← Quay lại trang sách

Chương 18 BẤT KHẢ KHÁNG

Đối với Trung sỹ Mitchell, gọi bạn ông ở Fort MacDill là điều dễ nhất. Ông cùng với Ernie Davis từng phục vụ ơ Sư Đoàn Không Kích 101, cùng sống ngay kế bên phòng cậu ta ở căn hộ hai tầng, cùng nhau nướng xúc xích uống bia ở sân sau với bao nhiêu lon bia rỗng bóp nát. Cả hai đều là hạ sỹ quan cấp E-7, được quân đội huấn luyện tốt và quân đội hoạt động tốt dựa vào những hạ sỹ quan như họ. Các sỹ quan kiếm được nhiều tiền hơn và gánh tất cả mọi lo lắng trong khi những NCO (hạ sỹ quan) phục vụ lâu dài trong quân đội thì luôn giữ mọi thứ ổn định. Ông có một danh bạ điện thoại dài dằng dặc trên bàn và bấm số AUTOVON thích hợp

“Ernie phải không? Mitch đây”

“Xin chào, cuộc sống của cậu ở vùng rượu đấy thế nào?”

“leo đồi cả ngày. Mọi người trong gia đình khỏe cả chứ?”

“Vẫn ổn. Mitch. Gia đình cậu thì sao?”

“Annie càng ngày càng giống một quý cô bé nhỏ. Này, tôi gọi cho anh là muốn kiểm tra để chắc chắn một trong số những người bên tôi đã đến chỗ anh. Trung sỹ nhất (Staff sergeant) tên là Domingo Chavez. Ernie, anh sẽ thích cậu ta cho mà xem, đó là một thằng nhóc rất tuyệt. Dù sao thì thủ tục giấy tờ hơi lộn xộn và tôi chỉ muốn chắc là cậu ta đã đến đúng nơi cần chuyển đến”

“Không vấn đề gì” Ernie nói “cậu nói là Chavez à?”

“Phải rồi” Mitchell đánh vần cái tên

“Đừng cúp máy, Đợi một phút, tôi sẽ chuyển điện thoại” Một lúc sau tiếng của Ernie vọng lại kèm theo tiếng lách cách của bàn phím máy tính. Thế giới này sẽ như thế nào? Mitchell tự hỏi. Ngay cả các trung sỹ bộ binh cũng phải biết cách sử dụng mấy thứ chết tiệt này “Anh nói lại cái tên đó được không?”

“Họ Chavez, tên Domingo, bậc E-6” Mitchell đọc số thẻ quân nhân, cũng tương tự như thẻ bảo hiểm xã hội bên dân sự

“Cậu ta không có ở đây, Mitch”

“Hả? Chúng tôi gọi nhận được một cuộc gọi từ Đại tá O’Mara bên các anh…”

“Ai?”

“Ai đó tên là O’Mara. Sếp tôi nhận được cuộc gọi và hơi bối rối. Sếp tôi mới được bổ nhiệm, vẫn còn nhiều điều phải học” Mitchell giải thích

“Tôi chưa bao giờ nhe thấy tên đại tá O’Mara. Tôi nghĩ có thể cậu đã gọi nhầm, Mitch”

“Thật đấy à?” Mitchell thực sự bối rối “Sếp tôi chắc bị nhầm lẫn đâu đó rồi. Được rồi, Ernie. Thế là xong. Cho tôi gửi lời chào Hazel nhé”

“Đã rõ, Mitch. Chúc ngày vui vẻ, nhóc. Bye”

“Hừm” Mitchell chăm chăm nhìn điện thoại một lúc. Cái quái gì đang xảy ra thế này? Ding không ở Benning, cũng không ở MacDill. Vậy thì cậu ta ở cmn đâu rồi? Viên trung sỹ trưởng bấm số Tâm Tâm Quân Nhân ở Alexandreia, Virginia. Câu lạc bộ của các hạ sỹ quan thường có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, và cộng đồng các trung sỹ cấp E-7 còn hơn thế nữa. Cuộc gọi tiếp theo ông gọi cho Thượng sỹ Peter Stankowski. Ông phải quay số hai lần mới gọi được

“Chào Stan! Mitch đây”

“Cậu muốn đổi việc mới đấy à?” Stankowski là nhân viên điều phối nhân sự.Nhiệm vụ của ông là giao việc cho trung sỹ mới. Vì vậy ông rất có nhiều quyền lực

“Không, tôi chỉ thích làm bộ binh hạng nhẹ thôi.Tôi nghe nói anh chuẩn bị xe bọc thép để đối phó với chúng tôi à?” Công việc sắp tới của Stankowskie, theo như Mitchell biết gần đây, là làm đội trưởng đội xe tăng chiến đấu M-2 Bradley trong Sư đoàn Kỵ Binh Số 1 tại Fort Hood

“Này, Mitch, tôi đang có vấn đề với khớp gối. Câu có nghĩ chuyện thỉnh thoảng ngồi xuống chiến đấu vẫn tốt hơn không? Và khẩu pháo xích 25mm sẽ giúp ích rất nhiều đấy. Tôi có thể giúp gì được cậu đây?”

“Cố gắng tìm một ai đó xem đang ở đâu. Một trong những lính E-6 bên chỗ tôi không biết được cử đi đâu từ 2 tuần trước và chúng tôi phải kiểm tra xem cậu ta đang ở đâu. Chúng tôi vốn nghĩ cậu ta đã đến nơi rồi nhưng hóa ra không phải”

“Được…rồi. Tôi sẽ mở chiếc máy kỳ diệu và tìm cậu ta cho cậu. Tên cậu ta là gì?” Stankowski hỏi và Mitchell đọc thông tin

“11-B, phải không?” 11-B là Mã chuyên nghiệp quân sự (MOS- Military Occupation Specialty) của Chavez, cho thấy Chavez là lính bộ binh hạng nhẹ. Bộ binh cơ giới là 11-M

“PHải” Mitchell nghe thấy vài tiếng lách cách

“Cậu nói C-h-a-v-e-z, phải không?”

“Phải”

“Được rồi, cậu ta đáng nhẽ được cử đến Benning và đội mũ Smockey Bear..”

“Đũng là anh chàng đó!” Mitchell nói, thở phào nhẹ nhõm

“…nhưng họ đã chuyển lệnh và cử cậu ta đến MacDill” Nhưng cậu ta có ở MacDill đâu! Mitchell vừa định nói ra lại nuốt lại “Có một người quen ở đó. Cậu biết Ernie Davis, phải không? Anh ta ở đó dấy. Sao không gọi cho anh ta xem?”

“Được” Mitchell nói, thật sự ngạc nhiên về chuyện này. Mình vừa làm chuyện đó xong mà “Khi nào anh đến Hood?”

