PHẦN THỨ BA - CÁC THẦN THOẠI ĐỊA PHƯƠNG
Ngoài sự tích các thần nhân và các bán thần mà những biến cố đều bao gồm trong một hệ thống với những liên lạc gia tộc chặt chẽ, còn có những sự tích trong đó vai chính là những nhân vật chỉ nổi danh ở một địa phương và được dân gian truyền tụng. Trong các sự tích này thường khi vẫn có cả vai trò của các thần nhân nữa.
Riêng có sự tích Psyché thật ra không phải là một thần thoại vì do thi sĩ La tinh Apulée (thế kỷ thứ II sau Công Nguyên) viết ra. Tuy nhiên, tới nay sự tích Psyché đã gần như bước vào hàng thần thoại rồi và thường được nhắc tới trong văn chương Âu Mỹ.
Sự tích Actéon
Actéon là con trai của ông già chăn chiên Aristée (xem sự tích Orphée) và là cháu của Cadmus theo dòng mẹ. Được con nhân mã Chiron nuôi dạy, Actéon ham thích nhất săn bắn. Actéon đi nhanh như gió, theo sau có năm mươi cặp chó săn. Một bữa Actéon hăng say rượt theo một con heo rừng, tới thung lũng hoang vắng Gargaphie, thuộc xứ Béotie, chợt bắt gặp nữ thần Diane đang trần truồng tắm ở suối. Tức giận vì bị Actéon bắt gặp khi đang tắm, Diane liền biến Actéon thành một con nai hết sức tốt mã. Đàn chó chạy tới không thấy chủ đâu mà chỉ thấy một chú nai tơ đẹp mã, lanh lẹn, vội rượt theo mãi tới khu rừng rậm Cithéron mới đuổi kịp và xé xác thành nhiều mảnh.
Sự tích Adonis
Adonis là một con người đẹp trai rất mực, con của Cinyre, trị vì tại Chypre, và công chúa Myrrha, là con gái ruột của Cinyre. Một bữa Cinyre nổi giận, Myrrha hoảng sợ bỏ chạy, Cinyre cầm kiếm rượt theo. Khi thấy Cinyre đuổi gần theo kịp, Myrrha cuồng chân dừng lại đưa tay lên trời kêu cầu thần linh bảo hộ. Cảm thương số phận cô gái, các thần linh bèn biến Myrrha thành một thân cây một dược. Mấy tháng sau vỏ cây chợt hé mở và Adonis xinh đẹp từ trong thân cây chui ra. Được các nàng Naïades đem tới xứ Arabie nuôi nấng, Adonis lớn lên ngày một thêm xinh trai. Nữ thần Vénus một bữa trông thấy Adonis liền yêu mê luôn. Thần Mars hay tin lấy làm ghen tức. Để trả hận, Mars xui khiến cho Adonis mê săn bắn, ham thích đấu sirc và ưa những cuộc mạo hiểm, những nơi đèo cao lũng sâu. Mặc dầu những ham thích nguy hiểm đó, Adonis và Vénus nguyện cùng nhau giong ruổi như vậy không bao giờ rời nhau.
Một hôm Adonis cũng quên lời nguyện. Trong khi Venus ngủ say, một mình Adonis mang cung tên đi sâu vô trong rừng già. Bỗng đâu một con heo rừng nhảy bổ tới, húc ngã Adonis rồi dùng nanh nhọn đâm lủng ruột. Được Zéphyre cho hay tin, Vénus khóc lóc chạy tới. Trong bấy lâu nàng thần nữ chưa hề lần nào đau khổ như lần này vương mối tình với một thường nhân. Trong lúc vội vã, Vénus không nề hà gai góc, chạy cho mau tới cứu người yêu. Nhưng bao nhiêu công khó của Vénus đều vô ích. Để lưu tích chút kỷ niệm của người yêu, Venus hứng mấy giọt máu của Adonis, gieo xuống đất khiến nảy ra những bông mẫu đơn, một loài hoa đẹp nhưng chóng tàn mỗi năm mọc về mùa xuân. Vénus trong cơn xao xuyến không biết rằng máu ở các vết thương của nàng vương vãi trên những bông hồng trắng đến nổi nhuộm thành đỏ tía. Từ đó phát sinh thêm loài bông màu đỏ tía như nhuộm máu.
Xuống tới âm cung, vẻ đẹp của Adonis lại khiến cho vợ của Pluton là Proserpine đâm mê. Vénus động lòng ghen tới kêu nài với thần vương Jupiter. Để làm vừa lòng cả hai nàng, Jupiter phán truyền rằng từ đó về sau Adonis ở bốn tháng dưới Âm cung, bốn tháng trên dương thế, còn bốn tháng nữa thì được tự do tùy ý. Theo truyền thuyết thì Adonis trung thành với Vénus hơn nên số bốn tháng đó bao giờ cũng để dành chung sống thêm với Vénus.
Sự tích Charybde và Scylla
Giữa bán đảo Ý Đại Lợi và đảo Sicile có một eo biển do hai quái vật rất khủng khiếp canh giữ. Charybde là con gái của thần Neptune và nữ thần Trái Đất. Vì cả gan ăn cắp bò của Hercule, Charybde bị thần vương Jupiter dùng tiếng sét đánh trúng, biến thành một cái vực thẳm. Từ đó, mỗi ngày ba lần Charybde há cái miệng rộng hút nước biển, rối ba lần phun ra làm nổi sóng bọt ngầu. Trước mặt Charybde là Scylla, trước kia là mội nữ thần xinh đẹp, nay biến thành một quái vật đêm ngày gào thét. Scylla bị đày đọa như vậy vì tội đã tỏ ra khinh rẻ thần biển Glaucus.
