Chương 8
Ngay cả ở đây, trong ngôi nhà này, nơi chúng tôi sống rất gần gũi với nhau, vẫn có khả năng cảm thấy cô đơn. Tôi đã hiểu được tính khí thầy tôi, cũng như tôi ngày càng kính trọng những lần im lặng của Robert. Có rất nhiều điều chúng tôi không nói ra, và nhiều điều tôi giữ cho bản thân mình. Nhưng những bí mật này đè nặng lên chúng tôi trong những khoảnh khắc thinh lặng, giống như trong những ngày sau đó. Tôi chẳng có gì nhiều để làm, chẳng có nhiều công việc ngoại trừ việc học, vì thế tôi rảnh rỗi, lang thang qua những căn phòng trống. Do đang dịp lễ Giáng sinh, chúng tôi không lên lớp, có ít bệnh nhân, và do đó, ít cần tới những cái xác.
Điều này có thể là một dạng phúc lành nào đó, vì trong mấy tuần vừa rồi, dường như Caley đã đổi tính. Dù chúng tôi vẫn cẩn thận không nhắc tới cuộc ghé thăm của Lucan, hắn có những cách khác để khám phá ra mọi chuyện. Nhưng dù có biết hay không, dạo gần đây hắn có vẻ thất thường, ít đáng tin cậy hơn, và khi có người hỏi han, hắn đáp lại với sự giận dữ và ngờ vực.
Vì vậy tôi rất ngạc nhiên khi bị Robert đánh thức vào cái đêm trước Năm Mới hai ngày. Anh bảo tôi Caley đang ở đây. Tôi ngồi dậy, cài cúc áo khoác và theo anh xuống tầng hầm, nơi Caley và Walker đang ngồi chờ cùng Tyne. Trông Caley có vẻ bực dọc, đi lại một cách nôn nóng.
Hai cái bó họ mang tới đang nằm trên sàn nhà. Dưới sự quan sát của Caley, chúng tôi quỳ xuống để kiểm tra chúng. Robert mở cái bao lớn trước. Nó có một hình dáng kỳ quặc, và khi anh ngồi lại trên hai gót chân, tôi hiểu ra lý do. Bên trong, là hai đứa bé, thân hình của chúng xoắn vào nhau như thể chúng nằm gối lên nhau trong giấc ngủ vô tư. Robert không nói năng hay cử động gì một hồi lâu: không ai trong hai chúng tôi có chút cảm tình nào với việc mua xác của trẻ con, dù thỉnh thoảng chúng tôi làm chuyện đó.
— Chúng là một cặp song sinh - Caley nói.Thật sự, dù một đứa là trai còn đứa kia là gái, cả hai đứa đều giống hệt như nhau. Robert thò tay ra và thận trọng sờ vào mặt và cổ của chúng, tìm kiếm xem có dấu hiệu nào cho thấy chúng đã bị hủy hoại hay không.
Khi bàn tay của Robert lướt qua làn da của hai đứa trẻ, tôi cảm thấy Tyne trở nên bất động một cách kỳ lạ bên cạnh tôi. Liếc mắt lên, tôi trông thấy cái cách hắn nhìn, cách toàn bộ sự chú ý của hắn tập trung vào hình dáng nhỏ xíu của chúng. Và đối diện với tôi, Caley cũng quan sát hắn. Không nói lời nào, hắn đưa mắt nhìn tôi, một nụ cười xuất hiện trên môi hắn, và tôi nhận ra hắn quan sát Tyne không như người ta quan sát một kẻ tòng phạm hay một người bạn, mà như quan sát một kẻ các nhược điểm của y hắn hoàn toàn thấu hiểu.
Với một dấu hiệu của Robert, chúng tôi nhấc cả hai cái xác lên đầu bàn. Sau đó, tôi rút con dao ra, quỳ xuống để cắt những sợi dây cột cái bó thứ hai, cái bao nhỏ hơn. Tôi cảm thấy một sự khốn khổ nào đó: có thứ gì đó kinh khủng đang nằm trong cái bao này, một điều gì đó vô nghĩa và u mê trong những cái vỏ rỗng không này. Và rồi, khi kéo cái xác ra, tôi nhìn thấy những đường khâu, gương mặt đã bị hủy hoại của thằng bé.
