← Quay lại trang sách

Chương 16 DANH SÁCH MỤC TIÊU

“Tôi sẵn sàng lắng nghe đây” Murray nói. Nhưng vưa nói ra ông lại hối hận ngay lập tức

“Lạy chúa, Dan!” Khuôn mặt Shaw xám xịt, nhưng rồi nét mặt chuyển sang giận dữ

“Xin lỗi, nhưng, mẹ kiếp, Bill, chúng ta có nên nói thẳng với nhau về chuyện này không hay sẽ vòng vo?”

“Nói thẳng”

“Một trong số đặc vụ bên WFO (Washington Field Ops) đã hỏi cô ấy vài câu hỏi chung chung và cô ấy trả lời không hề nói cho bất kỳ ai…chà, có lẽ thế, nhưng cô ấy gọi đến Venezuela làm quái gì? Họ đã kiểm danh sách cuộc gọi suốt 1 năm qua và không hề có số này xuất hiện trước đó. Thằng nhóc điều tra tôi đã yêu cầu kiểm tra thêm- số mà cô ấy gọi là một căn hộ và số điện thoại đó đã gọi cho một nơi nào đó ở Colombia vài phút sau khi Moira gọi điện

“Ôi Chúa ơi” Shaw lắc đầu. Ông sẽ tức giận nếu chuyện này xảy ra với bất kỳ ai khác, nhưng Moira đã làm việc với Giám Đốc trước cả khi ông ấy chuyển từ Văn Phòng FBI New York về D.C

“Có lẽ không có liên quan đến vụ việc. Có lẽ chỉ là tình cờ” Murray nói, nhưng biểu cảm trên khuôn mặt Bill cũng không dễ chịu hơn

“Cậu có muốn đánh giá xác xuất của tuyên bố đó không, Danny?”

“không”

“Chà, chúng ta sẽ quay lại văn phòng sau khi hạ cánh. Tôi sẽ mời cô ấy đến chỗ tôi 1 giờ sau khi chúng ta trở lại văn phòng. Cậu cũng sẽ ở đó nhé”

“Được rồi” Giờ lại đến Murray lắc đầu. Moira rơi nước mắt trong nghĩa trang không ít hơn những người khác. Trong sự nghiệp hành pháp của mình, Murray từng chứng kiến ​​nhiều sự kiện vô tình trùng lặp, nhưng ý tưởng Moira phản bội khiến ruột ông quặn lại. Đây hẳn là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, có thể con cô ấy có một người bạn ở đó, hay tương tự thế, Dan tự nhủ.

Khi cảnh sát khám xét nhà của trung sỹ Braden, họ đã tìm thấy thứ cần thấy. Không có gì nhiều, chỉ là một chiếc túi đựng máy ảnh với máy ảnh Nikon F-3 và nhiều loại ống kính khác nhau. Cả bộ camera trị giá tám hoặc chín nghìn đô la Mỹ, nhiều hơn khả năng mua của một trung sỹ tuần tra tại Mobile. Trong khi các sĩ quan cảnh sát khác tiếp tục tìm kiếm, một sĩ quan cảnh sát cấp cao đã gọi điện cho Nikon, cho họ biết số máy ảnh và yêu cầu họ kiểm tra xem người mua máy ảnh đã điền vào giấy bảo hành hay chưa. Hóa ra là chủ nhân của chiếc máy ảnh đã đăng ký. Khi viên cảnh sát nghe thấy tên của chủ nhân chiếc camera, anh ta biết rằng anh ta nên gọi cho FBI ngay lập tức. Đây là một phần của vụ án Cục đang điều tra và anh hy vọng bằng cách nào đó FBI sẽ bảo toàn tên của gã cảnh sát cặn bã này. Dù có là cảnh sát bẩn hay không thì hắn ta cũng đã chết, để lại mấy đứa trẻ. Có lẽ FBI có thể hiểu điều này.

Luật sư Stuart đã phạm tội liên bang để làm điều này, nhưng ông ta cho rằng mình có nghĩa vụ cao hơn đối với khách hàng. Đây là một khu vực xám không có các quy định pháp luật nào trong sách giáo khoa luật chỉ rõ, mà chỉ là các án lệ. Ông ta chắc chắn ai đó đã vi phạm pháp luật, chắc chắn rằng chẳng có cuộc điều tra nào được tiến hành về hành vi này. Ông ta cũng biết rất rõ rằng việc vạch trần hành vi phạm tội này là vô cùng quan trọng đối với thân chủ vốn sắp bị kết án tử hình. Ông ta tin rằng mình không bị bắt, mà nếu có thì ông ta cũng vẫn có bằng chứng để đưa ra trước hội đồng xét duyệt đạo đức nghề nghiệp của Hiệp hội Luật sư Bang. Tinh thần chuyên nghiệp của Edward Stuart cùng với sự căm ghét của bản thân đối với án tử hình đã thôi thúc ông quyết tâm thực hiện

Các thủy thủ không còn gọi thời gian ở CLB HẠ SỸ QUAN (NCO) là Giờ Hạnh Phúc nữa, nhưng mọi thứ vẫn như cũ. Stuart đã từng phục vụ tại Hải Quân Hoa Kỳ với tư cách là sỹ quan pháp lý trên một tày sân bay- ngay cả trong hải quân thì một thành phố nổi 6000 người vẫn phải cần đến 1 hoặc 2 luật sư – và biết rõ các thủy thủ cùng thói quen uống của họ. Vì vậy ông bước vào một cửa hàng quân phục và mua một bộ đồng phục cảnh sát biển, đeo một dải ruy băng thích hợp và đi đến CLB NCO trong căn cứ, biết rằng chừng nào ông vẫn trả đồ uống bằng tiền mặt thì sẽ không ai để ý đến sự hiện diện của mình. Ông đã từng làm trung sỹ văn thư trên tàu USS Eisenhower và quen thuộc với tiếng lóng đủ để vượt qua bất kỳ bài kiểm tra thông thường nào để xác thực người trong nghề. Tất nhiên, bước tiếp theo là một một thủy thủ trên tàu tuần tra Panache

Công việc bảo dưỡng tàu tuần tra sắp kết thúc, mỗi khi tàu tuần tra trở về đều phải bảo dưỡng, chuẩn bị cho chuyến hành trình tiếp theo. Và cuối giờ chiều, sau khi tan ca thì đám thủy thủ sẽ thích ghé CLB thưởng thức vài cốc bia. Vấn đề chỉ là tìm sao cho đúng người. Ông ta biết tên và đã kiểm tra băng ghi hình ở đài truyền hình địa phương để nhớ rõ khuôn mặt. Thật đúng là may mắn khi người ông ta tìm thấy lại chính là Bob Riley. Ông ta đã đọc về sự nghiệp của anh nhiều hơn các chỉ huy khác. Viên sỹ quan phu trách boong này giám sát việc bảo trì trên boong và đã làm việc hơn 10 tiếng dưới cái nóng như thiêu đốt, nên vào lúc 4.30 chiều anh bước vào CLB. Bữa trưa anh chỉ ăn nhẹ, mồ hôi ra như tắm và giờ chỉ muốn uống một vài cốc bia để bổ sung lượng nước và chất điện giải đã mất trong cái nắng như thiêu đốt của Alabama. Cô nhân viên phục vụ thấy anh bước vào đã đưa đến cho anh một cốc Samuel Adams lớn và một phút sau anh đã uống hết nửa cốc rồi. Edward Stuart bước lại gần anh cũng cầm trên tay nửa cốc bia

“Câu không phải là Bob Riley đó chứ?”

