Chương 27
Tôi đang ngồi trong phòng khách nhà Roberson với Amelia thì mẹ cô ta bước vào. Tôi nhìn lại và chúc bà buổi sáng tốt lành, rồi hướng sự chú ý trở lại trang giấy của Amelia. Sau lưng tôi, bà Robertson ngồi xuống, và tôi có thể cảm thấy bà đang quan sát chúng tôi.
— Tôi nghe nói cô ta là một học trò của anh? - Cuối cùng bà ta nói.
— Cô ta? - Tôi quay sang bà ta. Bà Robertson mỉm cười, như thể câu hỏi của tôi khiến bà ta thấy thích thú.
— Cô Winter, người chơi đàn khiến cho mọi người mê mẩn đêm hôm trước.
Tôi giữ cho ánh mắt của mình điềm tĩnh, nhưng bà Robertson đã nhìn thấy điều bà ta tìm kiếm, và bà ta cầm cái quạt lên phe phẩy.
— Anh thấy cô ta thế nào?
— Cô ấy cho thấy có hứa hẹn - Tôi đáp, nhưng bà Roberson chỉ bật cười.
— Anh rất sáng suốt. Tính cách của cô ta ra sao?
Amelia đã quay sang lắng nghe. Bà Robertson giơ tay lên để xua cô bé đi chỗ khác.
— Để mẹ nói chuyện - Bà ta nói, và Amelia đứng lên khẽ chào tôi. Chỉ khi nó đã ra ngoài, bà Robertson mới nhìn tôi với ánh mắt có thể mê hoặc một gã đàn ông.
— Tôi nghe nói anh cô ta có tài sản đáng giá bốn mươi ngàn.
Tôi chỉ ngồi yên. Thế rồi, với một sự bất cẩn đột ngột, bà ta cười phá lên.
— Thật sự, anh May, đôi khi tôi nghĩ anh còn sống ẩn dật nhiều hơn là anh nói. Anh không biết cái chuyện giật gân quanh cô ta sao?
— Chỉ cần có thời gian, luôn có nhiều chuyện giật gân - Tôi nói, nhưng bà Robertson không nao núng.
— Nghe nói anh cô ta rời khỏi Van Diemen’s Land là vì cô ta. Cô ta đã sinh một em bé cho một viên sĩ quan, một người đã kết hôn với bà vợ còn ở nước Anh.
Có lẽ tác động của tin này lên tôi quá dễ thấy, vì bà Robertson mỉm cười không vui.
— Tôi chưa từng thấy một đứa bé nào cả.
Bà Robertson cười to: Không. Tôi nghe nói nó đã chết, chắc chắn là rất không may.
Tôi suy nghĩ giây lát tới chuyện bước ra ngoài, bỏ bà Robertson lại đó, nhưng điều đó sẽ tiết lộ nhiều hơn những gì bà ta đã suy đoán.
— Thế nhưng bà đã giới thiệu Amelia với anh cô ta - Tôi nói. Một sự im lặng lãnh đạm rơi xuống, và tôi biết mà không cần thêm lời nào khác rằng tôi sẽ không được chào đón tại đây nữa.
— Bốn mươi ngàn sẽ bỏ qua được nhiều điều - Bà ta đáp, rồi đứng lên, phủi chiếc váy.
— Kết thúc bài học của anh nhé, tôi muốn Amelia đi cùng tôi trong cỗ xe.
Bên ngoài, tôi bước nhanh. Còn ba giờ nữa mới tới giờ hẹn cho bài học, nhưng nhớ tới cuộc gặp cuối cùng giữa chúng tôi, tôi muốn tới nhà nàng ngay, như thể tôi có thể đưa ra cho nàng một sự ân xá, một sự thứ tha nào đó, dù về cái gì tôi không biết. Chỉ khi tới con đường dẫn tới cổng nhà nàng tôi mới dừng lại, biết rằng tới đó trong một trạng thái như thế này chỉ sẽ làm thương tổn cả hai chúng tôi.
Bà Blackstable chào tôi, và bỏ lại tôi chờ ở đó, bà ta vào để báo với cô Winter rằng tôi đã tới. Tôi bước loanh quanh, thỉnh thoảng lại nhìn lên bức chân dung bên trên lò sưởi.
Nàng xuất hiện ở cửa ra vườn, một chiếc khăn choàng điểm hạt khoác hờ hững trên vai.
