← Quay lại trang sách

PHẦN II - VƯƠNG QUỐC CỦA CÁC LOÀI CHIM Chương 24 New South Wales, 1836

Đầu tiên nó không là gì cả, hoặc còn tệ hơn không là gì. Một sự ngập ngừng nào đó trong bầu không khí. Bourke ngồi bất động; mọi vật xung quanh đều im lặng, âm thanh duy nhất là tiếng thở của bụi cây. Trong lớp gương không có chiều sâu của mặt nước, những đám mây lướt qua, một chuyển động im lìm, đường bay nghiêng của một con chim họ sẻ băng ngang qua đường đi của chúng như một hòn đá rơi mãi mãi không bao giờ chạm đất. Khắp tứ phía thế giới trải ra.

Tôi lật bàn tay lại và nhìn nó. Nó là một bộ phận của tôi, thế nhưng dường như có những sự sống khác bên trong làn da của nó. Nước tràn xuống từ nó, những hạt thủy tinh, chậm chạp như một chiếc lông rơi. Máu tôi di chuyển trong người tôi.

Tôi ngước mắt lên và trông thấy họ. Lặng im trên một tảng đá trong một thung lũng hẹp mé bên kia; có thể nói là rất gần. Tôi không chắc họ đã đứng đó bao lâu rồi: dù chỉ bây giờ tôi mới nhìn thấy họ, dường như họ đã ở đó suốt thời gian, thậm chí đã bay đi, như thể sự gián đoạn đã đánh lừa các tri giác của tôi hoặc chính thời gian.

Mỗi bàn tay của hắn cầm một ngọn giáo, những vật nhẹ và mảnh khảnh tạo ấn tượng của một đường bay. Thế nhưng dường như họ ăn mặc không phải để đi săn mà cho một nghi lễ nào đó, mặt và thân thể họ vẽ những vòng tròn và vạch trắng, mang lại cho họ dáng vẻ không phải của loài người mà là những hồn ma, và có lẽ họ là vậy.

Tôi vươn người đứng lên. Họ không nói, không cử động, dù trong thoáng giây tôi nghĩ có lẽ họ sẽ thốt ra đôi lời bằng thứ ngôn ngữ nào đó mà tất cả chúng tôi đều biết. Nhưng không, họ chỉ đứng đó, và quan sát, mắt họ sâu và long lanh bên dưới những cặp lông mày tô đậm.

Tôi không chắc chúng tôi đứng như thế bao lâu. Chỉ vài giây, không hơn, dù dường như thời gian trải dài một cách không thể có. Thế rồi, rất đột ngột, một ánh sáng bập bùng lóe lên, như thể một cái bóng nào đó di chuyển qua chúng tôi. Trong những chiều sâu phai nhòa của nước một tia sáng trồi lên về phía xa. Quá nhanh, tôi nghĩ, như thể nó chỉ là một bóng chim di động qua ánh mặt trời. Nhưng thế cũng đủ để phá vỡ bất kỳ thứ bùa chú nào đó đã cột chúng tôi tại đây. Ở bên kia thung lũng, người nhỏ hơn trong hai người lui lại, đôi mắt của anh ta lướt qua tôi về hướng khác. Rồi cả người cao lớn hơn cũng thế, và họ biến đi không một tiếng động, mất dạng trong bụi rậm.

Cuối cùng, khi quay lưng khỏi chỗ họ vừa bỏ đi, tôi thấy Bourke vẫn còn đứng đó, cái yên ngựa đong đưa trên tay. Mắt ông chạm mắt tôi, và chúng tôi nhìn nhau đăm đăm. Rồi ông lại quay đi như thể một sự thân mật nào đó đã được chuyển giao giữa chúng tôi và nhờ nó chúng tôi trở nên gần gũi hơn mức chúng tôi có thể quan tâm.

Chỉ sau đó, khi chúng tôi ra tới con đường dẫn tới khu đất định cư ông mới nói về chuyện ấy. Trời đã xế bóng, trên đầu, những con chim lao vút qua và lượn vòng trên bầu trời nhòa nhạt.

— Họ nghĩ chúng ta là những linh hồn trước kia - Bourke nói, không quay lại - Họ xem màu da của chúng ta là sự xanh xao của những người chết và tưởng tượng chúng ta là tổ tiên của họ, bị thất lạc và lang thang trong thế giới của người sống thêm lần nữa.