“Tháng 9”

“Được rồi tôi sẽ….ờ..gọi cho Ernie. Không có chuyện gì đâu, Stan”

“Giữ liên lạc nhé Mitch. Cho tôi gửi lời chào đến gia đình. Tạm biệt”

“Cứt thật” Mitchell thốt lên khi gác điện thoại. Ông vừa chứng minh được Chavez đã bốc hơi. Điều này thật sự kỳ quái Quân đội không thể để mất người, ít nhất là theo cách này. Viên trung sỹ không biết làm gì tiếp theo, ngoại trừ việc thuật lại cho viên sếp trung úy của mình

“Chúng ta đã ghi bàn tối qua” Ritter nói với tướng Cutter “May mắn đã đến với chúng ta. Một trong những người của chúng ta đã bị trầy xước, nhưng không có gì nghiêm trọng và giờ chúng ta đã đánh sập được 3 cơ sở chế biến, 40 kẻ thù…”

“Và?”

“Và tối nay, 4 thủ lĩnh của Cartel sẽ có một cuộc họp tối nay. Ngay đây” Ritter chỉ vào một bức ảnh vệ tinh cùng với bản sao của cuộc gọi bị chặn “Tất cả những người chịu trách nhiệm sản xuất: Fernández, d’Alejandro, Wagner, và Untiveros. Tất cả nằm trong sự kiểm soát của chúng ta”

“Được. Làm đi” Cutter nói

Cùng lúc đó, Clark cũng đang nghiên cứu bức ảnh đó, kèm theo vài bức ảnh tự mình chụp từ trên không trung và bản thiết kế ngôi nhà “Cậu nghĩ là phòng này, ngay đây?”

“tôi chưa bao giờ vào ngôi nhà này nhưng tôi nghĩ đó chính là phòng họp” Larson nói “Anh phải tiến gần đến mức nào?”

“Tôi muốn ở cách nó dưới 4km, nhưng GLD (định hướng laser trên mặt đất) có để đạt khoảng 6km”

“Trên đỉnh ngọn đồi này thì sao? Chúng ta có thể có tầm nhìn rõ từ đây”

“Mất bao lâu để đến đó?”

“3 giờ. Lái xe mất 2 giờ và đi bộ 1 giờ. Anh biết đấy, anh có thể làm điều đó từ máy bay….”

“Của cậu?” Clark cười ranh mãnh

“Không chắc chắn!” Họ sử dụng con Subaru hệ thống dẫn động hai cầu. Larson có đến 6 biển số khác nhau và dù sao con xe này cũng không thuộc sở hữu tên anh “Tôi có số điện thoại và một cái điện thoại di động”

Clark gật đầu. Anh thực sự mong đợi điều này. Anh đã từng xử lý những người như thế này trước kia nhưng chưa bao giờ được mang tính chính danh, và chưa bao giờ được cấp cao như vậy đồng ý “Được rồi, tôi phải xin chấp thuận lần cuối. Đón tôi lúc 3 giờ nhé”

Murray vội vã rời văn phòng đến bệnh viện ngay khi nhận được tin. Bệnh viên chưa bao giờ khiến người ta trông quyến rũ, nhưng Moira trông như già thêm đến 10 tuổi trong 60 giờ qua. Bệnh viện cũng không coi trọng nhân phẩm. Tay cô bị trói và bị bệnh viện trông coi nghiêm ngặt để ngăn cô tự tử. Murray biết chuyện này là cần thiết – không gì cần thiết hơn điều này – nhưng tính cách của cô đã bị vùi dập quá nhiều và điều này không tốt cho cô chút nào

Trong phòng đầy hoa. Chỉ vào vài đặc vụ FBI biết chuyện thật sự thế nào và tất nhiên nhiều người trong văn phòng lầm tưởng rằng cô quá đau buồn vì cái chết của Emil. Dù sao thì cho đến giờ chuyện đó vẫn gây sốc

“Cô thực sự khiến bọn tôi sợ đấy, cô nhóc” ông nhận xét

“Tất cả là do lỗi của tôi” ánh mắt của cô chỉ nhìn ông vài giây rồi rời đi

“Moira, cô là nạn nhân. Cô đã bị lừa bởi một trong những tên giỏi nhất trong nghề này. Chuyện này có thể xảy ra với những người thông minh nhất. Tin tôi đi, tôi biết điều đó”

“Đôi đã để cho hắn lợi dụng. Tôi hành xử như một con điếm….”

“Tôi không muốn nghe chuyện đó. Cô đã mắc sai lầm. Thế thôi. Cô không định làm tổn thương ai cả và cô không vi phạm bất kỳ luật nào. Không đáng phải chết vì chuyện đó. Cô vẫn còn bọn trể phải lo vì vậy cmn không đáng phải chết”

“Chúng sẽ nghĩ gì? Chúng sẽ nghĩ gì khi biết…”

“Cô đã khiến bọn chúng sợ hãi đủ rồi. Chúng yêu cô, Moira. Điều gì có thể xóa bỏ được tình yêu đó chứ?” Murray lắc đầu “Tôi nghĩ không điều gì đâu”

“Chúng sẽ xấu hổ vì tôi”

“Chúng sợ hãi vì cô. Chúng tự cảm thấy xấu hổ. Chúng nghĩ một phần là do lỗi của chúng”

Câu nói này đã chạm vào nỗi đau carcoo “Nhưng không phải thế. Tất cả là lỗi của tôi”

“tôi vừa nói cô không có lỗi gì cả. Moira, cô đã mắc bẫy của cái tên Felix Cortez đó”

“Đó là tên thật của hắn à?”

“Hắn từng là đại tá của DGI. Đào tạo ở Học viện KGB, và rất rất giỏi trong lĩnh vực vừa làm với cô. Hắn chọn cô vì cô là một bà góa, còn trẻ và xinh đẹp. Hắn đã điều tra và biết được cô đang cô đơn, giống như hầu hết góa phụ khác và hắn quyến rũ cô. Có lẽ hắn có tài bẩm sinh về chuyện này và được đào tạo để trở thành chuyên gia. Cô không bao giờ có cơ hội thoát bẫy hắn đã giăng ra đâu. Giống như cô bị đâm bởi một chiếc xe tải mà không hề nhìn thấy nó. Chúng tôi sẽ cử bác sỹ tâm lý đến, tiến sỹ Lodge từ Đại học Temple. Và ông ấy cũng sẽ nói với cô những điều như tôi vừa nói thôi, nhưng cái giá để thuê ông ta cũng rất đắt. Dù vậy, cũng đừng lo lắng. Bảo hiểm sẽ trả khoản này”

“tôi không thể tiếp tục làm việc cho FBI được nữa”

“Đúng thế. Cô sẽ phải từ bỏ quyền truy cập vào các thông tin mật” Dan nói “Nhưng đây không phải tổn thất lớn lao gì, đúng không? Cô sẽ làm việc bên Bộ Nông nghiệp, ngay trên phố này, với mức lương và mọi thứ khác vẫn như cũ” Murray nhẹ nhàng nói “Bill đã sắp xếp mọi thứ cho cô”

“Mr. Shaw? Nhưng….Tại sao?”

“Bởi vì cô là một người tốt, Moira, không phải người xấu, ok?”

