- 5 -
Nguyên im lặng, chẳng phải anh đã từng đọc đâu đó rằng Manimovski nói: “Cái chết là sự khủng hoảng tối quan trọng và cuối cùng của cuộc sống”. Nỗi sợ chết là một trong những yếu tố quan trọng khiến cho con người tin vào thế giới tâm linh. Thế giới tâm linh chính là thế giới bên kia được con người nhận thức từ cái chết. Sự sống và cái chết là nỗi bận tâm lớn nhất của con người từ thủa hồng hoang đến bây giờ, không phân biệt màu da, sắc tộc hay tôn giáo vì ai cũng muốn sống, không ai muốn chết, và rất sợ chết. Cho nên con người mới xây dựng cho mình một thế giới bên kia vĩnh hằng, thánh thiện, linh thiêng. Bằng trí tuệ, con người đã tưởng tượng ra thế giới bên kia như cùng tồn tại song song với thế giới bên này. Vì con người đã bày đặt ra các nghi thức thờ cúng để tỏ lòng tôn vinh và sự kính trọng các thần linh đầy uy lực siêu việt. Ở đây chúng ta sẽ thấy trí tuệ và trí tưởng tượng của con người vô cùng vĩ đại, vô cùng phong phú. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều xây dựng cho mình những biểu tượng về một thế giới bên kia, vừa nối tiếp thế giới bên này vừa là một thế giới vĩnh hằng, ở đó con người trở nên bất tử và hạnh phúc, rất khác biệt với đời thực. Và sự gặp gỡ giữa người sống và người chết trong khi thờ cúng là những giây phút linh thiêng nhất. Đó là cội nguồn của cái thiêng trong đời sống tâm linh. Người ta đối xử với người chết cũng như người sống “Sự tử như sự sinh” (Khổng Tử). Con người làm cho người chết trở thành không chết, cùng nghĩa với người sống cũng thành bất tử, tức là biến cái hữu hạn thành cái vô hạn.
Không muốn rơi vào sự mông lung giữa những triết lý rối rắm tâm linh, linh hồn này nữa, Nguyên hắng giọng, cắt đứt những lời thao thao bất tuyệt của B. và cho ông ta biết mục đích của mình đến đây để làm gì.
- Tìm người thân? Ai?
- Thưa, một người quen của tôi bị tai nạn xe ô tô chết bên Mỹ, được biết… – Nguyên lúng túng không biết phải diễn giải làm sao về điều vô lý khó tin đến như vậy. Cuối cùng anh lấy cố sức để nói tiếp điều khó tin đó – Linh hồn anh ta đã về Việt Nam và giờ tôi muốn biết anh ấy đang ở đâu, anh ấy cần gì?
Phó Giáo sư B. gật đầu không hỏi nữa. Ông ta đứng dậy tiến đến một bàn thờ nhỏ nằm góc nhà, bấy giờ Nguyên mới chú ý, trên bàn thờ có gương mặt một ông lão nhìn khá phúc hậu với ánh mắt hiền hòa.
- Anh có biết ai đây không?
Ngạc nhiên vì câu hỏi ấy, Nguyên ngập ngừng hỏi khẽ.
- Có lẽ là thân sinh của giáo sư?
Nguyên nói trong sự không tự tin vì gương mặt cụ già trên bàn thờ và phó giáo sư B. thật ra mà nói không hề có nét gì giống nhau.
B. không trả lời mà thắp mấy nén nhang vẻ rất thành kính, chắp tay, cúi đầu lẩm bẩm gì đó khá lâu rồi quay lại nhìn Nguyên, se sẽ lắc đầu.
