Chương 7
Thầy Poll rũ lá thư bung ra, đọc lướt nhanh qua nó.
— Gì vậy thầy? - Charles hỏi. Như thể nó không có gì quan trọng, thầy Poll trao nó cho Charles để anh đọc lớn cho chúng tôi nghe. Nó đến từ ngài Astley, thông báo cho thầy Poll biết những kết quả của một cuộc khám nghiệm tử thi tiến hành trên một phụ nữ, người cho tới cách đây hai ngày là một bệnh nhân của chúng tôi.
— Caley sẽ mang thi thể của cô ta tới chỗ chúng ta - Charles nói, và thầy Poll gật đầu. Không chút tình yêu nào mất đi giữa ông và đối thủ của ông. Những cung cách tử tế vờ vĩnh của Astley chẳng tác động mấy tới thầy Poll. Không còn ngờ gì nữa, lá thư của ngài Astley là nhằm mục đích chọc tức, bất chấp cái vẻ quảng đại của nó. Thầy Poll suy nghĩ khoảng một hai giây rồi nhìn tôi.
— Gọi anh Tyne vào đây. Bảo anh ta tôi muốn nói chuyện với anh ta.
Tyen đang ở căn phòng bên dưới. Hắn ngẩng lên khi tôi bước vào. Dù thái độ xử sự của hắn đối với thầy Poll không thay đổi, tôi cảm thấy hắn đã thay đổi thái độ đối với tôi kể từ sau cái đêm Lucan ghé tới, một sự gắt gỏng do ngờ vực nào đó. Khi đã nghe kể về lá thư của ngài Astley và được hỏi chuyện này là thế nào, khi chúng tôi đã yêu cầu Caley mang cái xác đó đến chỉ cách đây hai ngày, hắn bảo hắn không biết gì hết.
Thầy Poll mím chặt môi, cử hắn đi tìm Caley để có một lời giải thích, nhưng hắn quay về với kết quả ít hơn dự đoán của chúng tôi. Theo giải thích của Caley, cái huyệt chôn người phụ nữ đó trống trơn, cái xác đã bị kẻ khác lấy đi. Khi thầy Poll hỏi Tyne rằng có khi nào Caley nói dối với hắn chăng, rằng có thể chính Caley đã bán cái xác đó cho người của ngài Astley, nét mặt của Tyne đanh lại, vất bỏ đi cái cung cách đầy tinh thần trách nhiệm của hắn.
— Hắn quá thân cận với họ - Charles nói khi Tyne đã đi khỏi.
— Các cậu nghĩ anh ta nói dối vì họ à? - Giọng của thầy Poll có vẻ gay gắt. Khi không ai trong số chúng tôi trả lời, ông phẩy tay.
— Đi đi. Tôi không muốn nhắc lại chuyện này nữa.
Đêm đó, một mình trong phòng, tôi lắng nghe thầy Poll và Charles nói chuyện bên dưới, giọng họ khẽ và nhanh. Theo ý của Charles, chúng tôi sẽ làm rõ chuyện này với ngài Astley để biết cái xác đã đến chỗ ông ta bằng cách nào, nhưng thầy Poll không đồng ý. Bức tường mà tôi tựa lưng vào khá lạnh, nhưng thứ thấm thía nhất không phải cái lạnh của không khí mà là hình ảnh trong ký ức về Arabella, là nhận thức về những khả năng bên trong con người nàng khi nàng đứng rót nước vào nồi. Dù tôi không có dịp gặp lại nàng, nàng đã thường xuyên xâm chiếm những ý nghĩ của tôi. Tôi muốn hỏi Charles về nàng, nhưng sự im lặng của anh đối với những sự kiện trong đêm hôm đó dường như ngăn cấm tôi làm điều đó, và lời tôi hứa sẽ giữ kín bí mật những sự kiện đó đã ngăn cản không cho tôi hỏi về nàng với Chifley, Caswell hay những người khác. Nhiều lần tôi những tưởng đã thoáng nhìn thấy nàng trên phố, đang đi trước một đám đông hay đi ngang qua một cỗ xe ngựa, nhưng mỗi lần như thế, sự giống nhau biến mất khi tôi tới gần hơn. Có lần, chỉ có tôi và Chalres trong một quán rượu gần Drury Lane, tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy nàng đang trò chuyện với một phụ nữ khác trên đường phố bên ngoài, nét mặt nàng bị biến dạng đi do những vết rạn trên kính cửa sổ, nhưng khi đi tới gần nàng lại quay đi, và dù tôi cố tìm cách gặp nàng lần nữa, tôi không thể, và nàng đã bỏ đi.