“Vậy chính xác thì chúng ta sẽ làm gì?” Larson nói

“Hãy chờ xem” Clark trả lời, nhìn vào bản đồ dẫn đường. Có một nơi gọi là Don Diego không xa nơi họ sắp đến. Anh tự hỏi liệu có người tên Zorro sống ở đó không

“Trong trường hợp có ai đó nhìn thấy chúng ta đi với nhau thì cần kể câu chuyện gì?”

“Cậu là nhà địa chất và tôi thuê cậu đi tìm mỏ vàng mới”

“Được rồi” Đây là một trong kho câu chuyện vỏ bọc mà Clark từng sử dụng. Địa chất là một trong những sở thích của anh và anh có thể thảo luận về đề tài này khiến ngay cả một giáo sư trong ngành cũng cảm thấy xấu hổ. Thực tế anh đã sử dụng vỏ bọc này vài lần và câu chuyện này cũng giải thích cho cái xe dẫn động hai cầu mà họ đang lái, ít nhất là cho ai đó không phải dân chuyên nghiệp hoặc nhà trức trách. Họ cũng có thể giải thích chiếc máy GLD là máy khảo sát, và quả thực nó trông rất giống chiếc máy đó

Việc lái xe không xảy ra chuyện gì quá bất thường. Những con đường địa phương không có chất lượng tốt như đường xá Hoa Kỳ và không có nhiều lan can chặn bên đường, nhưng những người đại phương lái xe với tốc độ khiến Clark cảm thấy hơi chóng mặt và là mối nguy hiểm chính. Anh thích chuyện này. Anh thích Nam Mỹ. Mặc dù nơi đây có nhiều vấn đề xã hội, nhưng người dân nơi đây rất yêu đời, cởi mở và tươi tắn. Có lẽ Hoa Kỳ trước đây 1 thế kỷ cũng từng như thế. Các nước Phương Tây cổ có thể cũng từng thế. Có rất nhiều điều đáng ngưỡng mộ. thật đáng tiếc là nên kinh tế chưa phát triển đúng hướng, nhưng Clark không phải là nhà lý thuyết xã hội học. Bản thân anh cũng là con của một gia đình tầng lớp công nhân và trong những vấn đề quan trọng thì giai cấp công nhân trên toàn thế giới đều giống nhau. Chắc chắn những người dân bình thường nơi đây cũng không thích thú gì bọn buôn ma túy giống anh. Không ai thích bọn tội phạm cả, đặc biệt là cái loại phô trương thế lực. cảnh sát và quân đội có lẽ cũng rất tức giận nhưng không thể làm gì hơn. Tức giận và Vô lực. Nhóm “bình dân” duy nhất từng cố chiến đấu với bọn chúng mà M-19, một tổ chức du kích theo chủ nghĩa Marx- thực chất là một nhóm elite lớn lên trong thành phố lớn và được đào tạo đại học. Sau khi bắt có một em gái của trùm buôn cocaine lớn nhất, để cứu cô ta thì bọn buôn ma túy đã hợp lực với nhau để giết hơn 200 thành viên M-19 và thực tế băng đảng Medellin Cartel đã được lập ra trong quá trình này. Chuyện này khiến Clark nhìn Cartel với một con mắt khác. Bất kể là kẻ xấu hay không thì bọn chúng cũng khiến một nhóm cách mạng theo chủ nghĩa Marx phải lùi bước bằng chính quy tắc chiến tranh du kích trong đô thị của M-19. Sao lầm của chính -bên cạnh ngành kinh doanh ma túy mà Clark ghét cay ghét đắng – là đã cho rằng có thể đấu với kẻ thù khác lớn hơn bằng chính quy tắc đó và cho rằng kẻ thù mới không trả thù. Clark nghĩ, nhận gì trả lấy mới là công bằng. Anh ngả người ra sau và đánh một giấc. Chắc chắn giờ họ sẽ hiểu ra thôi

Cách bờ biển Colombia 300 hải lý, tàu USS Ranger bắt đầu thực hiện các hoạt động bay. Nhóm tác chiến tàu sân bay bao gồm tàu sân bay, tàu tuần dương lớp Aegis mang tên Thomas S. Gates, một tàu tuần dương có tên lửa dẫn đường, bốn tàu khu trục và khinh hạm được trang bị tên lửa dẫn đường, và hai tàu khu trục chống ngầm. Nhóm tàu tiếp tế bao gồm một tàu chở dầu, tàu chở đạn Shasta và 3 tàu hộ tống đang cách bờ biển Nam Mỹ 50 dặm. Cách bờ biển khoảng năm trăm hải lý, có một nhóm tác chiến tàu sân bay tương tự khác đang trên đường trở về Hoa Kỳ. Nó từng được triển khai tại “trạm lạc đà” ở Ấn Độ Dương trong một thời gian dài, và giờ đây nó đóng vai trò mô phỏng một hạm đội đối phương đang tấn công — một hạm đội đóng giả là người Nga, dù trong thời đại mở cửa này thì không ai còn nói như vậy nữa

Trên trạm điều khiển trên cao, Pri-Fly, Robby Jackson quan sát chiếc máy bay đánh chặn F-14 Tomcat đầu tiên đã cất cánh với tải trọng tối đa cho phép, phóng ra các ngọn lửa hình nón. Như mọi khi, nó giống như màn múa ba lê trên xe tăng, những chiếc máy bay khổng lồ, chất đầy tải được dàn dựng trên sân bay rộng bốn mẫu Anh bởi những cậu bé mặc những chiếc áo sơ mi màu mè, bẩn thỉu đi tới đi lui, linh hoạt tránh các lỗ hút và xả của động cơ phản lực. Đối với họ, điều này còn nguy hiểm hơn cả việc băng qua đường trong thành phố vào giờ cao điểm, và khó chịu hơn. Những thủy thủ mặc chiếc áo màu tím có biệt danh là “Nho” và có nhiệm vụ tiếp nhiên liệu cho máy bay. Những cậu bé khác mặc áo đỏ là nhân viên bom mìn, được gọi là “Quân nhân”, và họ đang chất vũ khí màu xanh lên máy bay. Phần bắn đạn thật của Shoot-Ex sẽ bắt đầu vào một ngày khác. Tối nay họ sẽ nhắm vào các phi công hải quân để thực hành chiến thuật đánh chặn. Tối mai, máy bay vận tải C-130 của Lực lượng Không quân sẽ cất cánh từ Panama, đến chở nhóm chiến đấu quay trở lại, sau đó phóng hàng loạt mục tiêu. Mọi người đều hy vọng rằng Tomcat có thể sử dụng tên lửa AIM-54 Phoenix mới được sửa lỗi để nổ tung bầu trời. Đây không phải là cuộc thử nghiệm do nhà thầu tiến hành. Các máy bay không người lái này sẽ do các trung sĩ không quân kiểm soát, có nhiệm vụ né tránh hỏa lực như thể tính mạng của họ phụ thuộc vào nó. Đối với họ, mỗi lần tránh lửa thành công là một lần phạt dành cho những phi công bắn không trúng mục tiêu, bởi những phi công đó phải mua bia hoặc những thứ khác để thưởng cho họ