Dù đây là một câu chuyện tôi đã nghe trước đó, ký ức về cái cách họ lặng im nhìn chúng tôi chòng chọc từ bên kia thung lũng, làn da tô vẽ như những chiếc mặt nạ giả ma của họ tự động nổi lên trong tâm trí tôi. Rồi đột nhiên ông quay sang tôi.

— Anh có bao giờ cảm thấy nó chưa? - Ông hỏi - Cái cảm giác rằng chúng ta không hoàn toàn có thật ở đây? Rằng mảnh đất này không phải của chúng ta?

Dưới ánh sáng yếu ớt, không thể đọc được nét mặt của ông, vì thế tôi để cho câu hỏi đó treo lửng lơ không có lời giải đáp.

Tôi và Joshua đang ở trên đồi. Tôi nhìn thấy hai con ngựa trên con đường mòn, đang chậm chạp đi lên dốc. Đang mải mê vẽ, Joshua không nhận ra chúng ngay, mắt nó chuyển từ cảnh vật sang tờ giấy rồi lại sang cảnh vật. Chỉ khi sự chú ý của nó thay đổi, tôi mới biết cha của nó ở đó. Thế rồi nó lại nhìn xuống, quay lại công việc, dù vẻ linh hoạt lúc nãy không còn nữa, bàn tay nó di chuyển một cách gượng gạo trên tờ giấy.

Khi họ tới gần, tôi đưa tay lên che mắt: ngày trong trẻo và sáng rực, Bourke ngồi trên ngựa, đưa một tay lên mũ chào tôi.

— Tôi đã nghĩ sẽ gặp anh ở đây - Ông nói, dù tôi chắc chắn không phải tôi, mà chính Joshua, vẫn đang cúi xuống bức tranh của nó, mới là kẻ mà ông muốn tìm.

— Ông định ra mé ngoài hả? - Tôi hỏi, và Bourke gật đầu.

— Không xa - Rồi ông đưa tay chỉ sang người bạn đồng hành - Anh có gặp người láng giềng mới của chúng ta chưa?

— Tôi chưa có hân hạnh đó - Tôi đáp, vẫn còn che mắt.

— Edmund Winter - Người ngồi trên ngựa nói. Anh ta gầy, khoảng quá ba mươi, tóc đen, ngồi ngay ngắn trên yên, dù nói năng khá cẩn trọng, anh ta không giơ tay để bắt tay tôi, Joshua đặt bút xuống.

— Thomas May - Tôi đáp, quay qua nhìn xuống đồi, rồi hỏi:

— Anh đã mua điền sản của Wemy?

Có lẽ anh ta thấy câu hỏi của tôi vô vị vì anh ta để cho câu hỏi treo lơ lửng không lời đáp một lúc lâu hơn phép lịch sự cho phép.

— Và mảnh đất ở ranh giới phía bắc của nó.

— Nhưng anh là người mới ở khu kiều dân này?

Winter nhìn tôi - Đúng thế - Anh ta nói. Miệng anh ta hơi rộng và đầy đặn trên gương mặt xương xương; ở một gương mặt khác nó có thể mang đến một vẻ dâm dục, nhưng ở anh ta, vì lý do nào đó nó có vẻ độc ác.

— Cái Sydney thu được là cái Hobart đánh mất - Bourke nói với vẻ khôi hài, nhưng Winter liếc nhìn ông như thể sự tiết lộ này khiến anh ta không hài lòng.

— Anh thấy ở đây như thế nào?

— Khá tốt - Winter đáp, cười nhạt.

Khi họ đã đi, tôi bảo Joshua quay lại bức vẽ của nó. Ở hướng tây, tôi có thể nhìn thấy ranh giới của mảnh đất trước kia thuộc về thiếu tá Wemy. Nó đã bị bỏ hoang ở đó ba năm, những cánh đồng mọc đầy cỏ dại, bầy gia súc đã được chấp hành viên bán đi trong lúc tìm kiếm và thông báo về chúng cho người em họ được hưởng thừa kế. Một luật sư ở Somerset, tôi nghe nói, hoặc Surrey, ông ta đã tới một cách bất ngờ dù không muốn nhìn thấy mảnh đất này. Trong một thời gian, chính Bourke cũng đã nghĩ tới việc mua lại nó, và nhiều người khác xung quanh cũng vậy, nhưng họ lần lượt thoái chí, vì thế người đại diện buộc phải tìm người mua ở nơi khác.