- Đây là cụ Trưởng của tôi đấy. Cụ Trưởng tôi sinh 1909, Kỷ Dậu ở Ba Đình, Hà Nội, có học vấn khá, thông thạo tiếng Pháp. Cụ từng tham gia hoạt động cách mạng trước năm 1945. Việc cụ Trưởng tôi sinh ra là cả một sự thần kỳ bởi khi đó ánh sáng rực trong phòng như một điềm báo. Rồi sau đó khi ông thân sinh ra cụ bị bệnh nan y, một thầy thuốc đến chữa khỏi không lấy tiền, gia đình cảm kích, cho cụ theo thầy học nghề. Từ đó cụ Trưởng tôi đã theo vị thầy đó đi đến những đâu, đã học như thế nào, đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Từ một cậu bé, ngày trở về quê hương, cụ Trưởng tôi đã trở thành một thanh niên khôi ngô tuấn tú và bắt đầu từ đó đi chữa bệnh cho mọi người. Phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng rất đặc biệt, người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, cụ sẽ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về. Cụ chữa bệnh bằng nước trắng, dùng giấy có chữ ký đốt hoặc dán lên chỗ đau. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa. Cụ chữa được nhiều loại bệnh như: điên, ung thư, đau dạ dày, xơ gan cổ trướng, máu trắng, thấp khớp, câm điếc, liệt tay, hen… Với khả năng đặc biệt của mình, cụ Trưởng tôi đã chữa cho không biết bao nhiêu bệnh nhân, kể cả những người thập tử nhất sinh, vô phương cứu chữa. Cụ đã mang lại cuộc sống cho rất nhiều người, mang lại hạnh phúc, nụ cười cho gia đình họ. Cụ chữa bệnh không những không lấy tiền mà cụ còn giúp bệnh nhân thấy được những lỗi lầm của họ để sửa tính nết. Tấm gương của cụ thật cao đẹp. Vừa chữa khỏi bệnh, cụ vừa khuyên bảo “đức làm người” cho họ. Cụ Trưởng tôi cũng từng nói: Cách chữa của tôi không học một trường nào cả. Từ khi còn ít tuổi, tôi đã phải bỏ nhà ra đi, mặc dù nhà rất giàu. Tôi phải chịu khổ lên rừng mà học mới có thầy dạy, phải học khó lắm. Từ câu nói này của cụ với góc độ khoa học chúng tôi hiểu rằng cụ đã chữa bệnh bằng năng lượng sinh học đặc biệt nào đó. Tôi đã đọc các tài liệu tham khảo, các thư từ của bệnh nhân và tìm theo các địa chỉ đó điều tra tìm hiểu các bệnh nhân đã được cụ chữa bệnh và sau đó nghiên cứu tìm hiểu các bệnh nhân mới. Giữa năm 1983, cụ Trưởng tôi mất đi trong sự tiếc thương vô hạn của nhiều người. Một cái chết nhẹ nhàng, bình thản bởi cụ đã biết trước đó nhiều ngày. Nhiều người coi cuộc đời của cụ như một vị thánh nhân cứu thế.
Vị Phó giáo sư nói về một cụ Trưởng nào đó trong sự thành kính.
Nguyên thầm nhận xét, cách nói của ông ta về vị thân sinh của mình thành kính pha lẫn màu sắc thần bí, nhưng sao nghe có vẻ xa lạ, có khoảng cách mơ hồ nào đấy, không giống lắm lời nói của một người con nói về đấng sinh thành ra mình. Cứ có vẻ như lời nói của một tín đồ nói về bậc giáo chủ của mình thì đúng hơn.
Nguyên gật gù nói:
- Không ngờ ông có một vị thân sinh giỏi như vậy!
- Ai nói với cậu đây là cha tôi?
Nguyên ngớ người ra ấp úng, phó giáo B. cười, phẩy tay.
- Đây là có thể là một nhà ngoại cảm sớm nhất của trung tâm chúng tôi. Riêng cá nhân tôi, tuy không được gặp ông khi sống, nhưng sau khi ông mất, đến viếng thăm nơi ông sống, chữa bệnh, đọc những tài liệu của ông để lại không hiểu sao tôi cảm thấy có một sức mạnh tâm linh nào đó tạo mối liên kết giữa ông và tôi.
- À, ra vậy, có lẽ khả năng ngoại cảm của B. có lẽ nhờ cụ Trưởng này trao truyền theo kiểu thầy trò chăng, Nguyên đoán.
- Tôi xin với người nhà cụ cho phép đem di ảnh cụ về đây thờ như một người thầy của mình.
