà la hoa. Tên một thứ hoa mà Phạm vương dâng cúng đức Phật trên hội Linh sơn. Hoa Kim bà la không rõ thuộc loại thực vật nào. Có thuyết cho nó là hoa Chiêm bặc (Phạm: Svarja), Hán dịch là Kim sắc hoa (hoa mầu vàng ròng). Như vậy, Kim bà hoa là tên gọi do ghép chữ Hán (Kim) và tiếng Phạm (Bà la, phiên âm của Svarja lược bỏ chữ S ở đầu).