Chương 6
Khi Robert quay lại, tôi đang ngồi cạnh ngọn lửa trong bếp. Đêm nay trông anh rất gầy và mệt mỏi, nhưng anh vẫn mời tôi cùng ăn chút bánh mì và thịt hầm mà bà Gunn chừa lại. Khi tôi từ chối, anh nhìn tôi với vẻ tò mò, nhưng không nài ép thêm. Anh chả quan tâm mấy tới thức ăn, tôi nghĩ, và thường là quên cả ăn uống. Thậm chí khi ăn anh cũng ăn một cách chậm rãi và có phương pháp, như thể mỗi miếng thức ăn phải được phản ánh lại trong lúc nó đang được nhai. Cuối cùng anh ngẩng lên, mỉm cười và hỏi điều gì đang làm tôi khó chịu.
— Lucan đã tới đây - Tôi đáp. Robert không ngừng nhai mớ thức ăn trong miệng, nhưng khi đã nuốt xong, anh đặt cái nĩa xuống và nhìn tôi.
— Tới vì chuyện gì?
Tôi lắc đầu:
— Tôi không chắc. Ông ta đòi nói chuyện với thầy Poll.
— Rồi ông ta có làm chuyện đó không?
— Có.
— Thầy Poll nói gì với ông ta?
— Rằng ông ta đã tự tâng bốc chính mình nếu cho rằng họ từng là bạn của nhau.
Robert gật đầu, chấm mẩu bánh mì vào phần thịt hầm còn lại.
— Vậy thì sao? - Tôi hỏi.
Anh lắc đầu:
— Chuyện này chả hay ho gì đâu.
— Tôi không hiểu.
— Việc tự đặt chúng ta vào tình thế chống lại Lucan như thế.
— Anh muốn chúng ta phải cúi đầu trước những lời đe dọa của ông ta sao?
— Tôi sẽ không gây thù chuốc oán với những gã có thể gây hại cho chúng ta. Ông ta có đủ lý do để căm ghét chúng ta như thế.
Anh ngừng ăn và nhìn tôi.
— Anh biết gì về ông ta?
— Rằng ông ta là một tay đào trộm xác, giống như Caley, rằng ông ta đã dọa dẫm phân nửa số nhà phẫu thuật ở London.
Robert gật đầu:
— Anh có biết chuyện trước kia ông ta từng làm việc cho chúng ta, cho ngài Astley và nhiều người khác, và Caley và Walker từng là thuộc hạ của ông ta?
Anh lại chấm bánh mì vào đĩa thịt hầm, rồi nói tiếp:
— Ông ta tìm cách ép chúng ta phải trả tiền ngày càng nhiều hơn, và dọa sẽ làm cho chúng ta chết đói nếu chúng ta không đáp ứng. Và do vậy họ đã quyết định phải hạ nhục ông ta. Do những nỗ lực của thầy Poll và ngài Astley, Caley đã rời khỏi ông ta, sau đó tới lượt cả Câu lạc bộ liên kết chống lại ông ta.
— Họ đã làm đúng khi đứng lên chống lại ông ta.
— Có lẽ thế. Nhưng cái giá phải trả cho sự tham lam của chính chúng ta cũng ngang với sự tham lam của ông ta. Và ngoài ra, có một thứ có thể cho đi một cách ít tốn kém hơn nhiều, một thứ mà Lucan mong muốn hơn cả tiền bạc.
— Đó là gì?
— Sự tôn trọng - Robert đáp - Ông ta từng là một quý ông.
Tôi thốt ra một âm thanh tỏ vẻ coi thường, và Robert ngẩng lên khỏi đĩa thức ăn, nhìn tôi chòng chọc.
— Anh nghĩ là lòng tự hào của họ không dính dáng gì tới sự phán xét của họ sao? Vậy hãy tự hỏi mình xem: làm thế nào mà Lucan vẫn hoạt động được khi họ liên kết nhau chống lại ông ta.
— Ông ta bán cho van Hooch, Brookes và nhiều người khác - Tôi đáp - Những nhà phẫu thuật không phải là các quý ông và không được phép tham gia vào Câu lạc bộ Phẫu thuật.