Nguyên nhún vai, không bình luận về những lời của B. vì có vẻ như chẳng liên quan gì đến mục đích của anh. Tuy nhiên sau đó anh hiểu ngay ý nghĩa việc làm này của B. đó là mỗi khi muốn gặp một vong hồn nào, áp vong, bao giờ B. cũng làm thủ tục thắp nhang với cụ Trưởng này, nhờ ông “về” ủng hộ, giúp đỡ.
Sau khi thắp nhang lên bàn thờ, B. quay về ghế nhắm mắt, im lặng. Nguyên hồi hộp nhìn ông ta, khoảng mấy giây sau, bất ngờ B. mở to mắt, chiếu những tia sáng kì dị ra cửa, miệng mấp máy liên hồi như đang muốn nói gì với ai đó. Cứ có vẻ như đang xảy ra một sự tranh cãi kịch liệt, cuối cùng B. im lặng, người rung lên bần bật mấy giây và rồi mở mắt ra. Ông ta uể oải nhìn Nguyên, thở nhẹ.
- Cậu ta đang đi tìm người yêu của mình và anh có thể giúp cậu ta được.
- Tôi? – Nguyễn Nguyên há hốc mồm.
- Lý do, tôi không biết, nhưng cậu ta nói rằng chỉ có anh mới có thể giúp cậu ta thôi.
- Nguyên thừ người ra mấy phút, ấp úng.
- Vậy tôi phải làm gì để giúp anh ta đây?
- Đó là một thanh niên trẻ, đang đau khổ vì chuyện tình yêu của mình. Hiện nay linh hồn cậu ta đang lang thang vô định, hoảng hốt mù mịt, không biết sẽ trôi dạt về đâu…
Không hiểu sao khi nghe những lời nói của B. trái tim của Nguyên bỗng đau nhói những cảm giác phiền muộn, tội lỗi. Bất giác mấy giọt nước mắt trào ra lúc nào anh không để ý.
- Thông thường một linh hồn sau khi lìa thể xác, thời gian đầu sẽ không hiểu tại sao và thậm chí họ vẫn tin rằng mình đang sống nhưng rồi linh hồn sẽ bình an khi hiểu rằng mình đã chết sau 49 ngày. Có những cái chết đột ngột, mạnh bạo, xảy ra trong khi cơ thể đương đầy sinh lực, làm cho hồn đau đớn như bị xé ra và ở trong tình trạng hoảng loạn kéo dài. Những người tự sát thường cũng có những cảm giác khủng khiếp trong nhiều năm, thậm chí họ luôn thống khổ về điều ấy.
Khi một linh hồn không chịu quay về bản quán với gia đình dòng họ mà lang thang lạc loài, họ sẽ rất dễ bị các thế lực đen xấu xa lôi kéo làm hại.
Nguyên hoảng hốt.
- Vậy tôi phải làm sao?
B. nhún vai.
- Tôi có khuyên với cậu ta hãy trở về với Tứ phủ, nương nhờ bên ấy che chở giúp đỡ vì cậu ấy vốn là người của Tứ phủ.
- Tứ phủ?
Nhìn đôi mắt tròn bối rối của Nguyên, B. bật cười.
- Tứ phủ tức là Công đồng Tứ phủ bên các Mẫu đấy. Cậu ấy thuộc về Mẫu Thoải dưới quyền cai quản của cô Bơ Thoải phủ.
- À, Nguyên gật gù dù anh chả hiểu gì về đồng bóng cả.
- Tôi không biết việc anh cần tìm cậu ấy để làm gì, điều tôi muốn nói lại rằng, linh hồn cậu ấy đang đau khổ và bơ vơ. Muốn giải thoát cho linh hồn cậu ấy được thanh thản siêu thoát thì phải tìm đến xem nguồn gốc của vấn đề là gì, cậu hiểu tôi chứ?
- Ai sẽ làm điều ấy? – Nguyên hỏi lại lần nữa.
- Chính anh – B. khẳng định chắc nịch lần nữa.
- Tại sao phải là tôi.