Anthédon, một ngư phủ ở xứ Béotie, không phải là một con người xinh trai. Một bữa Anthédon xếp trên bờ biển mớ cá chàng vừa đánh lưới được. Anthédon bỗng thấy bầy cá như bị một sức vô hình thúc đẩy, đua nhau nhào lộn rất lạ lùng rồi lần lần nhảy cả xuống biển. Tin chắc rằng thứ cỏ mọc ở đó có một hiệu lực kỳ lạ, Anthédon bứt mấy ngọn bỏ miệng nhai. Liền đó Anthédon cũng nhảy tưng lên như bầy cá, hai tay hóa thành vây, mình mọc vẩy, mọc đuôi như đuôi cá, trước ngực có quấn một mớ rong biển, râu tóc trở nên như đẫm nước. Sau cùng Anthédon nhào xuống biển bơi lội như một con cá. Téthys vui lòng chấp nhận Anthédon vào hàng các thần linh ở dưới đáy biển. Khi gặp nữ thần Scylla, Glaucus (tên mới của Anthédon) thấy say mê sắc đẹp của Scylla và quyết tâm theo đuổi. Nhưng Scylla lại tỏ ra khinh rẻ Glaucus không thèm đoái tưởng tới. Cùng kế Glaucus đi tìm nữ phù thủy Circé để nhờ bày cách giúp sức. Glaucus có biết đâu là Circé cũng mê Glaucus như Glaucus mê Scylla vậy. Circé ghen tức liền chế ra một thứ độc dược, tự tay đem tới rắc nơi suối mà hằng ngày Scylla vẫn tới đó tắm. Scylla vừa thả mình xuống dòng nước thì thấy mình biến thành một con quái vật ghê gớm, mười hai chân, sáu cổ rất dài, mỗi cái cổ có mang một cái đầu ghê tởm, miệng lúc nào cũng bạnh để nhe ba hàm răng nhọn phát ra những tiếng gào rít không ngớt. Tiếng kêu của con quái vật rùng rợn như tiếng sư tử hú hay tiếng gió bão rít. Kinh hoảng, con gái của thần Phorcus bèn nhào xuống biển ở bên đảo Sicile.
Từ đó các thủy thủ mỗi khi qua eo biển đều lấy làm lo sợ. Một khi đã qua được khó khăn bao nhiêu của vực thẳm Charybde lại gặp phải nàng Scylla đêm ngày gào thét ghê người. Sáu cái miệng quái ác có thể chụp một lúc sáu thủy thủ từ trên thuyền rồi đem xuống biển sâu ăn thịt. Sau này khi đoàn thuyền của Ulysse, cũng được Circé say mê lắm, đi ngang đó Scylla trả thù khiến cho bị lao đao vì sóng gió.
Sự tích Circé
Con gái của thần Mặt Trời, Circé sau khi bỏ thuốc độc cho chồng là vua xứ Sarmates liền trốn tới đảo Æa, gần đảo lớn Sicile. Tại đó Circé có một tòa lâu đài lộng lẫy, mọi đồ vật đều bằng vàng, bàn ăn bằng bạc đúc, nệm trải dưới đất màu đỏ chói. Trong nhà Circé có nuôi một đàn sư tử và chó sói do Circé dùng độc dược cho ăn nên chúng hết sức phục tùng mệnh lệnh của nàng. Circé là một thứ người bản tính hung ác nên chỉ ưa thích làm những chuyện ghê gớm hại mọi người. Vì ghen với Scylla, con gái của thần Phorcus, Circé đã biến Scylla thành một con quái vật. Picus, vua xứ Ý Đại Lợi vì không chịu bỏ vợ để lấy nàng, Circé liền biến Ficus thành con chim gõ mõ. Khi Ulysse chiến thắng ở Troie về kéo thuyền đi ngang đó bị sóng gió đánh trôi giạt vào đảo Æa. Circé lập tâm hãm hại đoàn thủy binh, cho mời uống một thứ rượu độc sẽ biến bọn họ thành một đàn heo. Ulysse may thay kịp nhớ lại là nữ thần Minerve có cho một nắm cỏ, bèn trộn lẫn với rượu uống nên giữ được nguyên hình. Ulysse liền tuốt gươm ra buộc Circé phải trả lại nguyên hình cho đám thủy thủ của mình. Nàng phù thủy đành phải nghe theo, nhưng thấy Ulysse dũng mãnh, tài trí hơn mình như vậy, Circé lại đem lòng say mê. Trong một năm trời Ulysse sống với Circé và được hết sức chiều đãi. Sau lòng nhớ quê hương lại nổi dậy, Ulysse nhất định ra đi. Circé cố nài nỉ Ulysse hãy xuống Âm cung hỏi thăm về vận hạn của mình nơi bóng ma của nhà tiên tri Tirésias. Ulysse để lại cho Circé hai đứa con. Đứa con trai, tên là Télégone sau này sẽ giết chết Ulysse (xem lược dẫn bộ Odyssée) và một con gái tên là Cassiphoné. Sau này, khi lấy chồng, Cassiphoné sẽ làm nguy hại tới mẹ. Về sau Télémaque, con của Ulysse sẽ lấy Cassiphoné nhưng không chịu nổi tính của mẹ vợ bèn giết chết Circé. Cassiphoné thấy thế liền giết Télémaque để trả thù cho mẹ. Có thuyết khác lại nói rằng Télémaque đã lấy Circé, chứ không phải con gái Circé.