Robert gật đầu:
— Không ai chịu để cho lòng tự hào của mình bị tổn thương một cách dễ dàng. Và chúng ta đã làm tổn thương lòng tự hào của Lucan theo nhiều cách chứ không chỉ một.
— Thế còn Caley. Anh ta tách khỏi Lucan như thế nào?
Robert phát ra một tiếng cười ngắn ngủi, buồn bã:
— Đây là London, Gabriel - mọi thứ đều mua bán được.
Một lát nữa trong đêm nay, Caley sẽ tới, mang theo mấy cái xác, và tôi sẽ nhìn thấy cách thức đối xử thận trọng của Tyne và Robert đối với hắn, như thể họ sợ rằng hắn sẽ biết Lucan đã tới đây. Và dù không nói gì về chuyện đó, khi quay đi hắn mỉm cười và hỏi chúng tôi đang che giấu hắn điều gì vậy. Và khi chúng tôi không tiết lộ điều gì với hắn, hắn cứ đứng đó, đưa mắt dò xét chúng tôi. Hắn có thể độc ác nhưng rất nhạy bén khi nhận ra ngay những lời nói dối, và cả sự khiếp nhược.
Tuy vậy, vào lúc này, khi tôi gặp Tyne trên cầu thang, hắn đưa thân hình ra chặn tôi lại.
— Ông ta đến đây chi vậy?
— Tôi không biết - Tôi đáp. Nhưng Tyne không nhích ra, và trong mắt hắn hiện lên vẻ nghi ngờ, một thứ bạo lực mà tôi chưa từng trông thấy trước đó.
— Cậu nói chuyện với ông ta một mình hả?
— Đúng vậy - Tôi bực bội đáp.
— Ông ta đã nói gì với cậu?
— Chả có gì - Tôi lắc đầu.
Hắn đứng bất động hồi lâu. Rồi cuối cùng hắn bước tránh sang bên để tôi có thể đi qua, thân người của hắn sát cạnh người tôi, mắt hắn dán chặt vào mặt tôi.
Ngày hôm sau thời tiết trở nên tệ hại: đầu tiên là mưa, rồi tới mưa đá, rồi một làn sương mù dày đặc trùm lên đường phố và cứ kéo sà dưới thấp. Bầu không khí khắp nơi đặc quánh lại vì sương mù, hơi sương thiêu nóng những cặp mắt và cổ họng. Rồi cũng nhanh như lúc nó kéo tới, màn sương mù tan biến, ngày lại trong sáng và sạch như băng. Không có gió, chỉ một sự thinh lặng, một cơn nhoi nhói băng giá xuất hiện trước lúc tuyết rơi. Mùi của than cháy và khói gỗ lan tỏa trong bầu không khí.
Song hành cùng cái lạnh là bệnh hoạn, chứng nám phổi và viêm phổi, mọi thứ tai ương của dân nghèo, và vì thế vào những chiều tối chúng tôi thường ghé thăm bệnh những người dân sống trong các con phố hẹp và những căn hộ ở khu St. Giles và Saffron Hill. Họ không có gì để trả nhưng chúng tôi vẫn tới với họ, đem lại bất cứ niềm an ủi nào có thể, dù có khi đó chỉ là một hai lời nói.
Việc tới với những người nghèo này, nhìn thấy những nhu cầu trần trụi của họ, khiến tâm hồn tôi trĩu nặng. Họ quá đông, chúng tôi thì quá ít, sự an ủi chúng tôi mang đến quá ư bé nhỏ, tôi cảm thấy không thoải mái với họ, không có lời nào để nói như Charles, không biết khi nào thì nên im lặng và để cho họ nói như Robert.
Sau đó, nếu chỉ có hai chúng tôi, Charles sẽ rủ tôi đi nhậu ở đâu đó, hoặc xem một vở diễn nào đó tại một sân khấu. Có khi mấy gã kia cũng tới đó, có khi không. Khi đi cùng với anh tôi bắt đầu hiểu được đôi điều về một thành phố mà nếu theo cách khác tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy. Tôi chắc rằng Robert biết chúng tôi đi đâu, dù anh không bao giờ hỏi, và Charles cũng ít khi rủ anh đi cùng.