- Điều ấy tôi không biết – B. nhún vai – Công việc của nhà ngoại cảm chúng tôi vốn chỉ là cầu nối giữa hai thế giới, chứ chúng tôi không thể giải quyết cho một linh hồn phải làm gì, đi đâu…
Chả hiểu gì hết, đó là lời của Nguyên muốn nói với B., có điều thấy ông ta nhiệt tình quá nên anh im lặng. Bỗng nhiên Nguyên nhớ đến người anh đã mất của mình. Ừ, anh có gia đình, ba má, không đến nỗi lạc lõng như linh hồn người thanh niên này.
Ra về nhưng những lời của B. như vẫn vang bên tai Nguyễn Nguyên. Linh hồn không bao giờ tiêu diệt. Nó là nguyên tắc của đời sống, nguyên do của cảm giác. Nó là một sức mạnh vô hình, ngự trị trong chúng ta và điều hòa tất cả cuộc sống chúng ta. Xem ra cái chết không đáng sợ, chỉ là một sự chuyển tiếp, một sự đổi mới, vì thực ra không có ai chết, mà là một sự thay đổi hình thức bên ngoài, mà nguyên tắc của sự sống là linh hồn vẫn tồn tại mãi mãi, không bao giờ mất. Nó giữ được tất cả bản năng của nó và tất cả những đức tính nó đã bồi đắp được trải qua nhiều đời liên tiếp. Ðó là kho tàng quý giá mà chúng ta có thể đem theo để hữu ích cho ta trong đời sống sắp tới.
Minh Mẫn… vậy anh đang ở đâu? Điều gì làm anh đau khổ đến nỗi không thể trở về với gia đình mình mà lang thang lưu lạc mãi vậy? Anh đang tìm ai, người đó là ai? Tôi sẽ giúp gì cho anh, tại sao phải là tôi?
Nguyễn Nguyên rất muốn hỏi những câu hỏi ấy nhưng lại không biết phải nói với ai bây giờ.
*
Hai thân hình quấn chặt lấy nhau. Những ngón tay cô gái bấu chặt lấy thân hình lực lưỡng của gã đàn ông, hổn hển thở gấp, thở gấp trong cảm giác sung sướng tột độ. Đêm nào cũng thế, mỗi khi làm tình, bao giờ gã đàn ông này cũng đưa cô ta lên đến đỉnh cao sung sướng. Một sự thành thạo làm tình đến mức những gã trai bán dâm chuyên nghiệp cũng bái phục làm thầy.
Bỏ người tình đang nằm ngây ngất, Bạch Hổ ngồi dậy, đi ra cửa sổ, đẩy cánh cửa ra, một làn gió mát ùa vào phả bớt bầu không khí quá lạnh trong căn phòng bởi máy lạnh. Hắn ta châm điếu thuốc, trầm ngâm nhìn ra ngoài. Ánh mắt y nhìn thẳng vào căn biệt thự của Bạch Vân nằm phía bên kia đường. Một biệt thự nhỏ, một trệt một lầu, xây theo kiểu Pháp nằm lúp xúp dưới những tán cây dày đặc, che kín mọi ánh nhìn tò mò từ bên ngoài. Bên cạnh nhà, góc đường bên này vốn có một ngọn đèn đường cao áp vẫn phủ ánh sáng xuống ngôi biệt thự. Hồi đầu khi Bạch Hổ đến thuê khách sạn này, đèn vẫn sáng, nhưng rồi thời gian gần đây ngọn đèn này tắt ngúm không lý do nhưng hắn ta biết, cười khẩy.
Hắn sử dụng chiếc ống nhòm đêm kỹ thuật số gắn camera NV5, đây là một thiết bị ống nhòm đêm mới với một số tính năng độc đáo, tiện lợi được hình thành bởi công nghệ quang học và kỹ thuật số hiện đại. Hình ảnh sau khi quan sát được đưa ra trên màn hình LCD màu với khả năng có thể điều chỉnh được độ sáng và độ sắc nét cùng với toàn bộ phạm vi quan sát. Chế độ kép hệ thống chiếu sáng IR được bổ sung với khả năng phóng đại gấp 5 lần đảm bảo cho cái nhìn hoàn hảo bất kể điều kiện ánh sáng.