— Gì vậy? - Robert hỏi. Thoạt tiên tôi không thể thốt nên lời, chỉ ngồi xuống, bàn tôi giơ lơ lững ngay bên trên lồng ngực bé nhỏ của đứa bé.
— Gabriel?
— Chúng ta không thể nhận cái xác này - Tôi nói, ngả người về phía sau.
— Tại sao không? - Anh quỳ xuống cạnh tôi.
Tôi chỉ lắc đầu, không chắc phải nói thế nào. Đứa bé này là Oliver, con trai của Kitty. Robert đưa tay ra và sờ vào nó.
— Nó đã bị đánh dấu - Tôi nói, ra hiệu về phía lớp da đầu và bàn tay đã bị hủy hoại; những đường khâu của Charles, một công trình chắp vá kinh khủng.
— Chúng ta không còn khả năng kén cá chọn canh - Robert nói.
Sau lưng chúng tôi, Caley đang quan sát.
— Nó chết lâu rồi - Tôi nói.
— Có lẽ là hai tuần. Không lâu lắm trong thời tiết này.
Tôi lắc đầu, khăng khăng:
— Chúng ta không thể nhận nó.
Robert liếc mắt về phía sau nhìn Caley rồi nghiêng người sát vào tôi.
— Anh bảo chúng ta sẽ không nhận nó nhưng anh không đưa ra được lý do khả dĩ nào - Anh giữ cho giọng mình thật khẽ nhưng tôi nghe thấy sự bực mình trong đó.
— Tôi đã đưa ra cho anh hai lý do - Tôi nói.
— Và tôi đã nói không lý do nào đầy đủ cả.
Lại nhìn xuống Oliver tội nghiệp, tôi lắc đầu - Xin anh, đừng nhận nó.
Caley tiến tới gần hơn, ánh mắt hắn chuyển từ thằng bé sang tôi.
— Gì vậy?
Dù hắn kềm chế, có thể nhìn thấy sự đe dọa trong thái độ của hắn. Robert nhìn tôi một lần nữa. Rồi, như thể vì lý do nào đó tôi đã thuyết phục được anh, anh quay sang Caley.
— Chúng tôi không thể nhận đứa bé này.
Nét mặt Caley tối sầm, nhưng trước khi hắn có thể nói, Tyne đã bước tới, một bàn tay giơ lên để ngăn hắn lại.
— Tại sao không? - Tyne hỏi.
Im lặng bao trùm, rồi Robert lắc đầu.
— Những vết thương của nó tệ quá - Anh nói, giọng anh vẫn đều đều, như thể không có gì phải nói thêm về chuyện này. Nhưng Tyne không dễ bị gạt ra như thế. Hắn quỳ xuống, đưa một tay sờ vào gò má của đứa trẻ. Cái vẻ thân mật trong cử chỉ này không hay ho chút nào, và tôi thầm ước, trong lúc mấy ngón tay cứng còng của hắn quét qua lớp thịt trần trụi đó, rằng giá mà tôi có thể ngoảnh nhìn sang chỗ khác.
— Chúng ta từng nhận những xác tệ hơn - Hắn nói, thăm dò lồng ngực và những khoảng kín bên dưới hai cánh tay - Các cậu phản đối điều gì ở cái xác này? - Khi chúng tôi không đáp, hắn ngẩng lên, đầu tiên là nhìn Robert.
— Tôi hiểu - Hắn nói - Không phải cậu phản đối mà là cậu ta - Tiếp đó hắn nhìn tôi - Tôi nghĩ là cậu biết điều gì đó về đứa trẻ này - Mặt hắn đột nhiên gần đến độ tôi có thể ngửi thấy mùi thối chua lòm từ hơi thở hắn - Phải thế không?
Tôi lắc đầu, dù đôi mắt tôi phản bội lại tôi.