Thế rồi, một đêm đầu tháng mười hai, có ai đó ở ngoài cửa bên dưới đã đánh thức tôi vào lúc nửa đêm. Tôi ngồi dậy, đứng lặng lẽ ở đầu cầu thang, lắng nghe giọng nói của Tyne. Đêm nay chỉ có chúng tôi: Robert đã xin phép nghỉ để về thăm nhà, em gái anh đang ốm. Charles và thầy Poll đã về nhà. Lúc này, nghe thấy tiếng Tyne bước lên cầu thang, tôi đi xuống.
— Có một tiểu thư hỏi thăm de Mandeville - Tyne nói khi chúng tôi gặp nhau ở giữa cầu thang.
— Tôi đã chia tay với anh ta được hai tiếng rồi. Đêm nay anh ta sẽ không quay lại.
— Cậu nghĩ là tôi chưa nói với cô ta điều đó sao? - Dù lời lẽ gay gắt, hắn tự kiểm điểm lại mình, như thể tìm kiếm sự tự tin của tôi.
— Cô ta tên gì?
— Cô ta không chịu nói, chỉ bảo rằng cô ta phải nói chuyện với cậu ấy.
Tôi bước ngang qua hắn, xuống thang, không biết mình sẽ tìm thấy điều gì. Có lẽ là một nàng hầu khốn khổ nào đó, được bà chủ cử tới và đã được dặn dò là phải kín đáo thận trọng, có lẽ là một người nghèo bất hạnh ở khu St. Giles hoặc Saffron Hill tới chuyển lời của một thân nhân trở bệnh đột ngột và quá sợ Tyne nên không dám nói tên. Nhưng không ai trong hai dạng đó đang đợi chờ tôi. Nàng đứng cạnh lò sưởi, áo khoác vẫn cài kín nút, và dù tôi không thể nhìn thấy mặt nàng, tôi biết đó là nàng ngay tức khắc.
— Anh là học viên? - Nàng hỏi. Giọng nàng trầm hơn, dè dặt hơn lúc đứng trên sân khấu.
— Đúng vậy - Tôi đáp. Dưới ánh sáng của lò sưởi, mái tóc đen của nàng có màu sắc của kim loại được đánh bóng, và gương mặt nàng dường như tỏa sáng lung linh giống hệt đêm hôm đó.
— Vậy còn de Mandeville?
— Tối nay anh ấy không về đây.
Lúc này nàng quay đầu lại, và tôi nhận thấy ngay rằng nàng trẻ hơn tôi tưởng, có lẽ không già hơn tôi mấy.
— Xin nói xem cô cần gì? - Tôi nói.
Nàng tỏ ra lưỡng lự. Đôi mắt nàng sẫm một màu nâu mà người ta hiếm khi nhìn thấy, giống mắt của một con nai hoặc một loài thú hoang nào đó.
— Một đứa nhỏ - Cuối cùng nàng nói - Nó bị một con chó tấn công.
— Nó là con của cô? - Tôi hỏi, cảm nhận một cơn nhói đau đột ngột, nhưng nàng lắc đầu.
— Con của một người bạn.
— Vết thương của nó có nghiêm trọng không?
Nàng gật đầu. Tôi suy nghĩ một lúc, rồi ra hiệu cho nàng đi theo tôi.
— Vậy tôi sẽ đưa cô tới chỗ anh ấy.
Khi tới bên ngoài mấy căn phòng của Charles, tôi gõ mạnh lên mui xe, và vừa bảo nàng chờ ở đó tôi vừa trèo xuống xe. Có ánh đèn trong cửa sổ phòng Charles ở tầng ba bên trên; tôi giơ tay đập cửa, rồi lui lại và gấp rút gọi tên của anh. Một dáng người xuất hiện gần như ngay lập tức phía sau lớp kính, kéo mấy tấm màn che ra trước khi biến mất. Vài giây trôi qua, rồi cánh cửa ra phố mở toang, để lộ ra không phải là Holroyd, người hầu của Charles, mà chính anh. Anh cầm trên tay một cây đèn.