Tôi bắt gặp May bên ngoài hiệu sách Dryden’s. Hôm nay là một ngày lạnh, u ám, đường phố quánh lại vì một làn sương mù dường như ngày càng trĩu nặng hơn cùng với buổi chiều đang buông xuống. Lớp tuyết của tuần trước đã tan, lớp rơm trải lên bên trên tuyết đã chuyển thành màu đen và trơn trợt vì bồ hóng và băng.
Dù chỉ cần một lần hụt bước, người ta có thể té lăn quay, May vẫn vội vã đi một cách bất cẩn, đầu cúi gằm và một bàn tay giơ ra phía trước, nửa phần đầu mấy ngón tay của hắn hơi co lại và lúc lắc như để chuẩn bị cho một sự khiển trách hoặc lời giải thích nào đó mà hắn đang dượt lại trong đầu để đối phó với bất kỳ ai có thể tìm cách trì hoãn hắn. Dừng lại cạnh cánh cửa gần hiệu sách, hắn lục lọi túi để tìm một chiếc chìa khóa. Không hề nghĩ ngợi gì, tôi cất tiếng gọi hắn. Hắn ngẩng lên ngay tắp lự.
— Gabriel - Hắn kêu lên, hớn hở bắt tay tôi.
Tôi nhe răng cười, bị tước vũ khí bởi sự nồng nhiệt của hắn. Đã nhiều tuần trôi qua kể từ lần cuối hắn cặp kè với chúng tôi trong một chuyến phiêu lưu và tôi ngạc nhiên khi nhận ra rằng tôi đã thấy nhớ hắn.
— Cái gì đưa cậu tới đây vậy?
— Một việc vặt cho thầy tôi - Tôi đáp - Còn anh? Anh đi đâu đây?
— Về nhà, ở đây - Hắnnói, chỉ vào cánh cửa.
— Vội vàng đến thế sao? - Tôi hỏi, bật cười.
Nghe nói thế, đột nhiên hắn có vẻ hoang mang.
— Tôi vừa tới gặp ông già bào chế thuốc Ruthven - Hắn nói vội, rồi bồn chồn cười lớn, một tiếng cười có âm sắc cao như tiếng huýt gió. Hắn nhìn vào cánh cửa rồi quay lại phía tôi.
— Đi nào - Hắn nói, đã hoàn hồn lại - Tôi sẽ chỉ cho anh xem mấy căn phòng của tôi.
Phía sau cửa, những thứ đã vất đi hoặc không còn dùng đến nằm ngổn ngang lộn xộn trên các bậc thang: những cái ghế và thảm, những cái lồng chim, một cái bàn viết. Khi tới gần cửa, May bảo tôi rằng chúng là tài sản của chủ nhà, một người đàn ông có năng khiếu tích lũy các thứ có giá trị đáng ngờ. Rồi May chỉ vào vật này, rồi vật nọ, giải thích về từng thứ một, những từ ngữ của hắn tuôn theo một dòng chảy tràn trề, mỗi câu chuyện bắt đầu trước khi câu chuyện trước kết thúc, trước khi vòng lại để tự khôi phục chính nó, cho tới khi cuối cùng tôi cười phá lên, và hắn đứng nhìn chòng chọc vào tôi một hồi lâu, bối rối, trước khi chính hắn cũng bật cười.