“Đúng thế” viên thủy thủ trưởng trả lời mà không quay đầu lại “Ông là ai?”

“Có lẽ cậu không nhớ ra tôi. Matt Stevens. Cách đây không lâu cậu gần như bóp tôi vỡ đầu trên tàu Mellon- nói rằng tôi thật ngu”

“Có vẻ như tôi đã sai” Riley nói, cố nhớ lại khuôn mặt của người đối diện xem đã gặp ở đâu

“Không, cậu nói đúng. Hồi đó tôi là một thằng ngốc và cậu…chà tôi nên cảm ơn cậu, master chief. Đúng là tôi đáng vì ngu. Đúng như cậu nói” Stuart chìa tay ra “Tôi đoán mình nợ cậu một cốc bia”

Riley không ngạc nhiên khi nghe câu nói này “Chà, tôi đoán tất cả chúng ta đều nợ một cái gì đó. Ông biết không, khi còn nhỏ tôi còn bị đập đầu vào tường không biết bao nhiêu lần”

“Không ít hơn đầu tôi đâu” Stuart cười toe toet “Cậu là chief vì vậy cậu phải gánh nhiều trách nhiệm và có tác phong, đúng không? Nếu không thì sao làm gương được?”

Riley cười toe toét đồng ý “Hiện ông đang làm việc cho ai?”

“Tướng Hally. Ông ấy đang ở Buzzard’s Point. Đáng nhẽ tôi phải bay cùng ông ấy đến gặp chỉ huy căn cứ. Nhưng tôi đoán là ông ấy đã nghỉ để đi chơi golf. Ông ấy chưa bao giờ giỏi trong môn đó cả. Cậu vẫn phục vụ trên Panache, phải không?”

“Ông đoán đúng rồi”

“Thuyền trưởng Wegener?”

“Phải” Riley uống xong cốc bia và Stuart vẫy tay ra hiệu cho cô phục vụ rót đầy

“Ông ấy có giỏi như moijt người hay nói không?”

“Red là thủy thủ giỏi hơn bất cứ ai tôi từng biết” Riley trung thực trả lời

“Không ai giỏi đến mức đó đâu, Master Chief. Này, tôi đã đã ở đó khi anh kéo con tàu dó qua, con tàu đó tên là gì gì, con tàu container gãy làm đôi….”

“Arctic Star” Riley mỉm cười, nhớ lại “Chúa ơi, chúng tôi đã thật tuyệt vọng vào chiều hôm đó”

“Tôi nhớ đã nhìn thấy gì. Lúc đó tôi nghĩ cậu thực sự điên rồ. Chà, cứt thật. Tất cả những gì tôi làm giờ chỉ là đánh máy cho viên tướng, nhưng trước khi làm việc này tôi đã phục vụ trên một con tàu nhỏ vào năm 41, hạ thủy ở Norfolk. Tất nhiên, không gì giống Arctic Star cả”

“Đừng bất mãn, Matt. Một trong những cái hay của công việc này là anh có những câu chuyện biển cả khoe đủ 2 năm. Tôi thường nghĩ mình sẽ tìm một công việc dễ dàng hơn vào ngày nào đó. Tôi hơi già so với mấy việc này rồi”

“Thức ăn ở đây thế nào?’

“Cũng được”

“Chiêu đãi cậu bữa tối nhé?”

“Matt, tội thậm chí không nhớ mình đã nói gì với anh”

“tôi nhớ” Stuart bảo đảm “Chúa biết tôi đã làm gì nếu cậu không cho tôi một trận hồi đó. Nên đừng để ý, tôi nợ cậu. Đi nào” Ông ta vẫy Riley qua một chỗ gần tường. Họ nhanh chóng uống đến cốc bia thứ ba thì trung sỹ phụ trách hậu cần Oreza tới

“Portagee, ở đây” Riley gọi đồng đội

“Tôi thấy bia lạnh đấy, Bob” Riley vẫy chào đồng đội “Đây là Matt Stevens. Chúng tôi từng cùng nhau ở Mellon. Tôi đã kể cho anh nghe về Arctic Star chưa nhỉ?”.

“Chỉ khoảng 30 lần thôi” Oreza lưu ý

“Ông muốn kể chuyện đó không, Matt?” Riley hỏi

“Này, tôi thậm chí không nhìn thấy toàn bộ, cậu biết đấy…”

“Phải, nửa số thủy thủ nôn hết cả ra, gió to lắm, máy bay trực thăng không thể cất cánh được. Con tàu container -chỉ còn đuôi tàu và không có mũi tàu và có vẻ cũng sắp đi theo…”

Trong vòng 1 giờ, họ đã uống thêm 2 cốc nữa và 3 người giải quyết đĩa xúc xích to ngon lành, món này với bia là nhất. Stuart nói về những câu chuyện của vị tướng mới, trưởng ban pháp chế của lực lượng bảo vệ bờ biển. Trong lực lượng bảo vệ bờ biển, các sỹ quan pháp chế thường cũng là các sỹ quan trực tiếp, đều biết lái tàu và chỉ huy quân đội

“Này, có chuyện gì với 2 tên ma túy mà các cậu bắt vậy?” viên luật sư cuối cùng cũng cất tiếng hỏi

“Anh đang nói gì vậy?” Oreza hỏi. Portagee vẫn còn hơi tỉnh táo

“Này, mấy gã FBI đã đến gặp Hally, phải không? Tôi đã phải đánh máy các bản báo cáo bằng máy đánh chữ của tôi đấy, biết không?”

“Mấy gã FBI đã nói gì?”

“Tôi không định…ồ, mẹ nó chứ! Nhìn này, các anh không có liên quan gì. Bên FBI không có làm gì hết. Họ chỉ nói thuyền trưởng các cậu đừng làm mấy điều ngu ngốc nữa, được chứ? Đó không phải là thỏa thuận cmn tốt sao? Chiến dịch TARPON. Toàn bộ chiến dịch đó được bắt đầu từ mấy người các cậu. Các cậu không biết sao?”’