Sự tích các thần độc long Cyclopes
Danh từ cyclope có nghĩa là người chỉ có một mắt tròn. Các thần Cyclopes phần đông là những nhà chăn chiên hình vóc vĩ đại, chuyên ăn thịt người, có một mắt ở giữa trán, tuy vị trí của hai con mắt như mọi người thường cũng có vẽ rõ trên gương mặt. Họ thường ở khu vực Tây Nam đảo Sicile và chuyên trồng lúa mì lại đó. Mỗi thần Cyclope sống riêng biệt trong một hang đá. Nguồn gốc của các thần nhân này không nhất định, có dòng thuộc về thần Mặt Trời và nữ thần Trái Đất, có dòng thuộc thần Neptune và nữ thần Biển Cả.
Trong số các thần nhân Cyclopes dòng dõi thần Neptune, nổi danh nhất là Polyphème. Hang đá của Polyphème ở tận sâu trong rừng rậm. Polyphème nuôi một đàu cừu khổng lồ. Polyphème hung hãn chỉ ưa ăn thịt người, nhưng lại say mê nàng con gái Nérée tên là Galatée. Nhưng mỗi khi Galatée tới gần, Polyphème lại vội vàng xa lánh ngay. Bao lần Polyphème ngồi một mình trên mỏm đá trông chờ Galatée, bao lần Polyphème chỉ thấy chú bé Ái Tình cỡi trên lưng một con hải mã đem tới cho một bức thư của người thương. Trong khi đó Galatée bận chuyện trò với chàng mục đồng Acis mà Galatée hết sức yêu. Về sau Polyphème sinh ghen tức nên theo dõi Galatée. Bắt gặp hai người, Polyphème lấy một phiến đá đập bẹp Acis. Từ đó không bao giờ Polyphème còn được gặp Galatée nữa.
Khi Ulysse từ Troie trở về đi ngang đó bị Polyphème một lúc bắt được sáu thủy thủ và ăn thịt liền trước mắt Ulysse. Còn bao nhiêu thủy thủ khác đều bị Polyphème lùa vô trong hang đá, bên ngoài lấy một phiến đá chèn lại, để dành ăn thịt dần. Ulysse là con người khôn ngoan nên tìm cách làm thân với Polyphème, cho Polyphème nghe sự tích trận đánh thành Troie, rồi mời Polyphème uống rượu. Polyphème lấy làm thú thứ rượu lạ, uống quá mực thường nên lăn ra ngủ. Ulysse liền đốt lửa trong hang đá rồi nung cho cứng một cây cọc. Sau đó cùng đám tùy tùng kéo tới giúp sức, Ulysse lấy cây cọc đã nung cứng đó đâm thủng con mắt duy nhất của Polyphème. Polyphềm tỉnh dậy lần ra cửa hang giữ phiến đá không cho một người nào lẻn ra lọt. Nhưng khi đó đàn cừu của Polyphème lại đòi ra. Polyphème hé một lỗ hổng cho đàn cừu chui ra, nhưng cẩn thận xoa lưng từng con xem có tên thủy thủ nào ngồi lên để trốn ra hay không. Biết ý như vậy, Ulysse cùng với mọi người níu dưới bụng từng con cừu để ra ngoài. Ra tới bờ biển mọi người mau mau giương buồm rông mất. Trước khi ra khơi cả bọn cùng reo hò chửi mắng Polyphème. Căm tức quá, Polyphénie lấy một tảng đá lớn liệng xuống biển định đánh đắm đoàn tầu nhưng bọn họ đi đã xa. Polyphème la hét om sòm, các đồng bọn ở gần đó nghe tiếng chạy tới hỏi Polyphème đầu đuôi xem ai là người đã mưu hại để trả thù cho Polyphềm. Nhưng khi Ulysse kể chuyện cho Polyphème nghe lại tự xưng là Không Ai, thành ra khi Polyphème trả lời đồng bọn là phải trả thù Không Ai, mọi người đều cho là Polyphème phát điên nên không tính chuyện trả hận giùm nữa. Polyphème đành ngồi trong hang đá ôm hận một mình. Mãi sau Neptune mới hay tin và dùng sóng gió khiến cho đoàn thuyền của Ulysse phải khốn khổ mãi để trả thù cho con.
Các thần nhân Cyclopes không chỉ chuyên việc chăn chiên. Còn một bọn nữa ở dưới núi Ætna làm việc với thần Vulcain. Họ cùng với Vulcain rèn đúc các dụng cụ bằng đồng cho các thần linh. Họ làm việc hăng hái, dũng mãnh đến nỗi lay chuyển cả đảo Sicile và các khu vực chung quanh. Nối tiếng nhất có Argès, tức tia chớp, Stéropès, tức tiếng sét, Brontès, tức tiếng sấm, Pyracmon, tức cái đe, và Acamas tức không biết mỏi. Đám này đều là con của thần Mặt Trời và nữ thần Trái Đất. Tại đây Vulcain rèn đúc những mũi tên sấm sét của thần vương Jupiter, về sau do lời khẩn cầu của nữ thần Vénus, Vulcain lại rèn đúc bộ giáp vô địch của Enée, bộ của Achille được rèn ở trên Thiên cung. Cũng tại đây được rèn mũi tên sấm sét mà thần vương Jupiter dùng để hạ Esculape. Apollon tức giận bèn dùng tên bắn chết hết đám Cyclopes mà thần nhân đó cho rằng đã giúp sức vào việc sát hại Esculape.