— Tôi không ngờ anh tới sớm đến thế - Nàng nói - Tôi vừa ở trong vườn, và phải xin thứ lỗi.
Tôi lắc đầu: Không cần thiết, lỗi là ở tôi. Tôi đã tới sớm.
Dù tôi đã hình dung ra cuộc gặp mặt này trong suốt vài giờ vừa qua, giờ khi đã ở đây tôi lại thấy không thoải mái, và rõ ràng nàng không biết những thay đổi trong cảm giác của tôi.
— Chúng ta bắt đầu chưa? - Nàng hỏi, bước tới gần. Tôi gật đầu, tôi cho là hơi cộc cằn. Nàng nhìn tôi như thể tôi đã phản bội nàng theo cách nào đó.
— Có lẽ là ngoài trời - Tôi đề nghị, và với một tia nhìn cảnh giác, nàng bảo tôi chờ trong lúc nàng đi lấy cái cặp giấy.
Chúng tôi băng qua bãi cỏ, tìm một nơi để ngồi. Rốt cuộc chúng tôi chọn một chỗ râm mát bên dưới một cây bạch đàn vỏ xanh nhạt. Tôi đặt cái ghế đã mang từ trong nhà xuống cho nàng, chờ nàng ngồi xuống. Nàng kê tấm bảng lên, bắt đầu vẽ, nhưng rõ ràng có gì đó đang quấy rầy nàng, vì nàng xao lãng, không thể thả hồn vào công việc.
— Bài nhạc cô chơi ở gia đình Bourke - Tôi mở lời, nhưng nàng quay lại, rất nhanh, rồi lại nhìn sang chỗ khác.
— Tôi rất tiếc về chuyện đó, tôi là một nhạc công dở tệ.
— Không. Nó khiến cho tôi rất xúc động.
Nàng gật đầu, cử chỉ có vẻ tùy tiện - Anh tôi nghĩ rằng tôi đàn tệ.
Khi tôi không trả lời, nàng ngước mắt nhìn tôi. Chúng tôi cứ ngồi như thế giây lát, không nói lời nào.
— Tôi nghĩ anh đã hiểu lầm tôi.
— Không - Tôi đáp - Tôi không nghĩ là tôi hiểu lầm cô.
— Anh biết điều gì đó về tôi, về quá khứ của tôi?
— Về đứa bé, và viên sĩ quan, vâng.
Nàng im lặng hồi lâu.
— Thế nhưng anh vẫn tới thăm tôi?
Ngay lúc ấy tôi nghe một tiếng động. Bà Blackstable đang đứng đó.
— Anh cô muốn cô vào nhà có việc - Bà ta nói. Cô Winter nhìn bà ta với vẻ chán ghét nhưng bà ta không nao núng.
Nàng khép cặp giấy lại, đứng lên.
— Mong anh thứ lỗi cho tôi. Có lẽ chúng ta sẽ làm lại vào lần gặp sau.
Tôi gật đầu, đứng lên khi nàng quay lưng bước đi. Nàng ngẩng cao đầu, và sẽ không cúi xuống.
— Cô Winter - Lúc đó tôi gọi, và nàng quay lại.
— Vâng?
— Không ai trong chúng ta không có một quá khứ.
Nàng dừng lại chốc lát, quan sát tôi, rồi nàng hạ mắt xuống, quay lại, tiếp tục đi. Bà Blackstable nấn ná lại một lúc. Tôi không nói gì với bà ta, cũng không cần phải hỏi bà ta đã nghe thấy những gì vì khi quay đi, bà ta ngoái lại nhìn tôi, và mỉm cười.
Hôm đầu tiên đó, khi họ dẫn tôi từ tàu lên bến cảng, tôi không biết mình nghĩ gì về những điều có thể nằm ở phía trước. Bốn tháng trời giữa biển cả và gió, băng qua nửa vòng trái đất, thế nhưng tôi không quan tâm tới nơi tôi sẽ đến, mọi thứ dường như đều nhạt nhẽo và không lợi ích gì.