“Cái gì?” Riley không xem báo hay TV mấy ngày nay. Dù anh có biết về cái chết của Giám đốc FBI, anh không kết nối sự việc đấy với màn ‘mô phỏng treo cổ’ của mình. Đó là cách họ vẫn gọi với nhau trên tàu

Stuart giải thích những gì ông ta biết, cũng khá rõ rang

“Nửa triệu usd?” Oreza thì thầm nói “Đủ đóng cho chúng ta vài chiếc tàu mới”

“Chúa biết chúng ta cần nó thế nào” Stuart đồng ý “Mấy gã các cậu không thực sự- ý tôi là, các cậu không thực sự…treo cổ một trong những tên khốn đó chứ?” Stuart thò tay vào túi bật nút máy ghi âm mini mà ông ta dấu sẵn trong đó

“thực ra đó là ý tưởng của Portagee” Riley nói

“chúng ta không thể thực hiện được màn đó nếu thiếu anh, Bob” Oreza khiêm tốn nói

“Phải, chà, cái bẫy ở đây là làm cách nào treo lên” Riley giải thích “anh thấy đấy, chúng tôi phải làm y như thật nếu muốn làm cho gã thấp bé đó sợ phát tè ra. Nó cũng thật sự không quá khó như tôi nghĩ lúc đầu. Sau khi chúng tôi để hắn một mình, một bác sy quân y gây mê cho hắn một lúc, tôi buộc một sợi dây vào lưng hắn và dựng hắn lên. Có một cái móc ở đằng sau chiếc thòng lọng, tôi quàng chiếc thòng lọng quanh cổ hắn và chỉ móc cái móc vào chiếc khóa trên lưng. Nói cách khác, chúng tôi đã sử dụng dây nịt trên lưng để treo hắn lên, chứ không phải thòng lọng quanh cổ. Chúng tôi thực sự không muốn treo cổ hắn làm gì- chà, tôi cũng muốn làm chuyện đó lắm” Riley nói “Nhưng Red không nghĩ đó là một ý kiến hay” viên sỹ quan phụ trách boong cười toe toét

“Mấy mẹo khác là làm thế nào đưa hứn đến cột buồm” Oreza nói “Chúng tôi đội một chiếc mũ trùm đầu màu đen lên đầu hắn, và có một phần của nó được ngâm trong ête. Thằng chó đó hét lên như một con lợn khi ngửi thấy mùi ether. Khi chúng tôi kéo hắn lên cột buồm, hắn bị lật nhào”

“Tên lùn đó tin tất cả là thật, tè ướt cả quần, trông hay thật! Sau khi đưa vào phòng họp thì hắn hót như chim vành khuyên. Tất nhiên là ngay sau đó thì chúng tôi tách hai đứa ra, cho tên kia tỉnh dậy. Hai gã đó đã hút cần sa cả ngày hôm đó nên tôi không nghĩ bọn chúng biết chúng tôi đã đánh lừa thế nào” Đúng là chúng không biết được

“Loại cần sa nào?”

“Đó là ý tưởng của Red. Bọn chúng có mang theo loại cần sa – trông giống như là thuốc là thực ấy. Chúng tôi nhặt được chúng và trả lại cho bọn họ. Khi tôi đưa trả lại, chúng vồ lấy như được quà. Tôi đoán chúng chẳng bao giờ hiểu chuyện gì thực sự xảy ra đâu” Hầu hết thì đúng thế, Stuart nghĩ, hy vọng cuộn băng ghi âm cũng ghi được những lời này

“Tôi thực sự ước mình có thể treo cổ hai kẻ này” Riley nói sau vài giây im lặng “Matt, anh chưa bao giờ thực sự nhìn thấy cảnh thảm thương trên du thuyền đó đâu. 4 người, anh bạn – nó giống như bước vào trại mổ. Đã bao giờ ngử thấy mùi máu chưa? Tôi không biết anh có thể chịu được không. Có lẽ anh chịu được” viên sỹ quan trấn an ông ta “Chúng đã hiệp người vợ và đứa con gái nhỏ, rồi cắt họ ra từng khúc giống như – Chúa ơi, anh biết đấy, tôi đã bị ác mộng bao đêm vì cảnh đó? Ác mộng- tôi ấy! Chúa ơi, đó là câu chuyện trên biển mà tôi muốn quên đi. Tôi cũng có một đứa con gái bằng tuổi đó. Mấy tên khốn đó hiếp con bé, rồi giết nó, rồi cắt nó từng khúc vứt cho cá mập ăn. Chỉ là một đứa con gái nhỏ, nó còn chưa đủ tuổi lái xe hay hẹn hò nữa”

“Chúng ta được hy vọng sẽ là những cảnh sát chuyên nghiệp, đúng không? Chúng ta được hy vọng sẽ chịu đựng được chuyện đó, không xen lẫn tình cảm cá nhân vào. Tất cả những chuyện khốn nạn kiểu thế?” Riley hỏi

“Đó là sách dạy thế” Stuart đồng ý

“Cuốn sách không viết về mấy thứ như thế này” Portagee nói “Những người làm công việc này- chúng không thực sự là người. Tôi không biết chúng là gì, nhưng chắc chắn không phải là người. Anh không thể làm mấy hành động khủng khiếp đó mà vẫn là con người được, Matt”

“Này, thế các cậu muốn tôi nó gì nào?” Stuart hỏi, đột nhiên chuyển sang phòng thủ, không phải là diễn nữa “chúng ta có luật pháp xử lý những người như thế”

“Luật không bao trùm hết được, phải không?” Riley hỏi

Stuart tự nghĩ trong cơn chếnh choáng men say, sự khác biệt giữa người ông muốn biện hộ và người ông phải luận tội là khách hàng của ông bây giờ là kẻ xấu trong khi phía bên kia lại là người tốt. Hiện giờ ông đang cải trang thành sỹ quan cảnh sát biển, điều này vi phạm pháp luật, và cũng giống như những người làm hành động làm, ông cũng đang làm việc này vì mục đích tốt, vì lý do đạo đức tốt hơn. Vì vậy ông tự hỏi ai đúng, ai sai. Tất nhiên, nó cũng chẳng quan trọng. Bất kể thế nào thì khái niệm “đúng/sai” đã biến mất ở đâu đó, không thể tìm thấy trong sách luật hay chuẩn mực đạo đức. Vậy nếu bạn chưa thể tìm thấy nó ở đó thì nó ở quái đâu chứ? Nhưng Stuart là một luật sư và công việc của ông là luật, không phải phân định đúng sai. Đúng hay sai là công việc của thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Hoặc các thành phần tương tự thế. Stuart tự nhủ mình đáng nhẽ không nên uống quá nhiều. Uống vào có thể khiến mọi thứ vốn rõ rang lại trở nên mơ hồ và mọi thứ mơ hồ lại trở nên rõ ràng