Robby quan sát 12 chiếc máy bay phóng đi trước khi bước xuống sàn đáp. Anh mặc bộ đồ bay màu ô liu và cầm theo mũ bảo hiểm lên máy bay. Tối nay, anh sẽ lái một trong những chiếc máy bay có thiết bị cảnh báo sớm trên không E-2C Hawkeye, đây là phiên bản dành cho hải quân của con máy bay cảnh báo sớm trên không E-3A. Từ chiếc mày bay này anh sẽ quan sát xem liệu chiến thuật mới có hiệu quả hơn các quy trình của hạm đội hiện tại hay không. Tất cả đều được thực hiện trên mô phỏng máy tính rồi, nhưng máy tính không phải là hiện thực, một thực tế thường bị những người làm bàn giấy ở Lầu Năm Góc bỏ qua

Phi hành đoàn chiếc E-2C gặp anh ở cửa sàn đáp. Một lúc sau, nhân viên kiểm tra thiết bị của máy bay Hawkeye, hạ sĩ hải quân mặc áo nâu, đến và đưa họ lên máy bay. Nếu không có người giám sát, thì sàn đáp sẽ là nơi rất nguy hiểm cho phi công, tay hướng dẫn viên 25 tuổi biết rất rõ chỗ này. Trên đường ra máy bay, Robby để ý đến một chiếc máy bay ném bom A-6E đang tải một quả bom màu xanh lam, quả bom này đã được trang bị thiết bị dẫn đường để nó trở thành bom dẫn đường bằng laser GBU-15. Anh phát hiện ra đây là chiếc máy bay do chính phi đội trưởng lái. Anh nghĩ, đó phải là một phần của bài kiểm tra xác thực hệ thống, được gọi là Drop-Ex (Bài tập thả bom). Cơ hội thả bom thật không có nhiều nên các đội trưởng thích tự mình tiến hành. Robby tự hỏi không biết mục tiêu là gì- có lẽ chỉ là một cái bè- nhưng giờ anh cũng có việc phải lo. Một lúc sau, nhân viên phụ trách bay đã sắp xếp chỗ ngồi trên máy bay cho họ. Cậu ta nói vài câu với viên phi công rồi chào theo nghi thức quân đội và rời đi để thực hiện các công việc tiếp theo của mình. Robby ngồi trong ghế phóng của máy bay theo dõi, một lần nữa lại không thích việc chỉ là hành khách trên máy bay thay vì đích thân lái

Sau các quy trình vận hành bình thường trước khi cất cánh, Trung tá Jackson cảm thấy rung động khi động cơ tuabin bật lên. Rồi con Hawkeye bắt đầu di chuyển chậm và loạng choạng tiến tới một máy phóng ở giữa tàu. Các động cơ đã hoạt động hết công suất sau khi bộ phận gắn bánh đà được cố định vào tàu con thoi và phi công nói chuyện qua hệ thống liên lạc nội bộ để cảnh báo phi hành đoàn rằng đã đến lúc bay. Ba giây sau, tốc độ cất cánh của chiếc máy bay do Grumman chế tạo đạt 140 hải lý / giờ. Khi nó rời khỏi thân tàu, phần đuôi hơi chìm xuống và thân máy bay nhanh chóng lấy lại thăng bằng, và sau đó bắt đầu leo ​​lên độ cao 20.000 feet. Gần như ngay lập tức, bộ điều khiển radar ở phía sau máy bay bắt đầu kiểm tra hệ thống. Hai mươi phút sau, chiếc E-2C đã bay đến vị trí chỉ định cách hàng không mẫu hạm 80 dặm. Ăng-ten xoay của nó bắt đầu được kích hoạt, phát sóng radar lên không trung. Cuộc diễn tập bắt đầu. Jackson ngồi xuống để có thể nhìn thấy toàn bộ “trận chiến” trên màn hình radar. Mũ bay của anh được kết nối với phòng chỉ huy, vì vậy trong khi Hawkeye đang bay lơ lửng trên không, anh vẫn có thể nhìn thấy các máy bay của tàu Ranger triển khai kế hoạch đề ra thế nào

Tất nhiên, từ vị trí này họ cũng có thể nhìn thấy nhóm tác chiến tàu sân bay. Nửa giờ sau khi máy bay cất cánh, Robby để ý thấy hai máy bay bắn ra từ tàu sân bay. Tất nhiên, hệ thống máy tính radar đã nhận được tiếng vọng từ hai chiếc máy bay này. Họ đã leo lên độ cao 30.000 feet và gặp nhau. Anh ngay lập tức nhận ra rằng đây là một bài tập trận tiếp nhiên liệu trên không. Một trong hai chiếc máy bay nhanh chóng quay trở lại tàu sân bay, trong khi chiếc còn lại bay về hướng đông nam. Cùng lúc đó, cuộc tập trận cũng bắt đầu, nhưng cứ sau vài giây, Robby lại ghi nhận đường đi của mục tiêu mới đó, cho đến khi nó biến mất khỏi màn hình, vẫn hướng về đất liền Nam Mỹ..

“Vâng, vâng, tôi sẽ đi” Cortez nói “Tôi vẫn chưa sẵn sàng nhưng tôi sẽ đi” Hắn vừa gác điện thoại vừa rủa, rồi với lấy chìa khóa xe ô tô. Felix thậm chí còn chưa có cơ hội nhìn thấy một cơ sở chế biến nào và họ muốn hắn đến cái mà jefe gọi là… “Hội Đồng Sản Xuất” Thật đúng là nực cười. Mấy thằng ngu muốn nắm quyền lực nhà nước đã bắt đầu sử dụng những thuật ngữ bán-chính-thức này. Hắn lại chửi rủa trên đường bước ra ngoài. Phải lái xe một quãng đường xa đến cái lâu đài của cái gã bé nú, thần kinh và kiêu ngạo đó trên đồi. Hắn nhìn đồng hồ, sẽ mất khoảng 2 giờ. Và hắn sẽ bị muộn. Và hắn cũng chẳng thể nói với bọn họ bất cứ điều gì vì hắn làm gì có thời gian để mà tìm hiểu và bọn họ sẽ lại tức giận. Và hắn sẽ lại phải tỏ ra khiêm tốn. Cortez cảm thấy mệt mỏi khi cứ phải cúi đầu trước những người này. Bọn họ trả hắn số tiền lớn thật, nhưng không tiền nào mua được lòng tự trọng. Cortez tự nhắc mình khi khởi động xe rằng đáng nhẽ hắn phải nghĩ đến điều nay trước khi ký kết làm ăn với bọn họ. Rồi hắn lại chửi thề

Cuộc gọi mới nhất mà CAPER thu được đặt tên số 2091 và là một cuộc gọi từ một số điện thoại di động tới nhà của Đối tượng E. Văn bản xuất hiện trên máy in cá nhân của Ritter. Rồi đến cuộc gọi số 2092, trong chưa đầy 30 giây sau. Ông đưa cả hai bản thu được đó cho trợ lý đặc biệt của mình

“Cortez…trực tiếp đến đó? Giáng sinh vào tháng 6 rồi”

“Làm thế nào chúng ta có thể chuyển thông tin cho Clark?” Ritter tự hỏi.