Cạnh tôi, Joshua lại cầm bút lên, cắt ngang ý nghĩ của tôi. Hình ảnh trên tờ giấy trước mặt nó đang bắt đầu tệ đi, tôi kềm lại ý muốn bảo nó tiếp tục, chỉ nói rằng chúng tôi sẽ kết thúc công việc hôm nay.

Trong lúc đi trở lại ngôi nhà, Joshua trò chuyện và cười to, dường như đã quên bẳng đi việc chạm trán với cha nó. Ở trước cổng, nó mời tôi cùng nó vào nhà, cam đoan rằng mẹ kế của nó sẽ vui sướng được gặp tôi, nhưng tôi lắc đầu và bảo nó tôi còn có việc riêng, thế là chúng tôi chia tay nhau.

Mối quan hệ giữa tôi và gia đình Bourke khá tinh tế. Trong ba năm quen biết họ, tôi đã đi từ chỗ là một vật bị mua đi bán lại trở thành người giúp việc cho họ, và, cuối cùng, một người bạn. Thế nhưng giữa chúng tôi còn nhiều điều chưa nói, những thiếu sót và những câu hỏi bị bỏ qua. Lúc đầu khi tôi tìm việc, chính Bourke là người đã giúp tôi tìm được việc làm với những tiểu thư trong khu kiều dân. Chỉ riêng điều này đủ khiến tôi mang ơn họ, nhưng họ vẫn đối đãi tôi như một người bạn, một sự tử tế mà tôi lấy làm khó chịu.

*** Tôi quay lại con đường, cái cặp giấy đeo sau lưng. Khi nghe thấy tiếng vó ngựa, tôi bước tránh sang bên và quay lại, mong đợi sẽ nhìn thấy Bourke đuổi theo tôi để nói đôi lời hay có một yêu cầu nào đó, nhưng đó là Winter. Anh ta quay ngựa lại và dừng trước mặt tôi.

— Anh May, tôi đã nghĩ sẽ tìm thấy anh ở ngôi nhà.

Tôi lắc đầu: Tôi có việc khác cần giải quyết.

Anh ta gật đầu khẽ đến nỗi gần như không thể nhận thấy.

— Bài học của anh với thằng bé đã xong? - Anh ta hỏi, và tôi gật đầu.

— Bourke bảo nó có tài.

— Nó vẽ giỏi - Tôi nói - Và tìm thấy niềm vui trong việc đó.

Winter nhìn tôi từ trên xuống dưới - Theo tôi hiểu, anh cũng nhận các học trò khác?

— Phải.

— Tôi có một cô em - Anh ta chậm rãi nói - Chưa kết hôn, và có quá ít việc để làm. Sẽ có ích cho nó nếu có có việc gì đó để tìm được niềm vui.

Có gì đó trong cung cách của anh ta khiến tôi do dự -Anh có trao đổi vụ này với cô ấy chưa?

Anh ta mỉm cười lạnh lẽo: Nó là em tôi, anh May, tôi nghĩ tôi hiểu tâm tính nó.

Anh ta rút một tấm danh thiếp từ trong áo khoác đặt vào tay tôi: Hãy ghé đến chỗ chúng tôi, vào tuần tới, nếu anh muốn.

Tôi nhét tấm thiếp vào trong áo khoác - Rất tốt - Tôi nói. Thế rồi Winter giật cương quay con ngựa xoay lại và phi qua ngọn đồi.

Nhà tôi rất lặng lẽ khi tôi về tới, những bóng râm duỗi dài ra trên mặt đất. Trong bầu không khí có mùi bạch đàn, mùi mơ hồ của những bụi cây. Tôi tháo cái cặp giấy khỏi lưng, cởi áo gilê và cổ cồn ra, trút nước khỏi cái túi treo sau cửa, sự mát lạnh ẩm ướt của nước nhắc tới tảng đá mà từ đó nó vọt ra. Trước mặt tôi, buổi chiều trải dài trong hiu quạnh, một khoảng không gian liên tục.