Truyền thuyết còn cho rằng anh em Cyclopes cũng tham dự việc xây dựng những toà thành ở Tirynthe và Mycènes, nên thành tên là những tường thành cyclopéens. Nhưng có lẽ những bức tường thành vĩ đại đó với những tảng đá khổng lồ đã dược dựng nên do một dân tộc rất giỏi khoa kiến trúc được một ông vua có tài điều khiển là vua Cyclops chứ không phải do đám anh em Cyclopes. Vì thấy những tảng đá xếp lên để xây thành tại đó không khác gì những tảng đá do Polyphème chất trưởc cửa hang tại đảo Sicile nên người ta mới liên tưởng tới đám anh em Cyclopes mà đặt tên cho những tòa thành đó.
Sự tích Daphné
Daphné là một nữ thần Sơn Thủy, con gái của nữ thần Trái Đất và thần sông Pénée, tại Thessalie. Apollon, sau khi giết chết đám anh em Cyclopes, bị thần vương Jupiter đầy xuống trần ghé tới nương náu nơi vua xứ Phères, gần thung lũng Tempé, tên là Admète. Một bữa Apollon trông thấy Daphné và thấy say mê. Nhưng mặc dầu bao nhiêu lời hứa hẹn của Apollon, Daphné vẫn khăng khăng không chịu vì Daphné đang yêu Leucippe là một thường nhân mà thôi. Daphné không thể yêu một ai khác ngoài Leucippe. Căm tức vì bị từ chối, Apollon lập tâm bắt cóc Daphné. Một ngày gần đó Apollon gặp Daphné một mình đi dạo bên bờ sông Pénée, nên rượt theo. Daphné hoảng sợ chạy miết. Cùng đường nàng liền cầu khẩn tới mẹ. Nữ thần Trái Đất liền hé mở một lối xuống cho Daphné chạy trốn. Để cho Apollon khỏi mích lòng, nữ thần Trái Đất liền khiến cho mọc ngay tại nơi Daphné vừa biến mất một cây lá quanh năm xanh tốt, đó là cây dương liễu. Apollon liền bẻ một nhánh dương liễu làm thành một vòng miện mang trên đầu và hẹn rằng từ nay về sau cây dương liễu sẽ là loài cây dành riêng để dâng cúng thần Apollon. Về sau thành lệ, cứ mỗi kỳ mở hội tại Delphes để kỷ niệm vụ thần Apollon chiến thắng con quái vật Python (Jeux Pythiques) các nhà vô địch đều được tặng thưởng một cành dương liễu. Gặp những dịp có bệnh truyền nhiễm, dân gian cũng cắm ở trước nhà một cành dương liễu để được thần linh phù trợ cho tránh khỏi bệnh.
Sự tích Daphnis
Con trai của thần Mercure và một nữ thần Sơn Thủy, Daphnis sinh ra đời trong một cánh rừng dương liễu trên đảo Sicile. Vì trường hợp đó nên đứa nhỏ được mệnh danh là Daphnis (xem sự tích Daphné). Daphnis xinh đẹp, dễ thương và ngoan ngoãn. Daphnis được các thần linh thương yêu cũng như các phàm nhân ở quanh vùng. Được các nữ thần Sơn Thủy cùng các chú chăn chiên nuôi dưỡng, Daphnis thích sống cô tịch ở trong rừng. Trở thành một chú chăn chiên, Daphnis thường thả bầy chiên của mình gặm cở ở chân núi Ætna. Thần Pan dạy cho Daphnis biết phép thổi tiêu. Những lúc thanh vắng Daphnis lại dùng ống tiêu thổi lên những bản du dương. Daphnis đem lại cho đám người chăn chiên những phép tắc, lễ nghi và dạy cho họ việc thờ cúng thần Bacchus. Tuy nhiên trong bao nhiêu những đức tốt của Daphnis cũng lọt vào một tật xấu. Daphnis yêu thương một nàng Sơn Thủy và cũng được yêu thương lại. Hai bên thề nguyền với nhau nếu bên nào phụ lời đã hứa sẽ bị đui con mắt. Trong khi đó một nữ thần Sơn Thủy khác tên là Chimère cũng đem lòng say mê Daphnis, khiến cho Daphnis quên lời hứa với người yêu cũ. Thần linh liền trừng phạt Daphnis đúng như đã nguyện ước. Daphnis bèn lấy âm nhạc và thi phú làm món giải khuây, nhưng một bữa chợt té từ một mòm đá cao xuống đất Daphnis bị chết. Theo truyền thuyết thần Mercure đem xác Daphnis lên Thiên cung. Tại nơi Daphnis chết tuôn ra một dòng suối từ đó mang tên Daphnis. Quanh khu vực đó, hàng năm dân đảo Sicile có bày ra những đám hội ca hát.
Sự tích Echo và Narcisse
Echo là một nữ thần Sơn Thủy trong số tùy tùng của nữ thần Junon. Bản tính hay tò mò và cái miệng lại bẻo lẻo. Echo nhận thấy thần vương Jupiter rất ưa thích đám nữ thần tùy tùng của Junon nên ra sức dùng cái miệng bẻo lẻo của mình để cho Junon không nhận thấy các hành vi của Jupiter cùng với đám tùy tùng của Junon. Echo bẻo lẻo quá đến nổi Junon sinh nghi. Tức giận vì bị Echo che mắt, Junon không cho Echo tự ý nói được nữa và chỉ có thể nhắc lại âm cuối cùng của những lời lọt tới tai nàng. Từ đó Echo không thể cất tiếng nói lên trước, nhưng cũng không thể im tiếng một khi có ai nói.