Viên trợ lý suy nghĩ một chút “Chúng ta không thể làm gì hơn trong lúc này”

“Tại sao?”

“Chúng ta không có đường dây an ninh sử dụng được. Trừ khi- chúng ta có thể có một đường dây VOX tới tàu sân bay và gọi từ đó tới A-6 và từ A-6 tới Clark”

Giờ thì đến lược Ritter chửi thề. Không. Họ không thể làm thế. Mắt xích yếu ở đây là hàng không mẫu hạm. Viên sỹ quan hiện trường mà họ đưa lên tàu sân bay thực hiện việc giám sát vụ này sẽ phải đến gặp sỹ quan chỉ huy tàu sân bay – có thể không phải tìm ông ấy lúc ban đầu nhưng gần như chắc chắn cuối cùng cũng phải gặp ông ta – để yêu cầu một đài radio riêng để chuyển tin riêng. Ngay cả nếu được đồng ý thì cũng rủi ro quá nhiều vì sẽ có quá nhiều sỹ quan liên lạc quanh đó, quá nhiều câu hỏi sẽ được đặt ra. Ông lại chửi bới, nhưng rồi bình tĩnh lại. Có lẽ Cortez sẽ đến đó đúng giờ. Chúa ơi, nếu có có thể báo cho FBI là họ biết chỗ của tên khốn đó thì tốt biết bao! Howcj có thẻ, có ai đó có thể tiết lộ tin tức của hắn. Hay thôi nhỉ. Ông không biết nhiều về Bill Shaw và không biết ông ta sẽ phản ứng thế nào

Larson đỗ chiếc Subaru cách đường chính 100 yard tại một địa điểm gần như không thể phát hiện. Họ không gặp khó khăn gì khi leo lên điểm xác định trước khi mặt trời lặn. Các bức ảnh chụp trên cao xác định đây là vị trí lý tưởng, ngay trên đỉnh của một sườn núi, từ đây họ có thể quan sát trực tiếp ngôi nhà khiến họ kinh ngạc cách đó bốn km. Nó có diện tích 20.000 feet vuông – một tòa nhà hai tầng rộng 100 feet vuông không có tầng hầm- Nằm trong một khu vực hình tròn rộng sáu mẫu Anh được bao quanh bởi một hàng rào, thấp hơn khoảng ba trăm feet so với nơi họ đang đứng. Clark mang theo ống nhòm, và khi trời còn sáng, anh đã tranh thủ quan sát lực lượng an ninh của ngôi nhà. Anh đếm được hai mươi người, tất cả đều có vũ khí tự động. Hai khẩu đại liên hạng nặng do một số người vận hành được đặt trong các công sự tường xây để bảo vệ ngôi nhà. Anh nghĩ Bob Ritter đã liên tưởng đúng khi nghĩ nó giống St. Kitts : Frank Lloyd Wright (Kiến trúc sư vĩ đại nhất nước Mỹ) kết hợp với Vua Ludwig Điên. Ngôi nhà rất đẹp, mang phong cách kiến ​​trúc tân cổ điển-Tây Ban Nha-hiện đại, công trình kỹ thuật cao ngăn những người nông dân ngỗ ngược đến gần. Nó cũng có một bãi đáp trực thăng với con Sikorsky S-76 mới cứng đang đậu ở đó

“Còn điều gì khác tôi cần biết về ngôi nhà đó không?”

“Xây dựng rất chắc chắn, anh nhìn thấy rồi đấy. Tôi lo về chuyện đó thôi. Anh biết đây là đất nước của động đất mà. Về mặt cá nhân, tôi thích mấy cột gỗ nhẹ và dầm gỗ nhưng họ lại thích cấu trúc bê tông , chắc để để ngăn đạn và súng cối”

“Càng ngày càng tốt hơn” Clark nhận xét. Anh cho tay vào ba lô, lấy ra chiếc giá ba chân nặng nề, nhanh chóng và khéo léo đặt nó trên một nền đất vững chắc. Sau đó anh lấy ra GLD, lắp nó vào giá ba chân, sau đó điều chỉnh tầm nhìn. Cuối cùng anh lấy ra thiết bị nhìn đêm Noctron-V do Varo sản xuất. Tất nhiên, GLD có cùng hiệu suất, nhưng một khi thiết lập xong anh không muốn xảy ra sai sót nào cả. mặc dù Noctron chỉ phóng đại 5 lần- Clark thích làm với kính ống nhòm hơn – nhưng nó nhỏ, nhẹ, dễ mang theo và và có thể tăng ánh sáng xung quanh lên khoảng 50.000 lần. Công nghệ này có từ thời anh còn hoạt động ở Đông Nam Á nhưng tới giờ anh vẫn nghĩ nó là phép thuật hắc ám. Anh nhớ mình ra trận khi đó chả có gì tốt hơn ngoài cái máy ảnh mark-1. Larson phụ trách liên lạc vô tuyến, cũng đang cài đặt các máy móc của riêng mình. Giờ thì không còn phải làm gì khác, ngoài việc chờ đợi. Larson lấy ra vài đồ ăn nhanh và hai người ngồi xuống vừa ăn vừa chờ

“Chà, giờ thì cậu biết ‘Great Feet’ nghĩa là gì rồi đấy” Một giờ sau Clark cười toe toét. Anh đưa cho Larson coi Noctron

“Ôi trời, khác biệt cứ như người lớn và cậu bé…”

Đó là một chiếc xe bán tải Ford ba tấn ba tấn với hệ thống dẫn động bốn bánh, ít nhất là khi nó rời khỏi nhà máy, rồi sau đó sẽ được đưa đến gara độ xe, nơi chúng được thay thế những lốp xe có đường kính 4 feet, không quá để gọi chúng là “Big Foot” bởi vì nếu so sánh với những chiếc xe tải có vẻ ngoài kỳ lạ tại Auto Expo, nó chẳng là gì c, nhưng đều có tác dụng để lại ấn tượng sâu sắc với mọi người. Và nó phát huy hiệu quả khá thực tế ở đây, dù trông thực sự lạ lùng. Con đường đến tòa lâu đài rõ là cần sửa lại nhưng con xe đi trên đó cứ như trên đường bằng- dù đám vệ sỹ vưa chửi vừa cố đuổi theo đồ chơi mới và tuyệt vời của ông chủ

“Tôi cá nó uống xăng như trâu uống nước” Larson nói khi nhìn nó qua cổng. Anh đưa lại ống nhòm xuyên đêm cho Clark

“Hắn ta đủ khả năng” Clark quan sát chiếc xe chạy vòng ngôi nhà. Những gì họ mong đợi khá khó đạt được nhưng đành thế. Chiếc xe dừng lại ngay bên phải cạnh nhà, ngay bên ngoài cửa sổ phòng họp. Có lẽ hắn không muốn rời mắt khỏi đồ chơi mới

Hai người xuống xe. Họ được chủ nhà chào đón ở ban công -Clark không thể nhớ ra tiếng Tây Ban Nha cho từ đó là gì – bằng những cái bắt tay và ôm chòa mừng trong khi những lính vũ trang gần đó căng thẳng như đội cận vệ của tổng thống. Anh có thể thấy những người lính này chỉ thoải mái khi được vào bên trong, tản ra quanh nhà và quay về hòa với những người đồng đội – dù sao thì Cartl là một nhà đình lớn hạnh phúc, phải không?