Sau bóng tối lờ mờ của nơi giam giữ, những cỗ quan tài kêu cọt kẹt là những cái giường mà trong đó chúng tôi nằm, ánh sáng ban ngày dường như là điều không thể có, tiếng nước vỗ oàm oạp và tiếng kêu chói tai của lũ chim. Chúng tôi tơi tả, xanh xao, thân thể héo hon sau những tháng nằm dưới boong tàu, và khi chúng tôi lảo đảo lê chân trên những đường phố trong xiềng xích, mọi người quay sang nhìn chòng chọc. Tôi đã tưởng họ có thể cười nhạo, nhưng không; ngoài một thằng bé chạy bên cạnh chúng tôi, kéo tay áo chúng tôi và thì thào đề nghị đổi thịt, bánh mì hay rượu vang để lấy một siling, hầu như không có lời nào thốt ra trong thời gian chúng tôi đi trên phố.
Dù tôi đã trải qua gần năm tháng bên cạnh họ, tôi không có người bạn nào trong số những người tôi đi bên cạnh, mỗi người lê chân dưới sức nặng của sợi xiềng. Một gã đàn ông khác có lẽ đã tìm được tình bạn trong đó, thế nhưng tôi không thích thú gì chuyện đó. Vì thế trong lúc chúng tôi nằm trên giường trong những trại lính, tôi chỉ có thể lắng nghe trong lúc những người khác lên kế hoạch và suy đoán xem vận mệnh nào đang chờ đón họ.
Tôi không nói gì tới việc tôi có thể viết và đọc, vì thế tôi nghĩ tôi sẽ bị đưa tới làm lao dịch cho khu kiều dân, một người của chính phủ, bị kết án phải nung vôi hay đào than. Dù đây là số phận mà hầu hết những kẻ khác ghét cay ghét đắng, nó có một quyền lực nào đó đối với tôi: việc trở thành kẻ thấp hèn nhất trong những kẻ thấp hèn có một sự cân xứng bệnh hoạn nào đó.
Thế nhưng tôi không bị đưa tới khu kiều dân, trái lại, tới một người tên là Tavish. Tin tức này đến cùng với chỉ thị rằng tôi rời khỏi cái giường. Tôi lảo đảo ra sân. Cùng với năm người không quen biết khác, tôi bước theo sau một cỗ xe chở hàng lên phía bắc. Dù chúng tôi sẽ phải đi bộ một trăm dặm hoặc hơn, băng qua những ngọn đồi và thung lũng, suối và sông, những sợi xiềng không được tháo khỏi chân của chúng tôi vì sợ chúng tôi bỏ trốn. Vì thế chúng tôi bước loạng choạng, đói khát, da mắt cá bị lột ra vì những cái còng, lưng cháy đỏ vì vầng thái dương trên đầu.
Dù có những ông chủ đối đãi lịch sự với những người được phân cho họ, Tavish không phải một trong số đó. Ông ta từng là quân nhân, và tôi chắc là trong cuộc sống đó, ông ta cũng bị những người thuộc cấp của mình căm ghét. Sử dụng thành thục một chiếc roi, ông ta tìm vui trong việc hành hạ những người được phân phối cho ông ta, như thể với việc biến chúng tôi thành thú vật, ông ta đáp ứng được một sự thiếu vắng nào đó trong bản thân mình.
Mảnh đất của ông ta nằm ở phía nam Newcatsle, giữa những cái hồ và đầm lầy, và ông canh tác đất đai cùng con trai mình, người chịu trách nhiệm cho cuộc hành trình cưỡng bức của chúng tôi. Dù đất đai quanh vùng toàn là cát và cằn cỗi, dự tính của họ là mở mang đất nước, để nó có thể tạo ra cừu và gia súc, và do mục đích này, chúng tôi được bố trí phát quang nó. Công việc này rất khắc nghiệt nhưng dường như Tavish và con trai ông ta không quan tâm, hầu như chỉ cho chúng tôi ăn vừa đủ để giữ hồn xác gắn vào nhau, và đày ải cho tới khi chúng tôi gục xuống. Chúng tôi biết họ không có quyền làm điều này, nhưng chúng tôi không còn nơi nào để đến, không nhà cầm quyền nào có thể giúp chúng tôi.