Echo yêu mê Narcisse là một chàng trai ở Thespies, xứ Béotie, con của một nữ thần Sơn Thủy và thần sông Céphise. Narcisse rất có thể yêu mê Echo nhưng nếu Echo đừng luôn luôn im lặng như vậy, và nhất là Echo đừng nhắc lại hoài những lời cuối cùng mà Narcisse đã nói tới nàng. Narcisse chán ngán bỏ đi.
Echo buồn vì bị bỏ rơi nên trốn vô rừng sâu và trong các hang đá vắng người, Nàng từ chối không ăn uống chi hết, để mặc cho nổi buồn làm cho héo hon đến sau chỉ còn có giọng nói.
Nhưng Némésis, nữ thần Phục thù, được giữ nhiệm vu trừng phạt Narcisse. Nhà tiên tri Tirésias đã nói trước với cha mẹ Narcisse rằng đứa con sinh ra sẽ chết ngày nào nó trông thấy bóng hình của nó. Vì thế quanh nơi Narcisse ở không hề bao giờ có một tấm gương. Nhưng một bữa nằm bên bờ suối, Narcisse chợt trông thấy bóng mình phản chiếu dưới nước và đâm ra say mê vẻ đẹp của chính mình. Narcisse buồn rầu cứ ngồi bên bờ suối mà ngắm mãi đến mọc rễ tại đó. Thân xác Narcisse héo hon mãi rồi biến thành thân cây nhỏ có mang một bông hoa. Dân gian lấy tên Narcisse đặt cho loài hoa đó.
Sự tích Endymion
Endymion là một chồng chăn chiên xinh đẹp ở xứ Carie, được nữ thần Mặt Trăng Séléné thầm yêu. Endymion ở trong một thạch động dưới chân núi Latmus. Tại đó mỗi đêm trong khi Endymion ngủ say thì nàng trăng Séléné lại lén tới hôn trên trán chàng.
Giấc ngủ của Endymion được coi như một sự nghỉ ngơi tuyệt đối. Ân huệ đó do thần vương Jupiter vì thấy Endymion ngay thật và tốt lành nên đặc biệt ban cho. Thần vương cho Endymion được trẻ mãi trong giấc ngủ. Từ đó cứ mỗi đêm nàng trăng lại lén tới lặng lẽ yêu mê chàng Endymion xinh trai.
Sự tích Esculape
Esculape ra đời tại quần đảo Péloponèse, con của Apollon và Coronis, con gái của Phlégyas, vua xứ Thèbes. Phlégyas nối ngôi vua vì Etéocle chết đi không có con kế tự. Trong một cuộc viễn chinh của Phlégyas tại miền Nam Hy Lạp, Coronis có theo cha đi. Nhân dịp này Coronis bỗng trở dạ sinh ra một đứa con trai, nhưng Coronis trút linh hồn trư[sc khi trông thấy mặt đứa nhỏ. Đứa nhỏ bị đem bỏ trên núi gần thành phố Epidaure. Mặc dầu bị bỏ rơi như vậy đứa nhỏ được một con dê cái cho bú sữa và một con chó luôn luôn ở gần bên canh chừng. Chợt một chú chăn chiên ở gần đó đi ngang trông thấy và còn thấy cả một vòng hào quang ở trên đầu đứa nhỏ nữa. Chẳng bao lâu tiếng đồn khắp vùng đó rằng mới có một đứa nhỏ mới sinh biết chữa đủ các chứng bịnh và có thể cứu sống lại những người đã chết. Sự thật thì sau đó ít lâu đứa nhỏ dược Apollon đem tới cho con nhân mã Chiron nuôi dạy. Esculape bổn tính ưa quan sát và lớn lên ở giữa vùng thiên nhiên sẵn sàng mọi sự vật ở chung quanh để mà qnan sát nên rất sớm nhận ra các giống cây có dược tính chữa được bịnh hay cứu người ta sống lại được. Có truyền thuyết nói rằng một bữa Esculape tới chơi nhà một người quen đang ốm gặp một con rắn. Esculape đưa cây gậy ra trước miệng con rắn. Con rắn đớp lấy cây gậy rồi quấn quanh, Esculape đập cây gậy xuống đất thì con rắn lăn ra chết. Esculupe lại thấy một con rắn khác miệng ngậm một cây cỏ bò tới dùng cây cỏ đó làm cho con rắn kia sống lại được. Esculape chợt thấu hiểu rằng trong thiên nhiên có nhiều cây cỏ có thể dùng làm thuốc được nên từ đó chuyên tâm nghiên cứu tìm tòi các loài cây cỏ trong núi để chữa bịnh. Sau đó Escalape cùng với các chiến sĩ trên thuyền Argo cùng với Jason đi kiếm tấm da thú bằng vàng. Chuyến đi đó Esculape đã giúp các bạn đồng hành qua được nhiều tai nạn nguy hiểm.
Nhưng Jupiter sợ rằng Esculape trở nên tinh thông y học quá có thể giúp cho loài người trở nên bất tử nên sai đám anh em Cyclopes dưới quyền Vulcain tạo một mũi tên sấm sét để thần vương dùng hạ sát Esculape. Nhưng về sau Jupiter nghe theo lời của Apollon van nài không giết chết Esculape và cho dự vào hàng các tinh tú Esculape tạo thành tinh toà Sagittaire.