— Đây - Hắn nói, dẫn tôi đi lên. Cầu thang dốc đến độ gần như là một cái thang. Vẫn còn cười lặng lẽ, tôi bước theo hắn lên cầu thang và bước qua cánh cừa ở trên cùng. Căn phòng tối mù, chỉ có một khoảng không gian sáng lờ mờ nhờ ánh sáng xuyên qua những tấm kính che cửa sổ mái nhà. Dù có một cái lò sưởi ở góc phòng, không khí khá lạnh lẽo, và trong khi May quẹt một que diêm để thắp nến, tôi kéo áo khoác của mình sát vào người. Chỗ này trông có vẻ như đã được bày biện bằng các thứ đồ đạc lấy từ bộ sưu tập trên cầu thang, mọi thứ đều rách tươm và hư vỡ, không món nào hợp với món nào. Cạnh lò sưởi là một cái ghế bành có trùm một tấm chăn, những lớp độn bên trong lòi ra sau lưng ghế; đối diện là một cái trường kỷ cũ, đã mất một chân và được chống tạm bằng một chồng sách; bên dưới khung cửa sổ có một cái ghế mà bên trên là một cuốn sổ phác họa. Nhưng số lượng của những thứ đồ đạc này bị áp đảo bởi những tấm vải bạt dựng sát vào các bức tường, và những tấm ván, khăn trải giường chất thành đống trên mọi bề mặt có thể hình dung.
Khi nến đã được thắp lên, May kéo một cái chai bẹp từ trong áo khoác ra, và rót một ít vào một cái cốc đặt trên sàn nhà. Dù việc này được thực hiện một cách công khai tôi vẫn quay đi, có gì đó trong cung cách tiến hành nó khiến cho việc quan sát có vẻ như một sự xâm phạm.
Trên ghế, hai bìa cứng của cuốn sổ phác họa mở ra, và trên trang đầu tiên, có thể nhìn thấy một gương mặt, những nét phác đầu tiên của một thân hình. May đặt đôi kính mát xuống và bước tới gần.
— Cậu có vẽ không?
— Chút chút - Tôi đáp.
— Có lẽ hôm nào đó tôi sẽ dạy cho cậu một bài.
Mặt hắn có vẻ nôn nao.
— Có lẽ - Tôi đáp. Hai chúng tôi ngắm nhìn bức tranh một lúc.
— Vậy tối nay thầy của cậu đi đâu? - Hắn hỏi, vì lý do nào đó giọng hắn hạ thấp xuống, chùng hơn.
— Với con gái của ông, và Charles.
Hắn lặng im một lúc, rồi hỏi:
— Charles thế nào rồi?
Tôi ngạc nhiên nhìn hắn:
— Anh không gặp anh ta sao?
May lắc đầu, lắc nhẹ cái ly cầm trên tay.
— Người ta không cãi cọ với Charles - Hắn nói - Chắc chắn là giờ cậu đã nhận ra điều đó - Trong một lúc, May chỉ đơn giản đứng đó, rồi hắn bật cười, như thể để chối bỏ những gì vừa mới nói. Rồi hắn lại lặng im.
— Anh ta đã biến cậu thành bạn của anh ta rồi, phải không?
Tôi không trả lời suốt một hồi lâu. Tôi nhìn xuống, chỉ vào cuốn sổ phác họa trên ghế và hỏi:
— Cô gái này là ai?
May ngẩng lên khỏi cuốn sổ.
— Lại đây nào - Hắn nói.