Nhưng theo cách nào đó, những tháng ngày tàn bạo đó cũng trui rèn một thay đổi khác trong tôi. Ngoài kia, nơi những ngọn đồi chạy thoai thoải xuống sông hồ, và ánh nắng giống như thủy tinh, tôi tìm được một mức độ lặng lẽ nào đó mà tôi chưa từng biết. Tôi thường trải qua suốt những ngày như thế một mình, hoặc chỉ với những người cùng lao dịch với tôi, và dù công việc nặng nhọc, mỗi người chúng tôi vui mừng về khoảng trống và không khí. Đôi khi trong lúc chúng tôi lao động, tôi chợt ý thức tới một cuộc sống khác bên cạnh, lũ diệc bạch và các loài thủy điểu, cho tới một ngày nọ, tôi quay lại và nhìn thấy một con diệc xám, đang băng qua một vũng nước không xa, cái cổ dài của nó vươn ra và sẵn sàng đớp mồi. Tôi biết nó nhìn thấy tôi, vì nó chợt đứng bất động, quan sát tôi một cách cảnh giác. Tôi và nó cứ đứng thế trong một khoảnh khắc, có thể chỉ một nhịp tim mà cũng có thể là vĩnh viễn, rồi cuối cùng nó quay đi, băng qua vũng nước một cách ung dung. Chỉ khi đó tôi mới cảm thấy hơi thở vừa thoát khỏi tôi trong một tiếng phì vội vã, và nhận ra tôi đã nín thở.
Dần dà tôi học được cách di chuyển lặng lẽ để tránh làm động lũ chim te te. Tiếng kêu của loại chim này có thể gửi tới mọi con chim đang kêu la ầm ĩ trong không trung cách đó ba trăm mét; và tôi bắt đầu học hỏi những tập quán và cung cách của các loài chim sống ở mé bên kia, những con chim bói cá, vẹt Mã-lai, chào mào, chích chòe và chim hút mật. Quan sát chúng tung cánh lên, quan sát sự nhẹ nhàng của những thân hình, bản thân điều đó là một sự tự do đối với tôi, thế nhưng đây không phải là tất cả những gì tôi thấy ở chúng: tôi đã nhìn thấy một điều gì đó sắc sảo, và nguy hiểm, những sinh vật sống bên ngoài lãnh địa của con người, đầy ước vọng khát khao, một Sự sáng tạo khác.
Có lẽ việc đó sẽ không tiến xa hơn nếu Tavish không tới với một bó giấy. Như nhiều ông chủ tìm thấy vui thú trong việc hủy hoại những người lao công cho họ trong các khu kiều dân, Tavish thường tìm kiếm sự đền đáp khi tỏ ra tốt với chúng tôi, bằng những vật phẩm vô dụng hay vô giá trị đối với những người có cuộc sống như của chúng tôi. Không còn ngờ gì nữa, mớ giấy này dường như với ông ta là một thứ như thế: chúng tôi có thể dùng chúng vào việc gì, chúng tôi, những kẻ không thể đọc hay viết thậm chí cả cái tên của chính mình? Mấy người khác nguyền rủa ông ta, và toan đốt nó đi, nhưng tôi lý luận rằng chúng tôi nên giữ nó lại, đền bù bằng một hai khẩu phần, và tôi cũng lấy những thứ được trao cho mấy người kia.
Tôi mua lại của người quản gia một cây bút máy, một lọ mực và vài cây bút chì, nghĩ rằng có lẽ để ghi nhật ký. Vì thế đầu tiên nó là một cuốn nhật ký, một biên niên sử để nhắc nhở chính tôi rằng tôi thật sự ở đây. Thế nhưng những ghi chép tôi viết có rất ít kết quả, danh sách dằng dặc của những cuộc đốn cây, đào gốc, dựng rào, đào hào, thành thử để thay vào đó, tôi bắt đầu viết, mỗi ngày một ít, về các loài chim. Mô tả chúng, đếm số lượng của chúng, liệt kê các tập quán của chúng khi tôi bắt đầu biết chúng ở phạm vi gần. Đó không phải là khoa học, hoặc không hoàn toàn, vì trong những từ này, tôi tìm thấy một dạng thi ca, như thể tôi có thể nắm bắt một điều gì đó vượt quá sự hiểu biết của tôi từ bản thân chúng, một cảm giác nội tâm mà sự hiện diện của nó hình thành từ sức nóng của cuộc sống chim chóc. Tôi không biết những từ này có thể là gì, chỉ biết rằng dường như trong việc viết ra chúng có một bí ẩn nào đó mà tôi cần vén mở. Chẳng bao lâu, từ ngữ chuyển thành hình ảnh, và lúc đầu tôi cố vụng về ghi lại dáng hình của chúng. Đầu tiên không phải là toàn bộ, mà chỉ những thứ nhỏ hơn: những quả trứng lốm đốm của mấy con gà gô đỏ trên mấy cái tổ sậy; những chiếc lông vũ của chim bồ nông; đôi cánh mở rộng của một con chim sẻ, chết và rơi xuống cỏ trong lúc đang bay.