Clark tự nhủ, cho đến lúc này thôi. Anh lắc đầu ngạc nhiên nhìn nơi đỗ xe

“Chiếc xe cuối cùng đến rồi” Larson chỉ tay về phía ánh đèn pha chiếu thẳng về phía trước trên con đường đầy sỏi đá

Đây là chiếc xe Mercedes chắc chắn đã được nâng cấp, trang bị chống đạn như một chiếc xe tăng – Clark nghĩ, giống như chiếc xe của đại sứ. Thật thi vị. vị khách VIP này cũng được chủ nhà đón tiếp nhiệt tình và hoành tráng. Lúc này đã có ít nhất 50 bảo vệ hiện diện. Xung quanh bức tường sân vẫn có nhiều lính canh. Cũng có những nhóm tuần tra sân không ngừng nghỉ. Điều anh thấy lạ là không có an ninh bên ngoài bức tường. Chắc hẳn phải có vài người chứ, nhưng anh không thể trông thấy. Mà cũng chẳng quan trọng. Đèn vẫn tiếp tục bật sáng trong phòng phía sau chiếc xe bán tải. Đấy mới là điều quan trọng

“Có vẻ đúng như cậu đoán đó, nhóc”

“Tôi được trả lương để làm việc đó mà” Larson nói “Anh có nghĩ khoảng cách của chiếc xe bán tải đó….”

Clark đã kiểm tra, hướng chum laser vào cả ngôi nhà và xe bán tải “Cách bức tường 3m. Đủ gần”

Trung tá Jensen đã hoàn thành việc tiếp nhiên liệu cho máy bay, ngắt kết nối với K.A-6 ngay khi kim chỉ dầu đã đến vị trí xác định. Anh rút lại ống tiếp dầu, hạ độ cao để cho máy bay chở xăng bay ra khỏi vùng. Nhiệm vụ này cũng không dễ dàng hơn. Anh hơi đẩy cần điều khiển sang phải, hướng 1-1-5 và ở độ cao 30.000 feet, khôi phục máy bay về trạng thái bay ngang bằng. Lúc này, bộ truy vấn IFF (Hệ thống truy vấn nhận dạng bạn hay thù) đã tắt và anh có thể thư giãn và tận hưởng niềm vui của bay lượn, điều anh thường làm. Ghế của phi công máy bay cường kích khá cao để công có thể quan sát tốt khi thả bom – anh nhớ ra loại ghế cao này quả thực hơi quá lộ khi máy bay bị tấn công. Jensen cũng từng thực hiện vài nhiệm vụ trước khi Chiến tranh VN kết thúc và anh vẫn còn nhớ hỏa lực của khẩu pháo phòng không 100mm trên thành phố Hải Phòng giống như một cục bông đen được bọc trong một trái tim màu đỏ hung ác. Nhưng đêm nay không giống thế. Ghế lái giờ giống như ngai vàng trên không trung. Các vì sao lấp lánh trên bầu trời và ánh trăng non sắp mọc. Mọi thứ trên thế giới đều dễ chịu. Thật không thể tin được anh sẽ thực hiện nhiệm vụ trong cảnh này

Với sự trợ giúp của ánh sao, họ có thể nhìn thấy bờ biển từ cách đó hơn 2 dặm. Máy bay ném bom đang đột nhập chỉ với tốc độc 500 hải lý/giờ. Sau khi Jensen bay ra khỏi vùng phủ sóng radar của E-2C, ngay lập tức anh đẩy cần điều khiển sang phải và bay về hướng Nam về phía Ecuador. Sau khi băng qua eo biển, anh quay mũi sang trái và bay dọc theo sườn núi Andes. Chỉ đến đây anh mới bật bộ nhận diện IFF. Cả Ecuador và Colombia đều không có lưới radar phòng không. Đâu phải quốc gia nào cũng cần mấy mặt hàng xa xỉ như vậy đâu. Vì vậy trên màn hình ESM của máy bay chỉ hiện thị các radar kiểm soát không lưu thông thường, khá hiện đại. Một mâu thuẫn ít được biết đến của công nghệ radar là những radar mới hiện đại này không thể thực sự phát hiện được máy bay chiến đấu mà chỉ có thể phát hiện ra các thiết bị thu phát radar. Mọi máy bay hàng không dân dụng trên thế giới đều có một “hộp đen” nhỏ — đây là cách hiểu chung về thiết bị điện tử của máy bay — nó ghi lại các tín hiệu radar nhận được và sử dụng tín hiệu riêng của mình để trả lời và cung cấp nhận dạng máy bay và các thông tin liên quan khác, sau đó được “hiển thị” trên phạm vi điều khiển tại trạm radar – thường là sân bay ở đây – để người điều khiển sử dụng. Nó rẻ và đáng tin cậy hơn so với các radar cũ sử dụng “skin paints” vốn xác định máy bay thông qua một tiếng vọng không tên trên màn hình huỳnh quang còn nhận dạng, hướng đi và tốc độ chỉ được xác định bởi những người làm việc không mệt mỏi dưới mặt đất. Có một chú thích kỳ lạ trong lịch sử công nghệ rằng mỗi hê thống mới phải biết ngược biết xuôi

Chiếc máy bay đột nhập nhanh chóng tiến vào khu vực kiểm soát bay thuộc Sân Bay quốc tế El Dorado ngoài Bogota. Người điều khiển ở đó gọi ngay cho máy bay ngay khi nó xuất hiện trên màn hình radar của sân bay

“Đã hiểu, El Dorado” trung tá Jensen trả lời tức thì “Đây là 4 -3K là chuyến bay số 6 của Công ty Hàng hóa Lục địa Mỹ, xuất phát từ Quito đến LAX ( Sân bay Quốc tế Los Angeles). Độ cao là 300, hướng đi 3-5-0 và tốc độ là 495. Over”

Sau khi kiểm tra dữ liệu radar của mình, người điều khiển radar trả lời bằng tiếng Anh – tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp hàng không quốc tế “4-3K, đã rõ, ghi nhận. Theo tôi thấy thì không có máy bay nào khác trong không phận của anh. Thời tiết CAVU (Độ cao và tầm nhìn không giới hạn). Giữ nguyên hướng đi và độ cao. Over”

“Đã rõ, cảm ơn và chúc ngủ ngon, sir” Jensen tắt radio và nói với người điều hướng ném bom bằng bộ đàm nội bộ “Nó rất đơn giản, phải không? Hãy bắt đầu công việc nào!”