— Gabriel - Anh nói, giơ cây đèn lên cao hơn - có gì khẩn cấp vậy?
Trước khi tôi có thể trả lời, có tiếng bước chân trên mặt đá lót đường.
— Arabella? - Anh hỏi - Có chuyện gì vậy? Cô tới đây làm gì?
Dù anh tìm cách che đậy, vẫn có một điều, một nỗi e sợ nào đó trong giọng nói của anh, và nó cũng hiện ra trên nét mặt của nàng, cái vẻ u buồn, cảnh giác mà chúng ta dành cho những người mà chúng ta từng chia sẻ một sự thân mật gắn bó nay không còn nữa.
— Có phải Kitty không? Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy?
— Không phải Kitty - Arabella đáp - Oliver.
Nghe thấy thế Charles đứng bất động. Khi cất tiếng trở lại, giọng anh dịu nhẹ hơn.
— Chết rồi?
Nàng lắc đầu:
— Bị thương, rất nặng!
Những từ của nàng được thốt ra bằng một giọng đều đều, như muốn nói lên những ý nghĩa riêng tư nào đó.
Charles ngần ngừ - Để tôi lấy cái áo khoác đã - Anh nói.
Trong những khoảnh khắc trước khi anh quay trở ra, chúng tôi đứng trong sự thinh lặng của đường phố tối. Arabella không nhìn tôi. Khi Charles quay ra, anh đặt một bàn tay lên vai tôi.
— Cám ơn, Gabriel! Mai tôi sẽ nói chuyện với anh.
— Tôi sẽ ngồi với người đánh xe - Tôi tình nguyện. Cỗ xe chỉ đủ rộng cho hai người. Có gì đó trong cách hành xử của tôi khiến Charles chựng lại.
— Rất tốt - Anh nói.
Chiếc xe ngựa đưa chúng tôi tới một con phố gần Drury Lane. Dù không phải là con đường tệ nhất trong quận, nó là một địa điểm suy tàn đổ nát, những tòa nhà hầu như bị nhuộm đen vì bồ hóng, đây đó là những ô cửa sổ vỡ toang há hốc, một số vẫn được để nguyên thế không sửa chữa, số khác được đóng kín lại bằng ván. Con đường dưới chân ngập lún đầy bùn, và thậm chí trong cái lạnh, một mùi hôi thối cứ lơ lững khắp nơi, như thể có một cái nhà xí bị tràn.
Ngôi nhà mà Arabella dẫn chúng tôi tới trước kia từng là một địa điểm khá hơn hiện tại. Những ô nhợt nhạt trên các bức tường vẫn còn chỉ ra nơi đã từng treo những bức tranh, nhưng bất kỳ dấu vết nào của sự xa hoa đều đã biến mất từ lâu, mấy căn phòng được chia thành cả một khu cư ngụ cho những hộ cá thể; giấy dán tường long tróc và lấm tấm những nấm mốc. Charles không nói lời nào khi chúng tôi bước lên cầu thang; miệng anh khép chặt, nét mặt kín như bưng.
Ở tầng ba, chúng tôi đi tới một căn phòng. Hẳn trước kia nó là một phòng đọc sách, hoặc có lẽ là phòng ngủ, vì bốn bức tường của nó được trang trí bằng những bức bích họa, đã bị hư hại nhiều do ẩm ướt, và những tấm màn che nặng trĩu tỏa mùi mốc theo thời gian vẫn treo trên các ô cửa sổ. Giờ thì nó trở thành một dạng phòng khách nào đó, có kê một cái trường kỷ bạc phếch và hai cái ghế. Khi nghe thấy tiếng chúng tôi tới, một cô gái xuất hiện ở cánh cửa bên. Cô ta gầy ốm và ăn mặc rất nghèo nàn. Trông thấy Arabella, cô ta lặng lẽ bước về phía chúng tôi để vào phòng.
Bên trong phòng, một người phụ nữ đang nằm trên một cái giường, một đứa bé nằm co trong vòng tay của cô ta. Khi chúng tôi bước vào, cô ta ngẩng lên, và dù đôi mắt của cô ta sưng mọng vì nước mắt, không thể nhầm được vẻ giận dữ trong ánh mắt dán vào Charles.