Nhưng những thứ tôi đã thực hiện ngoài cuốn nhật ký đã tạo nên một phản ứng khác. Người ta cho rằng có thể đánh đồng những kẻ như chúng tôi, thế nhưng không phải thế, chúng tôi cũng chưa bao giờ là thế. Thi thoảng, khi chúng tôi nằm lơ mơ nửa ngủ nửa thức, thân thể đau nhừ sau một ngày vất vả, họ thường nói về quê nhà mà họ đã xa lìa, về những phố phường, những người phụ nữ, con trái, con gái xa xăm; những người này bị phạt mười bốn và hai mươi năm tù; có hai người có thể không bao giờ quay lại, và khi họ nói về quê hương, tôi nhận ra một ý nghĩa chân xác của sự lưu đày mà chúng tôi đang chia sẻ chia. Giọng họ cất cao với vẻ dịu dàng ảm đạm như mơ, không có chút vết tích của lòng tức giận, như thể họ cảnh giác để không bôi nhọ những điều đó. Trong số sáu người, chỉ mình tôi chưa bao giờ nói về cuộc sống trước đó của tôi, và dù không ai yêu cầu tôi tiết lộ về mình, sự im lặng của tôi khiến tôi bị tách riêng ra. Thế nhưng việc phát hiện rằng tôi có thể viết và vẽ dường như là sự phản bội lại một chân lý không được thốt ra nào đó. Tôi cảm thấy họ rút lui, co người tránh xa khỏi tôi.
Sau hai năm ở trang trại của Tavish, tôi được bán cho một người khác, một người đàn ông tên là Donaldson. Ông ta có một trang trại gần Liverpool. Tôi chuyển sang đó ba năm, rồi được gửi tới làm việc cho Bourke. Và ở nhà của Bourke, tôi tìm thấy một người cũng đã tìm kiếm để thấu hiểu đất nước này, từng nghiên cứu về súc vật và cây cỏ ở đây. Bằng cách nào đó ông ta đã nghe nói về việc ghi chép của tôi, và một hôm ông ta đến thăm tôi trong khu dành cho tù phóng thích ngủ, hỏi rằng ông ta có thể xem qua những gì tôi đã thực hiện hay không. Cho tới lúc đó tôi chưa cho ai xem nó, nhưng tôi mở nó ra, trao cho ông ta những cuốn vở và những bức tranh của mình. Ông ta thận trọng lật qua chúng, trong lúc tôi đứng sững bên cạnh, đôi má nóng bừng và bụng nhẹ hẩng. Thế rồi cuối cùng ông ta quay sang tôi, bảo rằng tôi có tài thiên phú về hội họa.
Dù một lời khen ngợi như thế khiến tôi thấy vui lòng, vì lý do nào đó tôi cũng cảm thấy bị phơi trần.
Theo đề nghị của Bourke, tôi bắt đầu nhận đơn đặt hàng làm những mẩu vật. Một chiều nọ ông ta tới gặp tôi, mang theo một lá thư, và hỏi tôi có muốn kiếm thêm một hai bảng một cách dễ dàng không. Lúc đó ông ta là chủ của tôi, vì thế tôi chấp nhận đề nghị của ông ta. Tôi nhăn mặt khi nghe thấy tiếng súng, nhìn thấy viên đạn xuyên vào những con chim, thấy chúng xoay tròn và rơi xuống đất. Trong mấy tháng đầu tiên đó, mỗi cái chết dường như là một phần của tôi, thế nhưng tôi đã học được cách làm cho mình trở nên sắt đá với chuyện này. Tất cả chúng là kiến trúc, những con chim này, nhẹ như giấy trên đôi cánh, ấm như không khí. Tôi biết rằng với thân hình của chúng trong tay người ta có thể vẽ chúng cẩn thận hơn, và vì thế bản thân hành động tàn bạo này có thể là một thứ rất gần với tình yêu.