Ở ghế bên phải thấp hơn ghế lái một chút, viên sỹ quan phi công hải quân bật radio của mình, rồi kích hoạt TRAM (cảm biến tổng hợp tấn công nhận dạng mục tiêu) treo trên trục giữa của thân máy bay

Còn cách 15 phút trước giờ T, Larson mở điện thoại di động bấm một dãy số “Señor Wagner, por favor/ xin hãy kết nối”

“Momento/ Chờ một chút” giọng bên kia trả lời. Larson tự hỏi không biết đó là ai

“Wagner” một giọng khác trả lời ngay sau đó “Ai đấy?”

Larson lấy giấy bóng kính từ một bao thuốc lá và vò nát nó trên ống nghe trong khi anh ta nói những từ ngắt quãng, rồi cuối cùng nói “Tôi không thể nghe thấy tiếng ông, Carlos. Tôi sẽ gọi lại trong vài phút” Larson nhấn nút tắt trên điện thoai di động. Dù sao thì vị trí này cũng ở rìa hệ thống thu phát sóng di động

“Liên lạc hay lắm” Clark tán thành “Wagner?”

“Cha của ông ấy từng là trung sỹ trong lực lượng SS của Đức – làm việc ở Sobibor -đến năm 46, cưới một cô gái địa phương và bắt đầu bước vào ngành kinh doanh buôn lậu, chết trước khi ai đó bắt được. Breeding kể thế” Larson nói “Carlos là một thằng khốn thực sự, thích đánh vợ hay bạn gái đến bầm dập. Mấy đồng nghiệp không thích tính cách hoang dại của hắn lắm, nhưng hắn lại rất giỏi trong công việc”

“Giáng sinh đến rồi” Mr. Clark nhận xét. 5 phút sau tiếng radio lại vang lên

“BW, đây là ZX, over”

“ZX, đây là BW. Tín hiệu rõ rang 5/5. Over” Larson trả lời tức thì. Bộ đàm của anh là loại UHF được mã hóa được sử dụng bởi kiểm soát viên không lưu phía trước

“Báo cáo tình hình, over”

“Chúng tôi đã vào vị trí. Mọi thứ đang diễn ra theo đúng kế hoạch.Nhắc lại, đang theo đúng kế hoạch”

“Đã rõ, ghi nhận. Chúng ta đang theo đúng kế hoạch. Ngừng nói trong 10 phút. Bắt đầu phát nhạc”

Larson quay sang Clark “Bật đèn báo lên”

GLD đã được nạp đầy pin. Mr. Clark xoay núm từ trạng thái sẵn sàng sang trạng thái sử dụng. Chiếc máy GLD có tên đầy đủ là Ground Laser Designator- Bộ Chỉ Đinh Laser Trên Mặt Đất, được thiết kế để sử dụng cho bộ binh trên chiến trường. Nó phát ra chùm tia laser hồng ngoại không nhìn thấy bằng mắt thường thông qua một bộ thấu kính phức tạp nhưng chắc chắn. Mục tiêu hiệu chuẩn sử dụng một cảm biến hồng ngoại, có thể cho người điều khiển biết mục tiêu đang nhắm tới là gì – về cơ bản nó là một tầm nhìn của kính viễn vọng. Có một thùng hàng bằng sợi thủy tinh ở phần chịu lực của “Great Feet” và Clark căn chỉnh hình chữ thập trên các ô cửa sổ, sử dụng các nút điều chỉnh tinh tế trên giá ba chân một cách khéo léo. Tia Laser đã xuất hiện đúng như mong đợi, nhưng rồi anh cân nhắc lại và cảm thấy mình nên tận dụng lợi thế từ vị trí trên cao của họ so với mục tiêu, vì vậy anh đặt điểm ngắm ở chính giữa nóc xe. Cuối cùng anh bật máy ghi video kết nối trực tiếp với GLD. Những ông lớn ở D.C muốn xem cuộn phim bom tấn này

“Được rồi” anh bình tĩnh nói “Mục tiêu đã được chiếu sáng”

“Nhạc đang bật và âm thanh rất tốt” Larson nói qua bộ đàm

Cortez đang lái xe trên đồi, đã qua chốt kiểm tra an ninh và thấy 2 người canh ở đó đang uống bia, hắn cảm thấy khó chịu khi thấy cảnh đó. Con đường này giống với con đường ở quê hương Cuba của hắn, ô tô chỉ có thể đi rất chậm. Tất nhiên, bọn họ vẫn sẽ buộc tội hắn đến muộn thôi

Thật dễ dàng quá, Jensen nghĩ khi nghe thấy câu trả lời. Máy bay đang ở độ cao 30.000 feet, trời trong, không có tiếng súng phòng không hay tên lửa đe dọa. Ngay cả cuôc kiểm tra đánh giá hiệu quả của nhà thầu cũng không dễ dàng thế này

“Tôi đã thấy nó” vị B/N (điều hướng máy bay ném bom) nói, nhìn chằm chằm xuống mục tiêu qua kính viễn vọng. Vào một đêm quang đãng, ở độ cao 30.000 feet, bạn có thể nhìn thấy rất xa, đặc biệt là với thiết bị trị giá hàng triệu đô la. Dưới thân của chiếc máy bay xâm nhập, Cảm Biến Nhận Dạng Mục Tiêu Và Các Cuộc Tấn Công (Target Recognition and Attack Multisensor- TRAM) đã phát hiện ra điểm laser cách đó sáu mươi dặm. Tất nhiên, đây là chùm laser điều chế và TRAM đã ghi nhận tín hiệu từ GLD. Lúc này họ đã xác định được mục tiêu

“ZX, xác nhận âm nhạc rất hay” Jensen nói qua bộ đàm/radio. Rồi anh nói ra hệ thống liên lạc nội bộ “Bước tiếp theo”

Vũ khí trên trái máy bay đã được kích hoạt, thiết bị tìm kiếm trên đầu quả bom đã được bật. Nó ngay lập tức bắt dược điểm laser. Bên trong máy bay, một máy tính đang tiếp tục theo dõi vị trí, độ cao, hướng và tốc độ của máy bay. Người điều hướng đã lập trình cho vị trí mục tiêu với độ chính xác là hai trăm mét. Tất nhiên, anh cũng có thể điều chỉnh gần hơn, nhưng nó không cần thiết. Toàn bộ hành động ném bom là hoàn toàn tự động, và ở độ cao như vậy, “vòng tròn” laser mà quả bom thả xuống sẽ rông đến bán kính vài dặm. Máy tính đã ghi nhận toàn bộ dữ liệu thực tế và đưa ra kế hoạch ném bom tối ưu, ngay trong phần tốt nhất của “vòng tròn”

Đôi mắt Clark giờ dán chặt vời GLD. Anh dùng khuỷu tay chống đỡ cơ thể và không để phần nào của cơ thể chạm vào thiết bị ngoại trừ cặp lông mày trên viền cao su của kính bảo vệ mắt

“Bắt đầu nào” vị B/N nói. Jensen giữ máy bay thăng bằng, hướng tới con đường được xác đinh bởi các hệ thống máy tính khác nhau trên máy bay. Bây giờ toàn bộ hoạt động đã bước vào một giai đoạn ngoài tầm kiểm soát của con người. Một tín hiệu máy tính nhận được trên thiết bị phóng, kích hoạt một vài viên đạn súng ngắn – thực tế nó đã được sử dụng như thế – bắn ra, tiến thẳng tới “chân máy phóng” và chạm vào tấm thép nhỏ phía trên vỏ bom, và bom tách ra khỏi máy bay.