Charles đứng một lúc, nhìn lại cô ta đăm đăm. Trước kia, có lẽ không lâu lắm, cô ta khá xinh đẹp, nhưng giờ đây nét mặt của cô ta hằn sâu dấu tích của sự nghèo túng, mang một vẻ tuyệt vọng. Không nói lời nào, Charles đưa tay về phía đứa bé. Người phụ nữ quan sát bàn tay của anh, rồi, như thể nó làm cô ta ghê tởm, cô ta lùi lại. Charles thả rơi bàn tay xuống hông.
— Xin cô nào, Kitty - Anh nói - Tôi phải xem qua nó.
Cô ta nhìn chòng chọc anh một hồi lâu, rồi với một cử động co giật đột ngột, cô trao đứa bé cho anh. Charles ôm lấy nó và bế nó tới cái trường kỷ bên dưới cửa sổ, đặt nó nằm xuống. Khi kéo tấm chăn ra, anh không tỏ ra lưỡng lự, nhưng tôi cảm nhận được cảm giác do cảnh tượng nhìn thấy bên dưới chạy xuyên qua thân hình anh. Thằng bé gần như bất tỉnh, tiếng thở của nó phát ra thành từng hơi ngắn hổn hển, và thoạt tiên khó mà xác định mức độ của những vết thương, vì tất cả những gì thấy được chỉ là máu me và lớp da thịt bị hủy hoại.
— Một con chó đã làm chuyện này à? - Tôi hỏi, thấy hối tiếc ngay trong lúc nói vì cường độ của những từ mình nói.
— Chủ nó bảo rằng nó là một con chó nông thôn, rằng những chiếc xe ngựa đã khiến nó giật mình - Arabella nói khẽ.
Cô hầu gái ló đầu vào cửa:
— Không có xe cộ nào hết, con chó đã phát rồ.
Charles lắng nghe, mắt không rời khỏi đứa bé. Nét mặt anh trơ trơ vô cảm, như thể mọi cảm giác đã rút sạch ra khỏi nó.
— Mang nước tới giùm tôi - Anh nói khi cô gái nói xong - Và giẻ lau. Chúng tôi phải rửa sạch nó.
Trong bếp, Arabella lấy xuống từ trên lò sưởi một cái chậu, và đổ đầy nước vào đó, hai cánh tay của nàng ôm lấy cái bình nước trong lúc nàng rót. Nàng bé nhỏ hơn lúc đầu tôi nghĩ, và mỏng manh hơn, và khi nàng đứng tập trung vào công việc này, có một sự mong manh nào đó trong sự hiện hữu của nàng mà tôi chưa từng nhìn thấy trước đây. Khi trút hết lượng nước cuối cùng và nâng cái bình lên, nàng ngước lên, và tôi lại nhìn thấy cái cách thức nàng có vẻ như tồn tại trong chính bản thân nàng.
— Cô đã có mặt ở đó?
Nàng im lặng, rồi lắc đầu - Tetty ở đó với nó.
— Còn cô gái giúp việc?
— Anh ta đã cho cô ấy một đồng bảng Anh; thật là một quý ông tốt bụng.
Chúng tôi đứng cạnh nhau như thế một lúc, bị sự thấu hiểu về điều này xâm chiếm. Rồi nàng bê cái chậu lên, lúc này khá nặng vì chứa nước, và đặt nó vào hai tay tôi.
— Đây - Nàng nói - Hãy mang nó vào phòng. Tôi sẽ đi lấy một ít giẻ - Đôi mắt nàng đều đặn và trong sáng.