May mắn làm sao, căn phòng 301 của khách sạn này lại nằm nhìn thẳng sang bên kia đường, đúng căn nhà của Bạch Vân. Thế nên từ trên cao chĩa ống nhòm sang, bất chấp ngọn đèn đường kia đã bị đám vệ sĩ trong nhà Bạch Vân làm cháy, hình ảnh vẫn rõ mồn một. Mọi sinh hoạt ban đêm của nhà Bạch Vân đã được Bạch Hổ quay đầy đủ, đưa vào chiếc tivi lớn. Gã bỏ ra mấy ngày liền đánh dấu, ghi chép tẩn mẩn. Mọi sinh hoạt trong căn nhà kia, từ người làm bếp, người làm vệ sinh nhà lẫn vườn cây, đặc biệt là mấy tên võ sĩ Kendo ở đâu, bảo vệ từng khu vực thế nào, hắn đều ghi rất kỹ. Điều nguy hiểm nhất ở nhà riêng của Bạch Vân chính là mấy con chó săn Phú Quốc và mấy con Bẹc giê. Loài này nhạy và tinh khôn nổi tiếng.
Bạch Hổ đã giật mình khi phát hiện hai tên bảo vệ của Bạch Vân chính là hai võ sĩ Kendo có đẳng cấp. Một lần ống quay của Bạch Hổ đã vô tình ghi hình được một buổi tập của hai tên này trên sân thượng nhà Bạch Vân. Cứ nhìn cách bọn chúng vung kiếm, một sát thủ máu lạnh như Bạch Hổ mà cũng thấy rợn người. Ken có nghĩa là kiếm, Do có nghĩa là đạo. Kendo – Kiếm đạo hay Đạo dùng kiếm. Theo như truyền thống của kiếm đạo Nhật Bản là nhất chiêu tất sát tức chỉ cần một chiêu là giết được đối thủ, vì vậy các đòn đánh của kiếm đạo thường nhằm vào những chỗ hiểm yếu trên cơ thể tấn công và chỉ một đòn thôi. Một kiếm sĩ Kendo thượng thừa dường như không bao giờ tuốt kiếm ra khỏi vỏ. Lúc tấn công kiếm vừa ra khỏi vỏ, thậm chí chưa ra hết khỏi vỏ, đối phương đã có thể ngã gục. Đường kiếm nhanh hơn cả tia chớp. Ấy là huyền thoại ghi nhận thế. Võ sĩ Kendo vốn không có đẳng cấp đai đen đai nâu như các môn võ khác. Khi võ sĩ Kendo vung kiếm, chỉ nghe tiếng gió của kiếm lướt đi, người trong nghề mới biết trình độ của võ sĩ ấy. Càng ở đẳng cấp cao, võ sĩ Kendo càng thủ thế lâu và lặng lẽ. Đường kiếm chỉ vung lên trong tích tắc và là đường kiếm quyết định trận đấu. Hai tên đang bảo vệ Bạch Vân dường như nằm ở trình độ này.
Bạch Hổ nhăn mặt, hai tên võ sĩ Kendo lúc nào cũng áp sát Bạch Vân, quả là gã không thể nào có cơ hội. Muốn giết Bạch Vân chỉ còn cách làm sao phải tách được bọn chúng ra khỏi lão ta.
Sau đó, Bạch Hổ lên một sơ đồ và nghiên cứu tìm cách nào bí mật lẻn vào nhà của Bạch Vân để hành động. Gã ta nhanh chóng nhận ra căn nhà này như một pháo đài bất khả xâm phạm, hệ thống quét điện tử và chuông reo báo động ngay nếu kẻ lạ xâm nhập, mấy con con chó săn cùng những tên bảo vệ Kendo như âm hồn luẩn quất, chưa kể những tên vệ sĩ người Việt. Đột nhập tiêu diệt Bạch Vân là một giải pháp không khả thi, Bạch Hổ kết luận. Gã quyết định chọn giải pháp khác với yếu tố bất ngờ được đặt lên hàng đầu. Trong cuộc đời làm sát thủ của mình, không biết bao kẻ đã chết dưới lưỡi dao của tên Bạch Hổ này. Rất nhiều kẻ đến chết vẫn không biết ai giết mình là vậy. Thế nên trước khi ra tay, gã tổ chức điều nghiên cực kỳ kỹ càng để khi ra tay là thành công, xưa nay vẫn vậy.