Chuyến đi lần này xóc hơn lần trước. Gió tây thổi từ Thái Bình Dương thổi lên sườn núi Andes, tìm kiếm một đường đi qua. Có thể cảm nhận được sự nhiễu loạn này ở độ cao 30.000 feet, ở dây chỉ cách AGL (above ground level – mặt đất) 300 feet khiến chuyến đi trở thành một hành trình khó khăn, , đặc biệt là đối với trực thăng sử dụng chế độ lái tự động theo địa hình. Johns và Willis cài chặt dây đai để giảm bớt va chạm, biết rằng những người ngồi khoang sau còn cảm thấy khó chịu hơn vì chiếc trực thăng lúc này đang lên xuống gần 20 feet và va chạm ít nhất mười lần mỗi phút. Johns giữ tay trên cần điều khiển và di chuyển qua lại bằng chế độ lái tự động, luôn sẵn sàng tự lái khi chế độ lái tự động gặp sự cố. Ông muốn nói đây là chuyến bay thật. Điều đó có nghĩa đây là chuyến bay nguy hiểm

Không dễ để vượt qua con đèo trước mặt, đó là một con đèo hình yên ngựa, có đỉnh cao 9.600 feet về phía nam và đỉnh núi cao 7.800 feet về phía bắc. Trực thăng Pave Low vượt đèo đón gió từ Thái Bình Dương với tốc độ hai trăm hải lý / giờ. Nó vừa tiếp nhiên liệu ngoài bờ biển Colombia nên nặng trĩu

“Đó là Mistrato” Đại tá Johns nói. Hệ thống định vị điện tử hướng dẫn máy bay bay theo hướng bắc quanh các thị trấn và đường xá. Hai phi công đặc biệt chú ý đến việc có người đi bộ, xe cộ hay nhà ở trên mặt đất hay không. Tất nhiên, lộ trình dựa trên các bức ảnh hồng ngoại do vệ tinh chụp vào ban ngày và ban đêm, nhưng cũng có khả năng xảy ra ‘bất ngờ’

“Buck, LZ số 1 trong 4 phút nữa” PJ nói qua bộ đàm liên lạc nội bộ

“Đã rõ” Họ đang bay qua Tỉnh Risaralda, một phần của hẻm núi lớn được hình thành bởi hai rặng núi khổng lồ cao vút lên mây, được hình thành bởi vết nứt của vỏ trái đất. Sở thích của PJ là địa chất. Ông biết cách nỗ lực để điều khiển máy bay ở độ cao này và cũng ngạc nhiên trước sức mạnh kỳ diệu đã tách dãy núi ra làm hai phần với độ cao bằng nhau

“Đã nhìn thấy LZ số 1” Đại úy Willis nói

“Thấy rồi” Đại tá Johns nắm lấy cần điều khiển và bật microphone “Một phút nữa. Súng sẵn sàng”

“Vâng” Trung sĩ Zimmer rời khỏi chỗ ngồi và đi về phía sau máy bay. Trung sĩ Bean bật nguồn súng máy, sẵn sàng bắn bất cứ lúc nào. Zimmer trượt chân và suýt ngã trên đống chất nôn. Không hiếm người bị nôn mửa. Bây giờ máy bay lại tiếp tục chuyến bay suôn sẻ vì chúng đã vào khu vực có mái che trên núi. Nhiều người ở đuôi máy bay rất say, vì vậy phải bước rất chắc chắn. Zimmer không hiểu được chuyện này. Trên mặt đất mà thế thì nguy hiểm quá

Chiếc trực thăng đã lấy lại cân bằng và sẵn sàng cho lượt hạ cánh đầu tiên. Đội thứ nhất đã đứng dậy. Cũng như lần trước, ngay khi máy bay hạ cánh, họ nhanh chóng chạy ra khỏi đuôi máy bay. Zimmer lại đếm số người để đảm bảo mọi người đều xuống máy bay an toàn. Ngay khi đội đầu tiên đã xuống hết, anh nhanh chóng thông báo cho phi công cất cánh tức thì”.

Chavez tự nghĩ. Lần tới, phải, lần tới mình thà tự di bộ cmn vào còn hơn là đi trực thăng. Anh đã trải qua nhiều chuyến bay tồi tệ, nhưng chúng chỉ là muỗi so với chuyến bay này. Anh đứng dưới gốc cây đợi những người khác trong đội đuổi kịp

“Có mừng vì được xuống mặt đất không?” Vega hỏi ngay khi đến nơi

“Tôi không biết mình ăn nhiều đến thế” Ding càm ràm. Anh đã gửi lại mọi thứ mình ăn vài giờ trước trên máy bay rồi, giờ đang mở can nước uống một ngụm lớn để rửa sạch mùi kinh tởm

“Tôi thường thích chơi trò tàu lượn” Oso nói “Giờ thì xin kiếu nhé”

“Hàng đó chỉ là cmn giả thôi” Chavez nhớ hình ảnh xếp hàng trước con tàu lượn siêu tốc trong Công Viên Trang Trại Berry ở Knott hoặc mấy công viên chủ đề ở California. Không bao giờ chơi nữa nhé!

“Cậu ổn chứ, Ding?” Đội trưởng Ramirez hỏi

“Xin lỗi, sir, chuyện này chưa bao giơ xảy ra trước đây- chưa từng! Tôi sẽ ổn trong vòng 1 phút” anh hứa với đội trưởng

“Cứ bình tĩnh. Chúng ta hạ cánh xuống một nơi rấ yên tĩnh và an toàn” Mình hy vọng thế.

Chavez lắc đầu để thoát khỏi cảm giác chóng mặt, Anh không biết cảm giác chóng mặt xuất phát từ tai trong, anh còn chưa từng biết đến cảm giác này cho đến trước nửa giờ trước. Nhưng anh đã làm đúng. Hít thở sâu, lắc đầu giúp khôi phục sự cân bằng. Mặt đất không còn chuyển động nữa, anh tự nhủ, nhưng phần não của anh không chắc đúng hay không

“Đội trưởng, đi đâu thế?”