Charles bảo mấy người phụ nữ ra ngoài trước khi chúng tôi bắt đầu, Arabella và cô gái giúp Kitty rời khỏi giường và đưa cô ta sang căn phòng mé ngoài. Sau đó chúng tôi nhúng nước và lau sạch lớp máu trên người thằng bé, thận trọng để không chạm vào những vết thương đã bắt đầu rỉ máu trở lại. Nhiều lần nó tỉnh lại trong chốc lát, ú ớ và rên rỉ, và có lần ngẩng nhìn lên với vẻ sáng suốt đột ngột, nhưng đa phần nó nằm im lìm. Khi mức độ tổn thương của nó đã lộ ra, nét mặt Charles hiện lên một vẻ nặng nề, như thể anh đã biết trước rằng trận chiến sẽ thua. Cánh tay phải bị phá hủy, mất hai ngón tay, lớp thịt trên cẳng tay và cùi chỏ bị xé toang nhiều chỗ đến mức có thể nhìn thấy xương và gân, trắng một cách khó chịu trên dòng máu đang ri rỉ; trong khi khắp nơi trên hai vai, cổ và ngực là những vết bầm tím và những vết thương xuyên thủng. Nhưng chính mặt và đầu là hai chỗ tệ nhất, lớp da đầu của nó tróc khỏi sọ, tóc và thịt dính lủng lẳng trên một mảnh kinh khủng gần vành tai. Có lẽ nó từng là một cậu bé đẹp trai, nhưng giờ đây gương mặt hầu như đã bị hủy hoại, lỗ mũi và đôi gò má tím bầm, con mắt phải nhìn ra một cách mù quáng từ một khối thịt đang rỉ máu, mí mắt hoàn toàn bị lột mất.
Khi những vết thương đã sạch, chúng tôi bắt đầu. Charles đính và khâu một cách thận trọng, phủ lại lớp da đầu lên sọ, khép kín những vết thương có thể. Một giờ trôi qua, rồi hai giờ, và thêm nữa, thời gian cứ lướt trôi trong lúc chúng tôi tập trung vào công việc chuyên môn cẩn trọng của mình. Lúc này thằng bé vẫn còn hôn mê, rên rỉ và lẩm bẩm khi những giấc mơ rượt đuổi nhau qua tâm trí nó, vô ý thức một cách khoan dung với những gì đang được tiến hành trên người nó. Bàn tay không còn cứu chữa được, và chúng tôi cắt đi một phần trước khi chữa trị các vết thương. Khi lưỡi cưa cắt qua những chiếc xương nhỏ bé, tôi trông thấy một vẻ khiếp sợ làm biến dạng khuôn mặt đẹp trai của Charles, nhưng dù sao đi nữa anh vẫn tiếp tục. Khi hoàn tất, chúng tôi cẩn thận băng bó cho nó, bế nó tới giường và đặt nó xuống giữa giường. Hơi thở của nó nông và chậm.
Kitty và Arabella ngồi trên chiếc trường kỷ. Đầu của Kitty tựa vào lòng của Arabella. Khi chúng tôi vào, Kitty đứng lên, cô ta đưa mắt tìm kiếm trên mặt của Charles một dấu hiệu nào đó. Charles tới gần cô ta, và tôi ngạc nhiên khi thấy Kitty vòng tay ôm lấy cổ anh vào kéo ép anh sát vào người mình, từ cơ thể cô ta phát ra một âm thanh dài, quặn thắt. Arabella đặt một bàn tay lên vai Kitty.
— Chúng tôi đã làm những gì có thể làm - Charles nói với Arabella.
Arabella vẫn im lìm, và ba người bọn họ cứ đứng như thế một lúc lâu, cho tới khi Charles gỡ đôi cánh tay của Kitty khỏi cổ mình và giao cô ta lại cho Arabella.
— Giờ chúng tôi có thể vào thăm nó chứ - Arabella hỏi.
Charles gật đầu:
— Nếu nó trở nên tệ hơn thì nhắn cho tôi nhé.
Arabella và Kitty đi tới cửa phòng ngủ. Cô gái giúp việc cũng đi theo, nhưng dừng lại ở ngưỡng cửa, đứng nấn ná ở lối ra vào, quay lưng về phía chúng tôi.
Từ bên trong phát ra tiếng rì rầm, rồi cô gái giúp việc quay đi, nhìn xuống nền nhà. Cử chỉ đó nói rất nhiều điều. Không cần phải nói, ai cũng có thể biết chính cô ta là người chịu trách nhiệm về đứa trẻ khi nó bị tấn công.
— Đi thôi - Charles nói - Chúng ta không còn làm thêm được điều gì ở đây nữa.