Ở cuối phòng có một cánh cửa thấp mở nửa phần. May đẩy cho nó mở ra và lặng lẽ dẫn tôi vào. Trên giường, một cô gái đang ngủ, chiếc chăn tụt xuống, phơi bộ ngực và đôi vai ra trước bầu không khí lạnh như băng. Cô ta có làn da trong mờ của những phụ nữ tóc hung, hai núm vú hồng, nhỏ nhắn và cứng như núm vú của trẻ con. Đầu cô ta ngửa về sau, miệng hơi hé mở, nét mặt của cô ta là nét mặt của một người hay mơ mộng, lạc vào một nơi chốn ẩn giấu nào đó trong tâm hồn. Từ ngoài đường vọng vào tiếng lanh canh của một cỗ xe ngựa, những âm thanh và tiếng rao hàng cùa người bán rau quả dạo, nhưng ở đây thì yên tĩnh đến độ có thể nghe thấy được những hơi thở của cô ta, đều đều, dịu nhẹ. Tôi thấy mình đang đỏ mặt lên. Đây là một điều riêng tư - không phải là sự trần trụi của cô ta, mà là khả năng dễ bị tổn thương của cô ta.
— Cậu nghĩ cô bé có đẹp không? - May hỏi khi chúng tôi bước ra ngoài trở lại, mặt hắn có vẻ nôn nao.
— Cô ta là ai vậy?
— Tên cô ta là Molly.
— Cô ta là điếm à? - Tôi hỏi, giọng tôi cứng hơn mức bình thường. Một vẻ tổn thương hiện ra trên nét mặt của May.
Từ sau lưng chúng tôi phát ra một âm thanh. Cô gái đã ngồi lên, và đứng ở mé trong cánh cửa sau lưng chúng tôi, quanh người trùm một tấm chăn.
— Người này là ai vậy? - Cô ta hỏi.
— Gabriel - May đáp - Một anh bạn.
Cô ta chìa tay ra cho tôi và gửi tới một cái nhìn, một sự cảnh cáo về những hiểm họa của việc xâm phạm vào lãnh địa của cô ta. Khi thấy rằng tôi hiểu, cô ta mỉm cười, rồi đi tới chỗ cái ghế cạnh lò sưởi và ngồi xuống. Chân của cô ta ló ra từ tấm chăn, đôi bàn chân để trần, lòng bàn chân bẩn và dày do một nếp sống không giày vớ.
— Đốt lửa lên giùm tôi - Cô ta nói, và dù vẫn mỉm cười, trên mặt cô ta không có một nét dịu dàng nào. May gom một mớ than và đặt chúng vào lò sưởi.
— Anh ta xử sự cái kiểu gì vậy chứ? - Nàng hỏi, nhìn tôi - Một anh bạn họa sĩ khác của anh hả? Hay anh ta là một quý ông?
— Người ta không thể là cả hai hay sao? - May hỏi, mỉm cười. Trong lúc hắn nói tôi cảm thấy thương hại cho hắn, vì tôi thấy hắn yêu cô gái này với tất cả những gì tốt đẹp trong con người hắn.
Cô ta thốt lên một tiếng cười nhạo báng. Trong một lúc lâu May đứng nhìn cô ta, rồi, vừa mỉm cười nôn nao, hắn vừa quay đi, vớ lấy cái chai bẹp lúc nãy và rót thêm hai cốc nữa. Trên ghế, Molly dõi theo cử động của hai bàn tay hắn, và dù cô ta tìm cách che đậy điều này, tôi nhìn thấy cô ta thèm thuồng thứ chất lỏng trong chai như thế nào. May mang một cốc tới cho cô ta, và cô ta giơ tay vớ nhanh lấy nó. Cầm cốc bằng cả hai tay, cô ta uống nhanh, một chuyển động nhanh của cổ họng. Và rồi, khi uống cạn cốc, cô ta đặt nó sang bên, phớt lờ bàn tay đang giơ ra của May. Lúc này cô tay nhìn tôi và cười lớn, một âm thanh trầm trầm, mơ màng, tự chìm vào chính nó.
— Anh có muốn uống một chút không? - Cô ta hỏi, và quan sát tôi.
Tôi ngần ngừ, hai mắt dán vào Molly, rồi chậm rãi gật đầu.