Một đêm, Bạch Hổ quyết định mạo hiểm thám thính nhà Bạch Vân thử xem sao. Nửa đêm, trong khi cô nhân tình đang ngủ ngon, gã nhỏm dậy thay quần áo, rời nhà. Không muốn để cho nhân viên khách sạn phát hiện lẫn lọt vào khung hình của mấy cái camera an ninh. Gã bám lấy bờ tường, tuột xuống theo sợi dây cột vào cửa sổ. Đêm vắng thinh không, ẩn mình trong bóng tối, gã nhảy lên bám sát vào một gờ tường nhà Bạch Vân ở mé phải mà qua quan sát nhiều lần, gã nhận thấy có thể lẻn vào được bởi nơi này có một bụi cây um tùm dễ che nấp, chưa kể máy quét tia điện tử đến đây bị vướng cây. Vừa vọt lên tường nhà, Bạch Hổ đang định hướng tìm lối vào, thì tiếng chó sủa inh ỏi, những con chó Bẹc giê cao gần mét hùng dũng, lẫn chó Phú Quốc chạy tới đánh hơi, nhe hàm răng trắng ởn, mấy tên Kendo xuất hiện không tiếng động, lướt êm như mèo về phía ấy. Tí nữa xảy ra ác chiến, may thay Bạch Hổ nhanh chân đu lên cành cây gần đó chuồn ra ngoài, tụt xuống đất biến mất như làn khói. Chỉ trong tích tắc mấy tên Kendo kia cũng phóng lên cây, kiểm tra. Đêm đấy Bạch Hổ gặp may bởi thật lòng gã chưa muốn xảy ra đánh nhau, gây động cho Bạch Vân thì càng khó ám sát gã sau này hơn.
Cô tình nhân trẻ xuất thân từ người mẫu từng lên báo dăm ba lần, khá có tên tuổi nhưng không hiểu tại sao lại thành gái bán bar có đẳng cấp. Cô ta được nhiều thiếu gia vây quanh, tiền tung như bươm bướm, nhưng cuối cùng lại rơi vào vòng tay gã đàn ông này bởi một sức hút khó cưỡng nổi từ gương mặt lạnh lùng không biểu cảm, nhưng có một sức hút kinh người đối với phụ nữ. Và cô đã cặp với hắn cũng được ít ngày. Cô chỉ biết hắn là một thương gia trẻ hiện đang muốn điều nghiên thị trường để tìm cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Cô ta hoàn toàn không biết Bạch Hổ là ai, nhưng té ra đấy lại là điều may mắn bởi nếu không đã khó toàn mạng.
Ban ngày Bạch Hổ bám theo xe của Bạch Vân, nắm kỹ các tuyến đường đi về của hắn ta, nơi hắn ta đến làm giám đốc một doanh nghiệp lớn. Hầu như ít ai được thấy mặt Bạch Vân, mỗi khi hắn bước ra khỏi xe Mercedes-Benz AMG bao giờ cũng hai tên Kendo đứng kề trước sau. Xe ô tô chở Bạch Vân ra khỏi nhà là chạy thẳng lên công ty và hắn biến mất sau những cánh cửa kính trong phòng làm việc đến tận chiều tối. Cũng có khi hắn đi nơi này nơi kia nhưng lúc nào cũng có hai tên vệ sĩ Kendo kè bên, chưa kể tên lái xe cũng là một tay võ thuật thượng thặng. Còn không hắn luôn ngồi kín mít trong chiếc Mercedes-Benz AMG, không bao giờ hạ kính hay thò đầu ra ngoài.