“Cậu đã hướng đúng hướng cần đi rồi đấy” Ramirez vỗ vai anh “Đi nào”

Chavez đeo kính nhìn đêm và bắt đầu hành quân xuyên rừng. Chúa ơi, nhưng điều đó thật xấu hổ. Anh sẽ không bao giờ làm điều ngu xuẩn này lần nào nữa, vị trung sỹ tự hứa với bản thân. Đầu và chân anh vẫn chưa phối hợp với nhau tốt, anh tập trung chú ý dưới chân và địa hình xung quanh, nhanh chóng đi trước Đội khoảng 200m. Giờ thì anh nghĩ nhiệm vụ lần trước đến vùng trũng đầm đúng là chỉ để diễn tập, không thực sự nghiêm túc. Với suy nghĩ này trong đầu, anh gạt hết cơn buồn nôn còn vương vất trong dạ dày và bắt đầu vào việc

Mọi người đều làm việc muộn vào tối đó. Vẫn còn cuộc điều tra phải giải quyết và các công việc hàng ngày ở văn phòng vẫn phải hoạt động tốt như thường khi. Vào lúc Moira bước vào văn phòng của Shaw, cô đã chuẩn bị nói mọi thứ ông cần phải biết và đây là lúc phải nói cho ông biết điều cô đã quên. Cô không ngạc nhiên thấy Mr. Murray cũng có mật ở đó. Cô chỉ ngạc nhiên khi thấy ông mở lời trước

“Moira, cô có được phỏng vấn về chuyến đi của Emil không?” Dan hỏi

Cô gật đầu “Có, tôi có quên vài thứ. Tôi muốn nói với ông sáng nay, Mr. Shaw nhưng khi tôi đến sơm nay thì ông đang ngủ. Connie có nhìn thấy tôi” cô bảo đảm với ông

“Cô nói tiếp đi” Bill nói, tự hỏi liệu ông có nên cảm thấy tốt hơn với chuyện đó hay không

Bà Wolfe ngồi xuống, rồi quay sang nhìn vào cánh cửa mở. Murray bước tới đóng cánh cửa lại. Trên đường quay lại ghế ngồi, ông đặt tay lên vai cô “Moira, không sao đâu”

“Tôi có một người bạn, anh ấy sống ở Venezuela. Chúng tôi đã gặp nhau….chà, chúng tôi đã gặp nhau 1 tháng rưỡi nay và chúng tôi- điều này khó mà giải thích” cô dừng lại, nhìn chằm chằm xuống tấm thảm một lúc rồi ngẩng đầu lên “Chúng tôi yêu nhau. Anh ấy đến Mỹ vì việc kinh doanh cứ vài tuần/lần và vì Giám Đốc đi công tác, chúng tôi muốn có cuối tuần bên nhau…ở khách sạn The Hideaway, trên dãy núi gần Luray Caverns?”

“Tôi biết nơi đó” Shaw nói “Đúng là nơi đẹp để trốn tránh cuộc đời”

“À, vâng, khi tôi biết rằng Mr. Jacobs đi công tác và chúng tôi có cơ hội nghỉ cuối tuần dài cùng nhau, tôi đã gọi cho anh ấy. Anh ấy có một nhà máy, anh ấy sản xuất linh kiện ô tô – thực ra là hai nhà máy, một ở Venezuela và một ở Costa Rica. Bộ chế hòa khí hay đại loại thế”

“cô gọi cho anh ta ở nhà à?” Murray hỏi

“Không, anh ấy làm việc rất nhiều giờ ở công ty nên tôi gọi anh ấy ở đó. Tôi có số ở đâ”” cô đưa mảnh giấy xé ra từ quyển sổ ghi của khách sạn Sheraton mà hắn viết xuống “Dù sao thì tôi gọi đến thư ký của anh ấy – cô ấy tên là Consuela – vì anh ấy ra ngoài cửa hàng và anh ấy đã gọi lại cho tôi và tôi nói chúng tôi có thể ở cùng nhau vì ậy anh ấy đã đến- chúng tôi gặp nhau ở Sân bay vào tối thứ 6. Tôi rời khỏi đây trước khi Mr. Jacobs đi”

“Sân bay nào?”

“Dulles”

“Tên anh ta là gì?” Shaw hỏi

“Diaz. Juan Diaz. Các ông có thể gọi anh ấy ở nhà máy và…”

“Số điện thoại đó là thuộc một căn hộ, không phải nhà máy, Moira” Murray nói. Vấn đề rất rõ ràng, nhanh chóng

“Nhưng..nhưng anh ấy…” cô dừng lại “Không, không phải , anh ấy không phải….”

“Moira, chúng tôi cần miêu tả chi tiết ngoại hình của anh ta”

“Ồ, không” miệng cô mở to, hết nhìn từ Shaw sang Murray rồi quay lại nhìn Shaw, cảm thấy mọi thứ ngày càng đáng sợ, các cánh cửa như đóng sập lại trước mặt. Tất nhiên cô vẫn đang mặt bộ đồ đen, có thể chính là bộ cô đã mặc vào đám tang chồng. Cô mới trở lại người phụ nữ xinh đẹp, rạng ngời được vài tuần. Giờ thì không còn như vậy nữa. Hai sỹ quan cấp cao FBI cảm nhận được nỗi đau của cô, ghét mình khi thấy cô đau đớn như vậy. Cô cũng chỉ là nạn nhân mà thôi. Nhưng cô cũng là manh mối và họ cần đầu mối này

Bằng giọng vỡ vụn, Moira Wolfe lấy hết tất cả can đảm còn sót lại để miêu tả càng chi tiết càng tốt chân dung người đàn ông đó, trước khi cô hoàn toàn mất kiểm soát bản thân. Shaw báo trợ lý riêng đưa cô về nhà

“Cortez” Murray nói ngay khi cánh cửa đóng sập sau lưng cô

“Đúng cmn thằng khốn đó rồi” vị Phó Giám Đốc phụ trách hoạt động điều tra FBI đồng ý “Hồ sơ của hắn cho biết hắn rất giỏi lôi kéo mọi người. Chúa ơi, hắn vừa chúng minh là hồ sơ nhận xét đúng” Shaw cầm ly cà phê lên, liên tục lắc đầu “Nhưng hắn không thể biết bọn chúng sẽ làm gì, phải không?”

“Sẽ không hợp lý nếu hắn biết điều đó mà vẫn đàng hoàng tới Mỹ” Murray nói “Nhưng từ khi nào mà bọn tội phạm hoạt động theo lý lẽ vậy? Chà, chúng ta sẽ bắt đầu kiểm tra cơ quan đăng ký nhập cư, khách sạn, sân bay để lần theo dấu vết của tên khốn này. Tôi sẽ đích thân xử lý vấn đề này. Chúng ta sẽ làm gì với Moira bây giờ?”