Có những kẻ với họ sự riêng tư là một thứ xa hoa phung phí lạ lùng trong một vùng như thế này. Thuộc địa này nhỏ, và những con đường giữa những khu dân cư và những ngôi nhà rất dài và ít người qua lại. Nhưng sự hiu quạnh và riêng tư là những điều khác biệt nhau: dù một người đàn ông có thể dễ dàng đi suốt một tuần ở đây mà không băng qua lối mòn của kẻ khác, thật sự việc đi ngang mà không bị nhìn thấy giữa đám đông ở London, lạc vào vô số người qua lại còn dễ hơn nhiều so với việc đi mà không bị chú ý ngay tại đây, giữa chốn quạnh hiu, vì ở nơi này, mọi người đều biết công việc của láng giềng họ, và lời đồn thổi lan đi rất nhanh và xa.

Tôi đã tìm thấy cho mình một kiểu lẻ loi kỳ lạ tại đây. Tôi là một trong số dân chúng ở khu kiều dân, thế nhưng không phải. Nghề nghiệp của tôi cho tôi phép tôi bước vào giới của họ với một mức độ tin cậy nào đó, nhưng với tất cả những điều đó tôi vẫn tự tách riêng bản thân mình ra, vì tôi thấy không thoải mái với họ.

Đây không phải là một đặc quyền mà tôi luôn hưởng thụ. Trong không gian hiện hữu của mình, tôi sống và làm việc với những người khác, nằm ngủ vật vựa trên mặt đất, sau đó là trên giường, sáu cái một phòng. Tôi không hạnh phúc với điều đó, cũng không khốn khổ, thay vì vậy, tôi học được cách tĩnh tâm, cách tạo ra một không gian bên trong nơi những ý nghĩ của tôi có thể là của riêng tôi. Và khi tôi đã hết hạn tù, Bourke cho tôi đầu tiên là một căn phòng, và sau đó, được thuê lại ngôi nhà và mảnh đất liền kề với điền sản của ông.

Dù nó nhỏ, không có nhiều tiện nghi, giá thuê rẻ và có ít láng giềng, nên tôi thuê nó với lòng biết ơn. Nó từng thuộc về một viên sĩ quan, ông ta đã quay lại nước Anh năm năm trước, và đã bị bỏ hoang khá lâu đến mức bị bụi rậm xâm lấn trở lại. Lũ vẹt mào làm tổ trong ống khói và thú có túi chạy rục rịch trên mái nhà, lá rụng và phân thú rải rác trên các sàn nhà. Không ngờ gì rằng việc cho tôi thuê chỗ này rất tiện cho Bourke, vì tôi dọn sạch nó, chữa lại mái nhà và những bức vách, và ngăn không cho người da đen thiêu rụi nó hoặc những tay vượt ngục chiếm nó làm của riêng, nhưng dù sao, hành động của ông là do lòng tử tế.

Một kẻ khác có thể cảm thấy cô độc tại đây, nhưng tôi tìm thấy niềm vui trong sự quạnh hiu. Tôi không hứng thú mấy với việc có bạn có bè, chỉ đi lại khi tôi phải mang những mẩu vật cho những người đặt mua, hoặc để dạy vẽ tại nhà những quý cô quý bà trong khu kiều dân. Không ngờ gì rằng tôi có thể sống tốt hơn theo cách khác; có nhiều người thuê tôi vẽ chân dung cho họ hoặc cho những người thân yêu và gia đình họ. Nhiều người khát khao có tranh chân dung của những con vật nuôi: đa phần là ngựa, nhưng đôi khi cũng có trâu bò và chó, thậm chí một hai lần là một con lợn quan trọng. Nhưng tôi chẳng thấy thú vị gì với công việc này; dù tôi là một người khéo tay khi vẽ chân dung người, dường như có cái gì đó sai lầm và vênh váo trong niềm khao khát lưu truyền cho hậu thế bức chân dung của mình. Thế nên tôi chỉ dạy, hướng dẫn để các bà các cô có thể thủ đắc một mức độ thành thục nào đó trong nghệ thuật vẽ tranh và màu nước. Tuy nó đòi hỏi tôi phải nói năng hoa mỹ và tâng bốc họ, dù sao trong công việc này cũng có một sự trung thực, một chân lý trong khoảnh khắc khi một học viên phát hiện ra một điều gì đó hoàn hảo và đúng đắn trong một nét vẽ, và nó khiến tôi vui sướng. Nhưng quan trọng hơn, thông qua việc dạy vẽ, tôi được yên ổn với thế giới bên trong của tôi, và công việc khác của tôi vẫn giữ được sự riêng tư và không bị xâm phạm.