Esculape được coi như thần bản mệnh của các thầy thuốc và được thờ tự tại các vùng rừng núi, ở bên những ngọn suối hay trên ngọn núi cao. Thành phố Epidaure có lập một ngôi đền riêng thờ Esculape ở bên một cánh rừng, trong đền có pho tượng Esculape bằng ngà voi. Tại khắp Hy Lạp đều có đền thờ Esculape, sau đó dân chúng ở Rome cũng lập đền thờ Esculape bắt chước người Hy Lạp. Bao giờ đền thờ Esculape cũng đặt ở những nơi không khí trong lành để cho các người đau ốm tới cầu xin cứu chữa. Đền Esculape ở thành Athènes được lập ở một suối nước nóng. Các bịnh nhân tới kêu cầu ở đó thường nằm mộng thấy Esculape hiện tới chỉ cho cách thức dùng cây cỏ mà chữa bịnh. Những môn thuốc đó được ghi vào những tấm bảng bằng gỗ treo hai bên tường, các y sĩ thường tới đó học hỏi về các phương thuốc. Đó là cuốn Y dược chỉ nam đầu tiên vậy.
Sự tích Gygès
Một chú chăn chiên người xứ Lydie tên là Gygès một bữa đang đưa bầy cừu của mình đi ăn cỏ thì thấy có một hang sâu mãi xuống dưới đất. Gygès mon men đi xuống đó, càng xuống sâu càng thấy tối thêm mãi. Lát sau Gygès trông thấy một con ngựa bằng đồng rất lớn, bên hông có một cái cửa mở rộng. Gygès kiếm cách leo lên tới cái cửa đó, chui vô bên trong thì gặp một bộ xương người dài quá cỡ. Bộ xương đó ở đốt tay còn dính một chiếc nhẫn có nhận một hột đá. Gygès lượm lấy chiếc nhẫn đeo nơi tay, rồi sung sướng đã kiếm được chút kỷ niệm của một cuộc khám phá lạ lùng bèn lui trở lên mặt đất. Nhưng Gygès có ngờ đâu rằng chiếc nhẫn tình cờ đó lại có một đặc tính vừa kỳ lạ vừa quý báu. Cứ mỗi lần Gygès quay mặt đá vào phía trong lòng bàn tay thì mọi người ở chung quanh không trông thấy anh ta nữa, trong khi anh ta vẫn trông thấy và nghe thấy mọi người, mọi vật ở chung quanh. Vốn bản tính huynh hoang, Gygès liền đi tới triều vua Candaule với ý định giết chết nhà vua trong khi không ai trông thấy mình rồi lấy hoàng hậu làm vợ. Gygès y kế thi hành, dụ dỗ được hoàng hậu và hai người lập tâm giết chết Candaule. Từ đó chú chăn chiên Gygès trở nên một ông vua cai trị cả một xứ.
Sự tích Hébé
Hébé là con gái thần vương Jupiter và nữ thần Junon. Hébé rất xinh đẹp, nhất là có đôi chân không ai sánh kịip. Jupiter rất yêu thương Hébé đặt vào hàng nữ thần của tuổi trẻ và dành riêng cho Hébé công việc rót rượu nectar tại bàn các thần linh. Tình cờ một bữa Hébé xảy chân vấp ngã trong khi đang rót rượu. Chư thần ngồi đó không thể nhịn cười được làm cho Hébé mích lòng nhất định từ nay không hầu rượu tại bàn các thần linh nữa. Từ đó Hébé chỉ lo việc thắng yên cương cỗ xe ngựa của mẹ là nữ thần Junon mà thôi. Sau đó, khi Hercule xong các công cuộc hiểm nguy của mình ở hạ giới được thần vương cho về ở trên Thiên cung và gả Hébé cho.
Sự tích Ganymède
Sau khi Hébé, con gái của thần vương Jupiter và nữ thần Junon, giận chư thần ở bàn tiệc đã chế nhạo mình khi vô tình vấp ngã từ đó không chịu làm công việc rót rượu nectar ở bàn tiệc nữa, Jupiter buộc lòng phải kiếm một ai thay thế. Công việc này không phải bất kỳ ai cũng làm nổi. Jupiter ra công tìm kiếm mãi mới thấy ở xứ Phrygie một chàng con trai tóc vàng tên là Ganymède, con của Tros là người sáng lập ra thành Troie. Ganymède xinh trai không một thường nhân nào so sánh được. Một bữa Jupiter trông thấy Ganymède đang đứng trên ngọn núi Ida liền hóa thân thành một con đại bàng bay xà xuống gần. Trông thấy con chim lớn ra hiệu như mời cỡi lên lưng, Ganymède không ngần ngại trèo lên và được Jupiter đưa về Thiên cung.
Ganymède giữ vai trò rót rượu rất được lòng thần vương khiến cho Junon sinh bụng ghen tức thay cho Hébé. Từ đó Junon nuôi lòng thù ghét dân thành Troie, mãi cho tới sau khi Paris bị trị tội cùng vẫn chưa nguôi.
Sự tích Héro và Léandre
Héro là một nữ tu hầu cận nữ thần Vénus. Nàng ở Sestos, trên bờ phía Âu châu của eo biển Hellespont. Phía bên kia eo biển, Léandre sinh trưởng tại thành phố Abydos, bên bờ về phía châu Á. Nhân một đám hội Léandre được dịp ngó thấy Héro. Léandre cảm Héro, rồi yêu và cũng được yêu lại. Nhưng công việc của mỗi người không thể cùng nhau đoàn tụ được. Nhưng cả hai cùng thệ nguyện là không một chiều nào hai bên không kiếm cách gặp nhau một lần. Mỗi chiều, khi trời chạng vạng tối, Léandre lại bơi qua eo biển sang bờ phía Âu Châu để gặp Héro. Và cứ mỗi chiều Héro lại đứng trên một ngọn tháp cao ở ngay mé biển tay cầm một ngọn đèn để làm hiệu cho Léandre biết ngả bơi tới. Những cuộc hò hẹn thú vị đó kéo dài cả một mùa hạ.