“Cô ấy không vi phạm luật, phải không?” Chuyện này đúng là phần kỳ quái “Hãy tìm cho cô ấy một việc gì đó không đòi hỏi phải giữ bí mật, có thể là một văn phòng khác. Dan, chúng ta cũng không thể hủy hoại cô ấy”

“Dĩ nhiên là không”

Phải gần 11 giờ Moira Wolfe mới về đến nhà. Bọn trẻ vẫn đang thức đợi cô. Khi chúng thấy những giọt nước mắt của mẹ, chúng tưởng mẹ vẫn đau buồn vì đám tang. Tất cả chúng đều đã gặp Emil Jacobs và cũng buồn vì cái chết của ông như những người trong FBI. Moira không nói nhiều, hướng thẳng lên phòng ngủ để mặc bọn trẻ tiếp tục ngồi trước TV. Khi còn một mình trong phòng tắm, cô chăm chăm nhìn vào gương, trong đó là một người phụ nữ đã cho phéo mình bị dụ dỗ và lợi dụng như….một con ngốc, còn ngốc hơn cả một con ngốc, một mụ già cô đơn, ngu xuẩn, thích phù phiếm và tìm cách lấy lại tuổi trẻ đã mất. Thật ngu xuẩn khi tin rằng có thể yêu lần nữa….điều mà cô đã từng lên án- bao nhiêu người đã chết vì cô? 7 người? Cô không thể nhớ, chỉ đờ đẫn nhìn vào gương. Những đặc vụ trẻ trong đội an ninh của Emil còn có gia đình. Cô đã từng đan áo len cho đứa con đầu lòng của Leo. Nó vẫn còn bé quá- nó sẽ không bao giờ nhớ được khuôn mặt trẻ, đẹp trai của bố nó

Tất cả là tại mình. Mình đã giúp chúng giết họ.

Cô mở cánh cửa tủ thuốc phía sau gương. Giống như hầu hết mọi người, gia đình Wolfe không bao giờ vứt hết thuốc cũ đi, nó đây rồi, cô tìm thấy một hộp placidly. Vẫn còn- cô đếm được 6 viên. Chắc là đủ rồi

“Điều gì khiến anh phải đến đây thế này?” Timmy Jackson hỏi anh cả

“Anh đến Ranger để quan sát cuộc tập trận của Hạm đội. Bọn anh đang thử nghiệm vài chiến thuật đánh chặn mới mà anh hỗ trợ xây dựng. Và một người bạn của anh vừa nhận chức chỉ huy tàu Enterprise, vì vậy anh đến trước một 1 ngày để tham dự lễ nhậm chức. Ngày ami anh xuống San Diego và bắt COD đến Ranger”

“COD là gì?”

“carrier’s delivery truck – máy bay chuyên chở ra tàu sân bay” Robby giải thích “nó là một chiếc máy bay 2 động cơ. Vậy cuộc sống ở đơn vị bộ binh hạng nhẹ thế nào?”

“Bọn em vẫn đang trèo núi, dành toàn bộ thời gian cho bài tập mới nhất. Chỉ huy tiểu đội mới của bọn em thật sự khốn khiếp. Đúng là không công bằng” Tim nhận xét

“ý em là sao?”

Trung úy Jackson uống hết ly của mình “Bất kỳ trung đội bộ binh nào phải gánh cả một trung úy thiếu kinh nghiệm và một chỉ huy tiểu đội thiếu kinh nghiệm cũng thấy quá sức – đó chính là vị S-3 mới nói. Anh ta đang đi dã ngoại với bọn em. Thất nhiên, đại úy không thực sự nghĩ thế. Hôm qua phải tải ít trọng lượng hơn đấy- anh ấy chỉ trích em khủng khiếp. Chúa ơi, em ước gì Chavez quay trở lại”

“Hả?”

“Cậu đội trưởng tiểu đội mà em vừa phải cử đi theo lệnh. Cậu ta -đây mới là phần lạ này. Cậu ta được báo là cử đến làm người hướng dẫn tại trung tâm huấn luyện cơ bản, nhưng có vẻ như không phải thế. Vị S-3 mới của tụi em báo là đã gặp cậu ta ở Panama vài tuần trước. Viên trung sỹ trợ lý của em cố gắng tìm hiểu xem cậu ta đang ở đâu, hay xem đang bị điều đi đâu…cậu ta vẫn là người của em, anh hiểu chứ?”

Robby gật đầu, anh hiểu

“Dù sao thì tất cả hồ sơ của cậu ta đang bị thất lạc, và các viên thư ký thì đang chạy quanh để tìm kiếm. Fort Banning đã gọi điện hỏi xem cậu ta đang ở quái đâu vì họ cũng vẫn đang chờ cậu ta. Không ai biết Ding đang bị điều đi quái đâu cả. Mấy chuyện này có xảy ra ở bên hải quân không?”

“Khi một gã mất tích có nghĩa là cậu ta muốn mất tích”

Tim lắc đầu “Không, Ding không phải người như thế. Cậu ta rất già dặn so với tuổi. Em thậm chí không nghĩ cậu ta 20 tuổi cơ. Cậu ta muốn nghỉ hưu với tư cách là trung sỹ chỉ huy. Không, cậu ta không chạy trốn đâu”

“Vậy thì có thể ai đó đã để sai ngăn” Robby gợi ý

“Em hy vọng thế. Em vẫn còn là tay mơ trong mấy việc này” Tim tự nhắc bản thân “Nhưng vẫn thật kỳ lạ. Cậu ta thực sự xuất hiện trong khu rừng đó. Mà đủ rồi. Mấy cô gái nhà chúng ta thế nào?”

Có thể nói, ưu điểm duy nhất ở đây là thời tiết không nóng, thậm chí còn khá mát mẻ. Chavez tự nhủ chắ do không khí quá loãng nên không thể nóng lên được. Độ cao ở đây tưng tự như căn cứ huấn luyện Colorado, nhưng họ đã xa căn cứ đó vài tuần rồi và cũng phải mất vài ngày để lính mới có thể thích nghi lại. Không khí loãng sẽ khiến họ di chuyển chậm hơn nhưng Chavez nghĩ nó vẫn còn tốt hơn và dễ làm quên hơn thời tiết nóng ẩm

Những ngọn núi ở đây rất lớn – không ai gọi chúng là đồi – những con đường núi hiểm trở mà anh chưa từng thấy trước đây. Dù chúng vẫn được rừng rậm bao phủ nhưng anh vẫn phải chú ý đến bước chân để không phát ra tiếng động. Tin tốt tiếp theo là rừng rậm khiến tầm nhìn hạn chế. Chiêc kính nhìn xuyên đêm anh đang đội trên mũ được thiết khá kỳ lạ, nó cho phép anh nhìn không xa hơn 100m và thường chả mấy khi nhìn được khoảng xa tối đa, nhưng anh vẫn có thể nhìn được chứ bằng mắt thường chắc chả nhìn được gì trong rừng rậm thế này. Nơi này thật đáng sợ, hoang vắng va hơi cô độc, nhưng đối với trung sỹ Chavez lại như cá gặp nước.