Dù đã được lọc qua mùi rượu cháy ngòn ngọt, chất thuốc phiện vẫn còn đắng, một dư vị gay gắt phủ lên lưỡi và nấn ná trong vòm miệng. Thoạt tiên tôi không cảm thấy gì ngoài sức nóng của rượu mạnh, nhưng sau đó nó xuất hiện, một cảm giác thư thái len lén tuôn chảy khắp người tôi như một đợt thủy triều. Đầu tiên, thế giới dường như không thay đổi, sự thay đổi duy nhất là sức nặng trong kết cấu của một vật gì đó. Ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành của mình, May đang nói chuyện, giọng của hắn vừa to vừa có vẻ xa xôi, trong lúc đó Molly nằm ngửa đầu ra. Tôi cảm thấy một sự hiện hữu nào đó ép lên bầu không khí xung quanh, một thế giới khác, như thể căn phòng này, những cuộc sống này của chúng tôi, cái thế giới này, tất cả đều như một giấc mơ đang di động bên trên một không gian nào đó thẳm sâu hơn, giống như những làn sóng gợn lăn tăn trên bề mặt của một cái hồ bị mưa làm xáo trộn, xuyên thủng qua ở nơi này nơi khác và chuyển động chỉ để vượt qua nó, rồi nhòa nhạt dần; tri giác về nó đến như ký ức về một điều gì đó đã bị lãng quên mà tôi không biết, với một sự đúng đắn nằm sâu bên dưới lớp ngôn từ, như thể cuối cùng tôi đã hiểu ra bản chất, nếu như đó không chỉ là tên gọi, của sự trống rỗng đang nằm ngay giữa hồn tôi.
Tôi không chắc mình đã rời khỏi đó bao lâu, thế nhưng những đường phố bên ngoài đã vắng lặng từ lâu. Trên đầu, sương mù biến những ngọn đèn thành những ánh lửa vàng hực lập lòe rạng rỡ, như kim loại trong lò của một tay thợ rèn. Không có sức nóng, thậm chí không có tiếng ồn, dù ở tứ phía thế giới vẫn kêu tích tắc và rung động. Trên phố Old Compton, tôi nghe thấy tiếng cú kêu, rồi một con cú bay sà ngang đầu tôi, lớp lông nhạt màu dưới bụng nó và đôi cánh rộng của nó chậm rãi lướt qua bầu không khí nặng trĩu, hình dáng ma quái của nó gần đến độ tôi có thể giơ tay lên chạm vào nó. Một thời điểm sau đó, tôi nằm ngủ trên giường của mình, một giấc ngủ thoảng nhanh không chiêm bao mộng mị, cho tới khi tôi bị đánh thức bởi ánh bình minh vẩn đục, thân thể phủ đầy ký ức về những gì đã trôi qua, và giờ đây chỉ cảm thấy sự vắng mặt của nó, cái tri giác về sự mất mát của nó.
Mùa Giáng Sinh đến, mang lại tuyết và một sự thinh lặng cho những con đường thành phố. Tiếng chuông ngân băng qua những mái nhà, âm thanh của chúng trong veo như thủy tinh trong bầu không khí giá băng, những cỗ xe ngựa rít lên chói cả tai trên những phiến đá. Dù tôi không có gia đình riêng để về xum họp, theo lời mời của Robert, tôi trải qua đêm Giáng sinh với mẹ và em gái của anh tại một ngôi nhà ở thị trấn Kentish. Thật lạ khi trông thấy Robert như thế, cười nói và thoải mái vô tư với gia đình anh ấy, vì Robert không còn là chàng thanh niên nghiêm nghị mà tôi đã trở nên quen thuộc. Ở đây, anh làm hề và kể chuyện tiếu lâm, trêu ghẹo cô em gái cho tới khi cô bé bật cười và kéo tóc anh, rồi lại khiêu vũ với mẹ anh bên lò sưởi. Ngôi nhà không to lớn lắm: một tầng của một tòa nhà nằm cạnh một cánh đồng nơi lũ khỉ kiếm ăn, và đồ đạc trong nhà đều mòn xơ mòn xác, những trạng huống hoàn toàn khác với một thuở họ từng biết trước đây, nhưng ít ra là trong đêm nay, dường như những đồ vật này không làm họ phải âu lo, và họ có vẻ hoàn toàn hạnh phúc với bản thân và với nhau.