— Đây là quyết định của tôi - Robert nói, đưa người ra che chở tôi. Tyne không nhúc nhích, nhưng hắn chậm chạp chuyển ánh mắt sang mặt Robert. Cuối cùng hắn thốt lên một tiếng phẫn nộ rồi quay đi.
Dù không mấy hài lòng, Caley vẫn cột ràng đứa bé lại như cũ và cùng với Walker quay trở ra bóng đêm. Tyne nấn ná trong phòng, quan sát chúng tôi lau rửa thân thể của hai đứa bé song sinh. Vì sự có mặt của hắn ở đó, tôi không thể nói gì, và điều này khiến tôi đau xót, bởi lẽ trong không khí im lặng tôi cảm nhận được một sự phiền trách khiến cho tôi xấu hổ. Chỉ khi chúng tôi đã xong việc, chỉ còn lại Robert và tôi, tôi mới có thể thốt nên lời.
— Cám ơn.
Robert quay lại ở đầu cầu thang, và trong suốt nhiều giây chỉ đứng nhìn tôi.
— Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra đêm nay, Gabriel, và tôi cũng không quan tâm. Nếu anh muốn giữ bí mật thì đó là việc riêng của anh.
— Bí mật này không phải của tôi - Tôi nói, nhưng anh lắc đầu.
— Cứ cho là thế - Giọng anh vẫn bình thường, nhưng tôi nghe thấy sự giận dữ trong đó - Tôi chỉ lưu tâm tới việc những bí mật đó sẽ không theo anh về ngôi nhà này lần nữa.
Tôi gật đầu, nhưng anh chưa nói hết.
— Chuyện này rất tệ. Caley là người của Tyne và việc mua bán cũng mang lợi tới cho hắn.
— Tôi rất tiếc về việc anh phải cãi nhau với hắn để bênh vực cho tôi.
— Tôi không lo cho mình - Anh đáp - Tyne là một gã cần phải cảnh giác và tối nay anh đã khiến cho hắn thất thu.
Cùng với sự chuyển đổi của năm, thời tiết ngày càng tệ hơn, những cơn mưa rét buốt nhường chỗ cho những trận mưa đá đen ngòm và những trận gió điên cuồng gào rú. Trong tầng hầm, những trụ băng hình thành trên những rui xà; băng che kín nước trong những cái xô, trong mọi căn phòng, cái lạnh ngày càng tăng lên theo từng ngày. Rồi, không có một dấu hiệu cảnh báo nào, những cơn gió quay sang hướng bắc, và tuyết rơi suốt cả đêm, sạch và trắng tinh khôi, lặng lẽ di chuyển về hướng đông, trải thảm lên những mái nhà u ám và biến cả thành phố thành một địa điểm của vẻ đẹp khắc nghiệt, những chóp nhà thờ chỉa lên như những chỏm núi trùm tuyết trắng, những hàng cây vươn nhánh trơ trụi vào không gian lạnh lẽo, bị cắt thành từng đoạn bởi lớp băng lóng lánh.
Và cùng với tuyết là một sự thinh lặng, như thể thành phố trở nên bất động vì sức nặng của nó. Trong những nghĩa trang và công viên, những hình dáng co ro di động ngang qua khoảng đất đóng băng, thu gom nhánh cây để làm củi đun, để sưởi ấm thân hình, và trên các con phố, những cỗ xe ngựa và mọi người vẫn còn đi lại, nhưng với số lượng ít hẳn đi, và cử động của họ kém phần hối hả.
Không có lời nào nhắc tới vụ tôi từ chối mua đứa trẻ. Nhưng Tyne không hề quên: dạo này hắn theo dõi tôi sát sao hơn, và có hai lần tôi chắc chắn tôi đã nhìn thấy hắn trên phố từ khóe mắt. Có lẽ câu chuyện sẽ dễ chịu hơn nếu hắn nói cho thầy Poll biết; theo cách nào đó, sự im lặng của hắn đáng ngại hơn nhiều, và tôi thấy rất khó chịu.