Bên ngoài, buổi bình minh đã đến và trôi qua. Len lỏi tìm đường băng qua vũng bùn cứ hút chặt lấy gót ủng, chúng tôi chậm rãi đi về hướng tây. Đó đây, những công việc trong ngày đã được bắt đầu - một người đánh xe đang chải lớp lông bóng mượt của con ngựa, một cô hầu đang trút nước từ một cái xô vào đường lộ, những người quét đường đầu tiên trong ngày đang làm việc ở các góc phố - nhưng phần lớn các con phố vẫn còn trống vắng sự sống. Charles không nói năng gì, sự im lặng của anh chặn đứng các câu hỏi của tôi.
Ở phía trước Ngân hàng Drummond, nơi chúng tôi phải chia tay nhau, một trong những chiếc xe cút kít trên đường tới chợ đã bị lật, số củ cải trong xe đổ tháo vương vải trên lớp đá lát đường và đang thu hút sự chú ý của một con heo. Nó ủn ỉn dừng lại và lần theo mớ củ cải. Cố cứu vãn một cách tuyệt vọng hàng hóa của mình, người chủ xe cút kít, một gã đàn ông tiều tụy có bước đi vặn vẹo, đang cố vung một chiếc gậy để đánh đuổi con heo. Ông ta là một người nhỏ thó, ốm yếu, trong lúc con heo là một con vật khổng lồ trong chủng loại của nó, với cái bụng oằn xuống và đôi nanh vàng. Có vẻ như nó không hề nhụt chí, mỗi nhát gậy chỉ đơn giản khiến nó kêu eng éc và lảo đảo né sang một bên trên mấy móng chân thanh nhã một cách phi lý của nó, nhưng vẫn không ngừng ngốn ngấu. Không rõ đó là heo của ai, nhưng cảnh tượng này đã thu hút sự chú ý của một nhóm ba cậu nhóc con. Lúc này chúng đang vọt tới chỗ chiếc xe cút kít, háo hức nhét mớ củ cải vào trong áo và mấy cái túi, trong lúc người chủ nhân đã phát rồ thở phì phò và cố tóm lấy chúng, ngay cả trong lúc ông ta đang chiến đấu với con heo.
— Chúng ta có thể làm gì cho những người sinh sống như thế này? - Cuối cùng Charles hỏi. Những lời của anh hướng tới chính bản thân anh cũng như tới tôi.
— Đứa bé đó sẽ chết phải không? - Tôi hỏi lại.
Charles gật đầu, không nhìn tôi:
— Rất có khả năng đó.
Lúc này chủ của xe củ cải vừa đập trúng mũi của con heo. Cú đập nhanh và mạnh, và rõ ràng là nó rất có tác dụng, vì con heo ngóc đầu và rống lên giận dữ, hơi thở nóng hổi của nó bốc hơi trong bầu không khí lạnh giá khi nó quay sang tập trung vào kẻ tấn công nó. Thấu hiểu tình thế, người đàn ông lùi lại một bước, nhưng ngay khi đó một trong ba thằng nhóc ném một củ cải vào đầu ông ta. Bỏ quên con heo, ông ta chạy vòng vòng, vung cây gậy và cố tóm lấy kẻ tấn công.
— Kitty có phải là một diễn viên như Arabella không? - Tôi hỏi. Charles quay sang như thể lần đầu tiên nhận ra tôi.
— Trước kia, giờ thì không - Anh đáp. Người chủ xe củ cải đã tóm được cổ áo của một đứa trong bọn, xoay nó vòng vòng, chỉ để chính mình bị hụt chân và té một cú khá nặng xuống mặt đá lát đường.
— Tôi thấy không có lý do gì để thầy Poll và Robert biết về những gì đã xảy ra đêm nay - Charles đột ngột nói, những lời của anh cẩn trọng nhưng cân nhắc.
— Tất nhiên - Tôi đáp. Chúng tôi đứng hồi lâu, rồi không nói lời nào, anh quay lưng và bước đi, băng qua không gian hầu như trống vắng của ngã sáu Charing Cross, thân hình anh nhòa đi trong màn sương mù lơ lửng trên mặt đất, cho tới khi hình dáng của anh hoàn toàn khuất hẳn.