Sang mùa thu, biển trở nên sóng lớn, gió to liền trong bảy ngày không làm sao Léandre bơi qua được eo biển. Nhưng tới đêm thứ bảy Léandre chịu không nổi quyết tâm nhảy xuống biển cố bơi qua hướng về phía ngọn đèn yêu thương.
Léandre đem hết sức mình ra chống chọi với sóng dữ để сố bơi qua bờ bên kia, hai con mắt không rời ngọn lửa của Héro. Léandre bơi tới bờ biển nhưng tới đó đuối sức quá mất rồi. Sóng lớn đẩy giạt vào bờ không phải Léandre con người đang yêu mà là một cái xác không hồn.
Người yêu của Léandre cũng không chịu nổi cảnh đau lòng đó nên từ trên ngọn tháp lao mình xuống biển.
Sự tích Hyacinthe
Hyacinthe là một chàng trai người xứ Lacédémone rất mực xinh đẹp, được cả Apollon lẫn Zéphyre cùng yêu. Nhưng Hyacinthe yêu vị thần cầm đầu các nàng Ly Tao hơn là ngọn gió Tây (xem sự tích Eole). Lấy làm ghen tức, một bữa Zéphyre thấy Hyacinthe đang chơi ném đĩa cùng với Apollon bèn dùng sức gió đẩy chiếc đĩa Apollon vừa ném ra tới đụng nhằm thái dương Hyacinthe. Sức va chạm mạnh khiến cho Hyacinthe chết, mặc dầu Apollon hết sức tìm phương cứu chữa. Apollon liền ôm xác Hyacinthe đem lên Thiên cung biến thành một vì tinh tú. Dòng máu đỏ của Hyacinthe rớt ra mọc lên những bông hoa màu máu. Tới nay ngó trong lòng bông hoa mang tên Hyacinthe ta còn thấy có in bằng chữ Hy Lạp hai chữ A I, đó là tiếng kêu thương của Apollon khi thấy Hyacinthe lăn ra chết.
Dân chúng Lacédémone kỷ niệm công đức Apollon có bày ra những buổi lễ để ghi nhớ mối tình giữa thần nhân và Hyacinthe. Ngày thứ nhất dành cho sự thương khóc, khi ăn uống mọi người đều để đầu trần. Tới ngày thứ ba là dành cho sự hoan lạc, sau khi cúng lễ mọi người kéo dài cả đêm trong yến tiệc ca hát.
Sự tích Lycaon
Lycaon, vua xứ Arcadie, là một con người dã man, tàn ác. Muốn dâng cúng các thần linh để được sự trợ giúp, Lycaon bày ra lệ dùng người làm sinh vật cúng tế. Số lớn các nạn nhân bị Lycaon đưa ra làm vật hi sinh khiến cho dân chúng ta thán và ghê tởm chính sách ác độc của Lycaon. Nhưng thần vương Jupiter trước sự dâng cúng hậu hĩ của xứ Arcadie đối với mình cũng lấy làm hài lòng. Một bữa Jupiter tới Parrhasia xin tạm trú. Lycaon tiếp đãi người khách lạ rất niềm nỡ nhưng khi vào bàn tiệc Lycaon dám đưa ra cho khách ăn thịt một đứa nhỏ mới sinh. Trước thái độ của Lycaon như vậy Jupiter đã toan dùng mũi tên sấm sét đánh chết hắn, nhưng nghĩ lại bao nhiêu sự dâng cúng hậu hĩ từ trước, thần vương lại ngừng tay và chỉ trừng phạt bằng cách biến Lycaon thành một con chó sói.
Lycaon có năm chục con trai nhưng không ai được kế vị Lycaon vì từ trước Lycaon đã dành sẵn ngôi báu cho một người cháu nội tên là Arcas. Ngôi vua ở Arcadie vì vậy phải để cho hoàng tử trẻ tuổi Arcas. Thật ra Arcas không phải dòng dõi của Lycaon mà là con của Jupiter với Callisto, nàng Sơn Thủy xinh đẹp nhất trong số tùy tùng của nữ thần Diane. Callisto không được cái hạnh phúc nuôi nấng đứa con của mình vì lọt lòng ra đã phải đem đi giấu kín một nơi sợ Junon ghen mà sai người sát hại đi.
Arcas lớn lên không hề được gặp mặt Callisto và cũng không biết mẹ thật của mình là ai. Lên ngôi vua rồi, một bữa Arcas đi săn trong rừng. Chợt Arcas bắt gặp một con gấu cái cứ đứng đó mà nhìn chầm chầm Arcas. Con gấu đó chính là nàng Callisto. Callisto nhận ra Arcas là con mình nhưng không cách nào khiến cho Arcas hiểu được. Arcas sắp sữa giương cung bắn con gấu thì thần vương Jupiter động lòng biến Arcas thành một con gấu nhỏ rồi đem cả hai mẹ con lên Thiên cung tạo thành hai tinh tòa rất rực rỡ. Xứ Arcadie mang tên Arcas từ đó.