Trên phố Prince’s, ngay trước nhà thờ Thánh Ann, một đàn quạ đi lại trên mặt đá lát đường, thu nhặt thức ăn theo những vết lại qua của những cỗ xe băng qua lớp tuyết - một màu đen nổi lên trên màu trắng. Bầu trời trên đầu sà thấp, nặng trĩu và tím ngắt. Tiếng chuông trên tháp đổ dồn, âm thanh nghe rất lớn trong sự tịch mịch của buổi sáng giá lạnh, và khi chuông ngân tôi dừng lại, nhìn ngược về hướng ngôi nhà thờ hiện ra như một khối mờ mờ. Qua dãy lan can của nghĩa trang, tôi thoáng thấy mái đầu của những người đưa đám, những cái mũ chóp cao của mấy người phu mai táng và cỗ quan tài trên vai họ chỉ hiện ra khi nó được khiêng ngang qua khoảnh đất trống.
Tôi cứ đứng như thế suốt nhiều giây, nhìn đăm đăm, rồi tôi chậm chạp quay đi và băng ngang mặt đường lún sâu để đi tới cổng. Khối sắt bên dưới bàn tay tôi lạnh ngắt. Cả ở đây cũng trắng toát, những tấm bia đá chen chúc lẫn vào nhau. Ở một số nơi, những cái huyệt há hốc miệng, tối đen trên nền tuyết, gần giống như những cánh cửa trống rỗng mở ra trong lòng đất. Lúc này những người đưa đám đã dừng lại bên dưới tán lá trơ trụi của một cây sồi, cỗ quan tài được hạ xuống, rồi giọng của vị linh mục cất lên.
Một sự tĩnh mịch bao trùm lên nghĩa trang, cái không gian thinh lặng của những nghĩa trang ở mọi nơi. Cạnh huyệt mộ, một người đàn bà đang khóc, đầu bà ta gục xuống; người thanh niên đứng cạnh bà ta, có lẽ là con trai bà, vì cậu ta còn trẻ, đưa tay ra để an ủi bà ta, nhưng bà ta không đón nhận, và gạt nó ra với một sự dứt khoát gần như thô bạo, cử động này khiến mọi thứ im bặt, ngay cả giọng của vị linh mục. Người thanh niên vẫn đứng đó, bàn tay chìa ra, người phụ nữ nhìn một cách dữ tợn ra trước mặt, và nhóm người tụ tập nhỏ bé lao xao một cách khó chịu.
Đột nhiên có cảm giác như mình đang xâm phạm, tôi quay lưng lại và rời khỏi đó - và ngay lúc đó tôi nhìn thấy nàng trên con đường bên ngoài cánh cổng. Khi mắt chúng tôi gặp nhau, nàng ngần ngừ, như thể muốn chuồn đi nhưng vẫn đứng đó bất chấp ý muốn của chính nàng và giờ đã bị tóm được.
— Tôi e là tôi sẽ không thích lý do vì sao anh có mặt ở đây - Nàng nói, khi chúng tôi tới gần nhau.
Tôi lắc đầu:
— Tôi đứng nhìn đám tang, chỉ có thế.
Nàng dò xét nét mặt của tôi. Rồi với một cử động nhỏ, nàng liếc ra qua vai tới những tòa nhà mọc lên ở mé bên kia phố Prince’s. Những ô cửa sổ bên trên chúng mở ra trống rỗng.
— Đi với tôi - Nàng nói.
Nàng bước nhanh, như thể mong muốn rời khỏi chỗ này.
— Đi bộ trong một ngày như hôm nay thật là vất vả - Cuối cùng tôi lên tiếng - Cô định đi đâu?
— Tới chỗ một người bạn - Nàng đáp. Tôi nghe thấy sự lãng tránh nhưng không muốn thúc ép nàng. Nàng đang run lẩy bẩy, ép hai cánh tay sát vào người; dù mũ và cổ áo của nàng làm bằng lông, cái áo khoác nàng mặc khá mỏng, và mặt nàng đỏ ửng vì lạnh.