Sau khi chiếc máy bay bị mất hơn 1.100 pound tải trọng, nó hơi xóc nhẹ

“Đã khởi hành, đã khởi hành” Jensen báo cáo

Kia rồi, cuối cùng cũng đến. Cortez đã nhìn thấy bức tường. Xe của hắn – hắn sẽ phải mu axe Jeep nếu còn muốn đến đây thường xuyên – vẫn lắc lư trên con đường đầy sỏi đá nhưng hắn đã xuyên qua cổng và nếu hắn nhớ đúng thì con đường bên trong đó vẫn còn tốt- có lẽ là sử dụng vật liệu thừa từ xây bãi đáp trực thăng.

“Đang trên đường tới” Larson nói với Clark

Quả bom vẫn đang bay tới với tốc độ 500 hải lý/giờ. Do lực hút của trái đất, nó bay theo đường parabol. Trong không khí loãng, tốc độ của nó thực sự tăng lên một chút và bộ phận tìm kiếm mục tiêu tự động điều chỉnh một chút định hướng, sửa sai lệch do tốc độ gió gây ra. Bộ phận tìm kiếm trên đầu quả bom được làm bằng sợi thủy tinh và trông giống như một viên đạn tròn với nhiều cánh trên đó. Khi chấm laser mà nó theo dõi di chuyển ra khỏi trung tâm trường nhìn của nó, toàn bộ công cụ tìm kiếm sẽ tự động điều chỉnh hướng của chính nó và phần đuôi bằng nhựa để làm cho điểm laser quay trở lại vị trí trung tâm. Độ cao chính xác mà quả bom phải hạ xuống là 22.000 feet, và chip máy tính siêu nhỏ trong thiết bị dẫn đường của nó có thể đảm bảo rằng nó bắn trúng mục tiêu chính xác. Nó có đủ thời gian để sửa sai lệch.

Clark không biết chính xác chuyện gì sẽ xảy đến. Đã lâu lắm rồi anh không gọi cuộc không kích và anh đã quên một số chi tiết nhất định – khi anh phải yêu cầu sự hỗ trợ bên không quân, anh thường không có thời gian để chú ý đến các chi tiết. Anh thấy mình tự hỏi liệu có tiếng hú hét gì khi thấy máy bay ném bom không – anh chưa bao giờ nhớ rõ khoảnh khắc chiến đấu đó. Đôi mắt anh dán chặt vào mục tiêu, vẫn cẩn thận không sờ vào GLD đề phòng xảy ra sai sót. Có vài người đang đứng gần xe bán tải. Một người đang hút thuốc và có vẻ như họ đang nói chuyện với nhau. Nhìn chung, thời gian này trở nên đặc biệt dài. Khi mục tiêu bị bắn trúng, không có cảnh báo, không có tiếng hút hét. Không gì hết.

Khi xe chạy trên con đường rải nhựa, Cortez cảm thấy bánh trước xóc lên

Độ chính xác “được đảm bảo” của quả bom laser dẫn đường GBU-15 là dưới 3m, nhưng đó là trong điều kiện chiến đấu và vụ kiểm tra hệ thống lần này dễ dàng hơn nhiều. Nó chỉ hạ cánh cách mục tiêu vài inch và đâm vào đầu xe tải. Không giống như lần diễn thử đầu tiên, lần này quả bom đã phát huy toàn bộ công suất. Trên quả bom có ​​hai ngòi nổ, một ngòi ở đầu và một ngòi ở đuôi. Sau khi bộ phần tìm kiếm chạm vào nóc xe tải bằng sợi thủy tinh, chip máy tính đã kích nổ quả bom trong vòng một micro giây. Ngoài ngòi nổ điện tử, nó còn có thiết bị kích nổ cơ khí dự phòng. Trên thực tế, thiết bị cơ khí là không cần thiết, nhưng ngay cả chất nổ cũng cần có thời gian. Sau khi kích nổ, quả bom rơi thêm ba mươi inch . Quả bom gần như đã xuyên qua trần nhà khi cả hai kíp nổ đều kích nổ. Quá trình gần như tăng tốc tức thì. Quả bom chứa đầy thuốc nổ octol, một loại thuốc nổ đắt tiền có thể được sử dụng để kích nổ vũ khí hạt nhân với tốc độ phát nổ hơn 8.000 mét / giây. Quả bom dễ cháy bốc hơi trong vài micro giây. Sóng không khí từ vụ nổ tiếp tục đập vào thân xe tải, làm nó nổ tung ra từng mảnh, và làm nổ tung các mảnh vỡ bay xung quanh – nhưng không hướng lên trên – sau đó là một làn sóng xung kích dữ dội. Trong vòng chưa đầy một phần nghìn giây, các mảnh vỡ và sóng xung kích đập dữ dội vào các bức tường bê tông của ngôi nhà. Kết quả là có thể đoán trước được. Bức tường bị thổi thành vô số mảnh vỡ, di chuyển với tốc độ cao như những viên đạn. Hậu quả của cơn sóng dữ ập vào các phần khác của ngôi nhà. Trước một sự kiện như vậy, hệ thần kinh của con người không còn thời gian để phản ứng, những người trong phòng họp thậm chí còn không kịp có gợi ý đầu tiên rằng mình sẽ chết.

Một mảng màu trắng (hơi xanh lục) xuất hiện trên cảm biến ánh sáng yếu của GLD. Clark lùi lại theo bản năng và tháo kính bảo vệ ra khỏi mắt để nhìn thấy một tia sáng trắng hơn trong khu vực mục tiêu. Họ ở quá xa nên không thể nghe thấy bất kỳ âm thanh nào tức thì. Bình thường thì bạn cũng không thể nghe thấy đâu, nhưng vụ nổ quá to nên lúc này có thể. Không khí nén gây ra bởi sóng xung kích nhanh chóng tạo thành một bức tường trắng ghê rợn tập trung vào vị trí ban đầu của chiếc xe tải, và mở rộng ra bên ngoài với tốc độ hơn một nghìn feet / giây. Khoảng 20 giây sau, Clark và Larson nghe thấy một tiếng nổ. Tất nhiên, tất cả những người trong phòng họp đã chết vào lúc này. Tiếng bom nổ vang lên như những oan hồn của một người đã khuất.

“Chúa ơi” Larson choáng váng trước sự kiện

“Nghĩ xem cậu đã sử dụng đủ thuốc nổ ở đó không, anh bạn?” Clark hỏi. Anh đang làm rất tốt nhưng không cảm thấy đáng cười. Đúng là lần đầu tiên. Anh đã quét sạch kẻ thù trước m?