Anh không đi theo đường đến thẳng mục tiêu đêm nay mà đi hteo con đường quanh co mà quân đội đã vẽ, liên tục rẽ trái hoặc rẽ phải theo hướng anh thực sự di chuyển. Cứ sau mỗi nửa giờ anh lại dừng lại và đợi cho đến khi nhìn thấy Đội ở phía sau. Rồi sau đó họ nghỉ ngơi vài phút, kiểm tra xem ai theo dõi hay không

Khẩu súng giảm thanh MP-5 có hai khóa trên dây đeo, Chavez choàng dây súng qua đầu và ôm súng trước ngực trong tư thế sẵn sàng khai hỏa bất cứ lúc nào. Băng thợ điện được quấn quanh họng súng để ngăn nòng súng bị chặn. Vòng dây đeo của súng cũng được quấn băng để giảm thiểu tiếng ồn do va chạm. Tiếng ồn là kẻ thù của họ. Chavez không chỉ phải chú ý đến tiếng ồn mà còn phải chú ý đến hàng tá thứ khác. Lần này chính là thực chiến. Người phổ biến nhiệm vụ đã nói với tất cả bọn họ điều đó.Công việc của bọn họ giờ không còn là do thám nữa

6 giờ sau, anh đã nhìn thấy Cứ điểm RON – điểm nghỉ qua đêm đã được chọn trước. Chavez liên lạc lại bằng mật mã qua radio – anh gõ vào phím truyền 5 lần và đầu kia sẽ trả lời 3 – mã này báo cả đội giữ nguyên vị trí chờ anh kiểm tra rõ ràng. Vị trí họ chọn là tổ chim thực sự – anh biết nó là tổ chim đại bàng – từ đây, trong ánh sáng ban ngày, họ có thể nhìn con đường quanh quo từ Manizales tờ Medellin dài hàng dặm và vài xưởng chế biến ma túy cach đó không xa. Ước tính rằng có 6 xưởng ma túy xung quanh cứ điểm RON này hoạt động trong một đêm. Chavez cẩn thận kiểm tra xung quanh, tìm kiếm các bước chân, rác…bất cứ thứu gì in dấu hoạt động của con người. Anh nghĩ, nơi này đẹp thế này, làm sao lại không có ai từng ở đây làm gì này khác chứ. Có thể một phóng viên ảnh của tờ National Geographic từng đến đây chụp ảnh vài bức về thung lũng này ấy chứ. Tuy nhiên, đến được đây đúng là cmn không dễ dàng, nó cao hơn mặt đường đến 3000 feet và đây không phải loại đường mà bạn có thể lái xe tăng qua chứ đừng nói đến ô tô. Anh đi vòng qua cứ điểm nhưng không tìm thấy bất kỳ điểm lạ nào. Có lẽ nơi đây quá xa. Nửa tiếng sau anh liên lạc lại với đội bằng mật mã radio. Thời gian này cũng đủ để Đội kiểm tra xem có ai theo dõi đám lữ khách vừa xâm nhập vào rừng này không. Nếu có thì sẽ phát hiện ra ngay. Khi đội trưởng Ramirez xuất hiện, mặt trời đã mọc, phản chiếu đường viền của những ngọn núi ở phía đông của thung lũng. Hoạt động bí mật vào ban đêm khiến họ cảm thấy thời gian như bị rút ngắn lại. Suốt nửa đêm hoạt động liên tục khiến họ thấm mệt, nhưng cũng không quá mệt và sẽ nhanh chong quen lại với độ cao nơi đây thôi. Khoảng cách từ điểm hạ cánh đến nơi đây chỉ khoảng 5 dặm- nhưng thực tế họ đã đi bộ 5 dặm và leo cao 2000 feet

Như trước đây, Ramirez chi Đội thành 2 nhóm. Có một con suối gần đó nhưng không ai cảm thấy khát lúc này. Chavez và Vega chiếm giữ lối vào một trong hai con đường có khả năng dẫn đên Cứ điểm nhất, đó là một con dốc thoai thoải, cây cối thưa thớt, tầm bắn rộng. Tất nhiên vừa rồi Ding đã không sử dụng đường này đi lên.

“Cậu thấy thế nào, Oso?”

“Tại sao chúng ta không thể đến nơi có nhiều không khí, mát mẻ và bằng phẳng?” trung sỹ Vega cởi bỏ áo lưới ngụy trang, đặt xuống đất, cuộn lại thành gối cho đầu nằm thoải mái. Chavez cũng làm vậy

“Vì người ta không chiến đấu ở đó, anh bạn. Đó là nơi xây sân golf”

“Mẹ nó chứ!” Vega đặt khẩu súng SAW kế bên một tảng đá nhô ra, rủ tấm vải ngụy trang trên họng súng. Anh có thể bẻ vài cành cây ngụy trang cho khẩu súng nhưng họ không muốn chạm vào bất cứ thứ gì xung quanh nếu có thể, trừ khi buộc phải làm. Lần tung đồng xu này Ding đã thắng và anh lăn xuống ngủ thiếp đi, không nói một lời

“Mẹ ơi?” Giờ đã hơn 7 giơ sáng và cô đáng nhẽ phải dậy để chuẩn bị xong bữa sáng cho gia đình. Dave gõ cửa nhưng không nghe thấy gì. Cậu bắt đầu cảm thấy sợ. Cậu đã mất cha và biết được chuyện ngay cả cha mẹ cũng không thể sống bất tử và không phải lúc nào cũng là trung tâm của bọn trẻ đang lớn. Cơn ác mộng này luôn ám ảnh những đứa trẻ trong gia đình Moira, nhưng cả bọn đều không muốn nói ra, thậm chí là không nói ra với nhau, vì sợ sau khi nói ra sẽ thực sự xảy ra chuyện như thế này. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Mẹ cũng đi giống Cha? Dave nghĩ về những gì có thể xảy ra, và trước khi tay chạm vào cánh cửa, mắt cậu đã đầy nước.

“Mẹ?” Giọng Dave bắt đầu run lên. Cậu cảm thấy xấu hổ về điều này và sợ bị các em nhỏ nghe thấy. Cậu xoay nắm cửa và từ từ mở cửa.

Cửa chớp mở, và ánh sáng ban mai chiếu vào phòng qua cửa chớp. Mẹ ở đó, nằm trên giường, vẫn mặc bộ quần áo tang đen, không di chuyển chút nào.