Dù họ muốn tôi ở lại như Robert đã dự định, tôi từ chối lời mời của họ. Robert được ông chú tặng cho một hộp xì gà, và anh ép tôi đốt một điếu khi hai chúng tôi đi bộ băng qua những cánh đồng lạnh giá lúc nửa đêm, hơi say và mụ đi chút chút vì khói thuốc. Bầu trời trên đầu trong trẻo, những cụm sao sáng lặng lẽ di chuyển vào những khúc quanh tối tăm của trái đất. Âm thanh duy nhất là tiếng rống của lũ bò khi chúng giật mình trong giấc ngủ. Chẳng bao lâu, có cái gì đó trong sự thinh lặng của đêm khiến cho chúng tôi im bặt, rồi tôi cảm thấy một sự trống rỗng nào đó ập xuống. Trong suốt buổi tối tôi đã cảm thấy nó hiện diện ở đó, như thể tôi quan sát niềm hạnh phúc của họ từ phía bên ngoài, cả những tràng cười rộ của tôi và những bài hát của chúng tôi cũng đều như ảo giác. Có lẽ Robert cũng nhận ra điều này, vì khi chúng tôi dừng lại cạnh cánh cổng đá nơi anh chào tạm biệt tôi, anh nắm chặt bàn tay tôi và giữ nó một hồi, một lần nữa nài nỉ tôi ở lại. Nhưng tôi lắc đầu và bảo anh rằng tôi sẽ không làm phiền nhiều hơn nữa, và thế là chúng tôi chào từ giã nhau trong bóng đêm.
Dưới bầu trời rộng mở, tôi chậm rãi bước quay về, băng qua những cánh đồng, những khu vườn để đi vào thị trấn Camden. Rồi từ đó đi ngang qua những quán trọ và ngôi nhà cuối cùng của những con đường quê để bước vào phố xá. Từ một cỗ xe, mấy thanh niên địa phương cất tiếng gọi tôi, và tôi vẫy tay, nhưng thật ra những ý nghĩ của tôi không dành cho họ. Nửa tháng đã trôi qua kể từ cái đêm tới nhà thằng bé, và trong thời gian đó Charles không hề nhắc về nó lần nào nữa. Ở ngoại diện, anh có vẻ như không thay đổi, nhưng đã có điều gì đó đổi thay: chưa quá hai đêm trước, trong quán Cock, anh đã quát nạt Chifley, anh đã trở nên dễ nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt. Thế nhưng sau đó anh lại năn nỉ chúng tôi, tâm trạng của anh bất ổn và mất kiểm soát, cho tới khi ngay cả Chifley cũng thấy sợ anh, và đêm đó chúng tôi bỏ những cuộc chè chén.
Bà Gunn đang ngủ ngồi trước ngọn lửa trong bếp lò, cuộn tròn trong chiếc ghế. Trên bàn là những gì còn lại trong bữa tối của bà, trên đùi bà là một hũ bia đen. Ngôi nhà bên trên im lặng như nấm mồ. Không thấy bóng dáng của Tyne đâu cả, vì thế tôi thận trọng đỡ bà ngồi dậy, và vòng tay quanh người bà, tôi đưa bà tới căn phòng ngủ của bà bên cạnh nhà bếp. Khi đỡ bà nằm xuống, bà nắm lấy tôi và cố dán một cái hôn lên miệng tôi, đôi môi nhăn nheo của bà lẩm bẩm điều gì đó mà lẽ ra tôi không nên nghe thấy, và xấu hổ cho bà, tôi rút lui. Căn phòng của tôi trên gác sẽ rất lạnh, vì thế tôi ngồi trước ngọn lửa, thả hồn vào những hình ảnh trong ánh lửa chập chờn.