— Tôi rất tiếc khi biết về mất mát của Kity - Tôi nói, câu nói của tôi vụng về đến nỗi tôi thấy hối tiếc vì nó ngay lập tức. Nhưng nàng không tỏ ra dấu hiệu nào rằng tôi đã xúc phạm. Thay vì vậy, trông như thể có điều gì đó trong câu nói của tôi đã làm cho nàng phải ngạc nhiên.
— Một đứa trẻ chết đi luôn là một chuyện buồn - Nàng cất tiếng, rồi quay đi. Lời của nàng có vẻ gay gắt, nhưng trong giọng nói có một điều gì khác.
— Kitty thế nào rồi?
— Đó là một sự kiện đau lòng. Và trước đó chị ấy cũng không khỏe lắm.
Câu đáp cuối cùng này mang lại sự im lặng giữa chúng tôi trong một lúc.
— Tôi đã không còn hy vọng được gặp lại cô - Tôi lên tiếng, người tôi run lên, lại thấy hối tiếc về những lời vừa thốt. Thế nhưng nàng không bật cười mà cũng không chế giễu.
— Công việc của anh có mang đến cho anh hạnh phúc?
Tôi ngần ngừ:
— Đó là ý định của người giám hộ, rằng tôi nên có một nghề nghiệp để tự lo cho bản thân mình.
— Cha mẹ của anh ra sao?
— Họ đã qua đời.
Nàng gật đầu, nhìn vào và nhìn xuyên qua con người tôi, như thể tôi không hoàn toàn có thật, hoặc nàng đã nhìn thấy ở tôi một điều gì đó đã bị quên lãng từ lâu.
— Còn cha mẹ của cô? - Tôi đánh bạo hỏi.
Nàng im lặng trong chốc lát, rồi quay đi chỗ khác:
— Cũng đã qua đời, lâu rồi.
Tôi chờ đợi, nghĩ nàng sẽ nói tiếp, nhưng thay vì vậy, nàng lại lặng thinh một lúc.
— Tôi có công việc ở đây, anh Swift - Nàng nói - Mong anh thứ lỗi cho.
Tôi cúi đầu chào. Nàng đứng nhìn tôi một lúc lâu.
— Tôi không nghĩ chúng ta sẽ gặp lại lần nữa - Cuối cùng nàng nói, rồi, với chiếc áo vẫn quấn chặt quanh người, nàng quay đi, bỏ tôi đứng lại ở đó dõi theo hình dáng của nàng khi nó ngày một xa dần ở cuối đường. Cuối cùng, tôi cảm thấy có vật gì đó trên gò má mình, và ngẩng đầu lên, tôi thấy tuyết lại rơi lần nữa, những hoa tuyết trắng ngần trôi bồng bềnh và xoay tít trong bầu không gian giá lạnh.
Ở phòng khám bệnh, tôi quan sát Charles trút một liều cà độc dược vào một cái chai.
— Có chuyện này tôi phải nói với anh - Tôi nói, biết rằng anh đã để ý tới sự im lặng của tôi.
Anh mỉm cười:
— Thế à, chuyện gì vậy?
— Ba đêm trước, khi Caley tới, tôi đã khiến cho một trong mấy cái xác hắn mang tới bị khước từ.
— Nó đã bị hư hoại à?
Tôi lắc đầu:
— Không, không hư hoại.
— Vậy tại sao? - Anh hỏi, giọng vẫn bình thường.
— Đó là con của Kitty.
Anh không trả lời.
— Anh đã biết?
— Không biết việc họ mang nó tới đó.
— Tôi rất tiếc - Tôi nói, nhưng ngay vừa khi nói ra tôi biết những từ này là sai, và theo cách nào đó tôi đã xúc phạm. Charles lắc cái chai để kiểm tra lại liều thuốc thêm lần nữa, rồi nhét nó vào trong áo khoác.
Ra tới cửa anh dừng lại, quay về phía tôi.
— Tôi chưa cám ơn anh một cách thích đáng về sự thận trọng của anh trong vấn đề này. Tôi sẽ ghi nhớ nó.