Dave đứng đó, nước mắt rơi như hạt vỡ. Ác mộng đã trở thành hiện thực, như thể đấm cho cậu một cú

“…..Mẹ?” Dave Wolfe cũng dung cảm như mọi thiếu niên tuổi dậy thì và sáng nay cậu gom tất cả can đảm mình có để bước tới bên cạnh, chạm vào tay mẹ. Nó vẫn còn ấm. Tiếp theo cậu sờ thấy mạch đập. Nó vẫn còn, yếu và chậm, nhưng vẫn còn. Điều này thôi thúc cậu hành động. Cậu nhấc điện thoại cạnh giường và bấm 911

“Cảnh sát khẩn cấp đây” một giọng trả lời tức thì

“Tôi cần một xe cấp cứu. Mẹ không thức dậy”

“Địa chỉ của cậu là gì?” đầu dây bên kia hỏi và cậu trả lời

“Được rồi, hãy miêu tả tình trạng của mẹ cậu”

“Bà đang ngủ và không thức dậy và…”

“Mẹ cậu có phải uốn quá nhiều không?”

“Không” cậu phẫn nộ “Bà ấy àm việc cho FBI. Đêm qua về bà lên giường ngủ luôn, ngay khi từ sở về. Bà…” và cậu nhìn thấy nó, ngay chiếc bàn cạnh giường “Ôi Chúa ơi. Có lọ thuốc ở đây….”

“đọc nhãn cho tôi” giọng bên kia điện thoại nói

“P-l-a-c-i-d-y-l. Nó là của bố tôi và ông ấy….” Đây đúng là tất cả những gì mà viên cảnh sát đang trực điện thoại cần nghe

“Được rồi- chúng tôi sẽ cử xe cấp cứu đến đó trong 5 phút”

Thực tế chỉ khoảng hơn 4 phút. Nhà gia đình Wolfe chỉ cách sở cứu hỏa có 3 dãy nhà. Khi các nhân viên y tế đến phòng khách, những người còn lại trong gia đình biết rằng có điều gì đó không ổn. Đội cấp cứu chạy lên lầu và thấy Dave đang nắm tay mẹ mình, run rẩy như cành cây trong gió. Người dẫn đầu đẩy cậu sang một bên, kiểm tra đường hô hấp của Moira, rồi mắt, rồi mạch đập

“Mạch yếu, 40 nhịp/phút. Nhịp thở…8/ phút. Do thuốc Placidyl” anh báo cáo

“Khốn khiếp thật!” viên cấp cứu thứ hai quay sang Dave “Bao nhiêu viên trong đó?”

“cháu không biết, đó là của bố và….”

“Đi nào, Charlie” viên y tế đầu tiên bế Moira lên “Tránh ra nào nhóc, chúng ta phải đi nhanh thôi” Không có thời gian để lãng phí. Anh cao lớn và bé Moira Wolfe ra ngoài phòng như bế một đứa trẻ “Cậu có thể đi theo chúng tôi đến bệnh viện”

“Mẹ…”

“Cô ấy vẫn còn thở, nhóc. Đó là điều tốt nhất tôi có thể nói với cậu lúc này” viên cấp cứu thứ hai nói với Dave trên đường ra cửa.

Chuyện quái gì đang diễn ra thế, Murray tự hỏi. Ông ghé qua để đón Moira – xe của cô vẫn còn ở bãi đậu xe FBI- và có lẽ sẽ giúp cô giảm bớt gánh nặng tội lỗi. Cô đã vi phạm nguyên tắc bảo mật và làm vài điều thật ngu ngốc nhưng cô cũng chỉ là nạn nhân của một gã điệp viên chuyên nghiệp chuyên đi tìm và khai thác điểm yếu của người khác. Mỗi người đều có những điểm yếu của riêng mình. Đây là bài học Murray rút ra sau nhiều năm làm việc cho FBI

Ông chưa bao giờ gặp mấy đứa trẻ con Moira nhưng ông có nghe về chúng và không khó để nhận ra một đứa đang tấp tểnh bước theo ra ngoài nhà theo xe cấp cứu. Murray đậu chiếc chiếc của mình ngay phía sau xe cấp cứu

“Có chuyện gì thế?” ông hỏi viên cấp cứu thứ hai và rút thẻ FBI ra vì vậy họ phải trả lời câu hỏi của ông

“Cố gắng tự tử. Đã uống thuốc. Còn gì ông cần nữa không?” nhân viên cứu thương bước tới ghế lái chiếc xe

“Cứ đi đi” Murray quay người để đảm bảo không cản trở đường đi chiếc xe. Rồi ông quay lại nhìn bọn trẻ, rõ vẫn chưa hiểu hết chuyện xảy ra và từ “tự sát” khiến chúng trở nên héo hon

Thằng khốn nạn, Cortez! Mày tốt nhất cầu mong đừng có rơi vào tay tao!

“Các con, bác là Dan Murray, làm việc cùng với mẹ. Các con có muốn bác chở đến bệnh viện không?” Vụ án có thể đợi. Người chết đã chết rồi và họ cần phải kiên nhẫn. Emil sẽ hiểu chuyện này thôi

Ông thả bọn trẻ ở lối vào phòng cấp cứu , lái xe đến chỗ đậu xe rồi sử dụng điện thoại trong xe . “Kết nối cho tôi với Shaw” ông nói với viên sỹ quan trực. Cũng không phải đợi lâu

“Dan, Bill đây. Chuyện gì thế?”

“Moira cố gắng tự sát tối qua. Uống thuốc”

“Cậu định làm gì?”

“Có ai đó phải ngồi đây với bọn trẻ. Cô ấy có bất cứ bạn bè nào không?”

“Tôi sẽ kiểm tra”

“Cho đến lúc đó thì tôi sẽ ở đây chăm sóc bọn trẻ, Bill. Ý tôi là…”

“Tôi hiểu. Được rồi. Cập nhật cho tôi chuyện ở đó nhé”

“Được rồi” Murray gác máy và đi vào bệnh viên. Bọn trẻ đang ngồi túm lại với nhau ở phòng đợi. Dan biết quy tắc phòng đợi cấp cứu. Ông cũng biết huy hiệu vàng của FBI có thể gõ cửa bất cứ cánh cửa nào. Đây chính là lúc tận dụng nó

“Các anh vừa nhận một phụ nữ vào đây” ông nói với viên bác sỹ gần nhất “Moira Wolfe”

“Ồ, cô ta đã OD (dùng thuốc quá liều)”

“Các anh không thể…” ông lạnh lùng ngắ lời “Cô ấy dính tới một vụ án lớn. Tôi muốn biết chuyện gì đang xảy ra”

Viên bác sỹ dẫn ông tới một giường cấp cứu. Khung cảnh thật không dễ nhìn. Moira có một ống thở nhân tạo ở cổ họng và ống truyền tĩnh mạch (IV lines) ở cả hai cánh tay- Ông nhìn kỹ hơn và thấy rằng một ống truyền dường như đang hút máu ra ngoài, sau khi đi qua một thiết bị nào đó, và sau đó truyền lại vào cánh tay này. Quần áo của cô đã được cởi ra, và cảm biến của máy điện tim (EKG) được dán vào ngực. Murray tự nhủ lẽ ra ông không nên đến gặp Moira