Còn năm chục người con của Lycaon đền tàn ác không kém gì cha, hơn nữa lại hỗn láo và không biết thờ cúng các thần linh. Để thử lòng bọn họ, một bữa Jupiter cải dạng thành một người thợ phụ sắp chết đói tới kêu gọi lòng thương của bọn anh em Lycaonides cho ăn một bữa. Anh em Lycaonides nhận lời cho ngồi cùng bàn ăn nhưng lại trộn lẫn trong các món ăn thịt một đứa trẻ sơ sinh bọn họ mới bắt làm thịt hồi chiều. Họ yêu cầu người thợ bạn đó ăn món ăn lạ lùng ấy, để đẹp lòng các thần linh. Tức giận vì sự cư xử hỗn láo của bọn anh em Lycaonides, thần vương Jupiter dùng sấm sét đập tan hết giống người đáng kinh tởm đó rồi làm mưa cho chảy tràn trên mặt đất như thác lũ để tẩy sạch hết những loài gian ác trên mặt đất. Sau trận mưa lũ này, loài người chỉ còn lại có hai vợ chồng một nhà ở xứ Thessalie là Deucalion và Pyrrha (xem sự tích Deucalion).
Sự tích Marsyas
Marsyas là một ông thần hoang dã ở vùng Phrygie, dòng dõi thi sĩ Hyagnis, người mà truyền thuyết ở xứ Phrygie cho là sáng chế ra khoa âm nhạc và các loại hát kinh dùng dâng cúng nữ thần Cybèle. Marsyas ở trong đoàn tùy tùng nữ thần Cybèle đi tới Nysa, một thị trấn trong xứ Thrace. Tại đó Marsyas gặp Apollon mới bị Thiên cung đầy xuống hạ giới vì tội sát hại đám anh em Cyclopes. Bổn tánh tốt nhưng Marsyas lại dại dột thách thức Apollon thi tài âm nhạc. Apollon vui lòng nhận với điều kiện là người thua sẽ phải hoàn toàn chịu sự chi phối của người được cuộc. Các nàng Ly Tao và dân chúng Nysa được chọn làm trọng tài. Marsyas dùng một ống tiêu trước kia Minerve đã dùng nhưng sau nữ thần đã bỏ đi vì tiếng không được đúng nữa. Marsyas thổi lên một âm điệu thật du dương, nhịp điệu lại kỳ lạ tưởng như Apollon không tài nào vượt nổi. Đến lượt Apollon, vị thần linh bị đày xuống trần không dùng ống tiêu mà lấy cây đàn ly tao đệm cho tiếng hát. Giọng ca của Apollon khiến cho cử tọa phải say mê. Toàn thể thính giả cùng các trọng tài tuyên bố Apollon thắng cuộc. Bực mình vì Marsyas khi nãy dám ngạo mạn thách thức, Apollon tự tay treo Marsyas lên mội cành cây cao rồi lột da vị thần thảo dã khiến tiếng kêu đau vang dậy cả vùng. Các nữ thần Sơn Thủy cùng các chú chăn chiên trong vùng đều nhỏ nước mắt khóc thương cho Marsyas, nước mắt hòa cùng với máu của Marsyas chảy thành sông. Đó là con sông Carie. Tấm da Marsyas được đem tới Célène, xứ Phrygie, và dùng làm cái bong bóng đựng rượu treo trên đầu một cây cột. Mỗi khi nghe tiếng tiêu, cái bong bóng lại đung đưa như tỏ ý thưởng thức. Nhưng mỗi khi dạo đờn ly tao thì cái bong bóng thản nhiên không động đậy.
Sự tích Midas
Midas làm vua tại Phrygie, nổi tiếng vì một số những chuyện phiêu lưu. Khi Miđas còn nhỏ tuổi, một bữa nằm ngủ há miệng, kiến liền tha mấy hột lúa mì để trên lưỡi Midas. Nhu tiên tri cho rằng đó là điềm Midas trở nên giàu có nhất trong loài người.
Một lần khác, trong khi cha của Midas đang cày, một con đại bàng bay tới đậu trên bắp cày. Nhà tiên tri lại đoán rằng sau này Midas sẽ trở nên một vì vua oai danh lừng lẫy. Cả hai điều tiên đoán đó sau đều thành sự thật. Midas khai thác được nhiều mỏ vàng mỏ bạc, sau tình cờ lại được bầu lên làm vua xứ Phrygie, bên bờ sông Pactole. Chẳng bao lâu của cải ùn ùn kéo tới kho tàng của Midas. Silène từ xứ Thrace theo chân Bacchus tới Phrygie. Theo thói quen Silène uống rượu say sưa rồi đi lạc trong khu vườn lộng lẫy của Midas ở bên bờ sông Sangarius. Nông dân trong vùng bắt gặp lấy những tràng hoa trói Silène lại rồi dẫn tới hoàng cung. Midas tiếp đãi Silène rồi sai đưa về cho Bacchus. Cảm ân tình đó, Bacchus hứu sẽ giúp Midas thực hiện được một điều ước nguyện. Midas xin cho có phép mó tới vật gì thì vật đó sẽ biến thành vàng. Được như nguyện, Midas trở nên chủ nhân ông của biết bao nhiêu là vàng ở quanh mình. Nhưng đến bữa ăn, Midas liền hối hận ngay vì hễ đụng tới món ăn nào thì món đó biến thành vàng. Midas đành phải nài xin Bacchus lấy lại cái ơn nguy hiểm đó. Bacchus khuyên Midas ra sông Pactole mà tắm. Từ đó nước ở sông Pactole thường có lẫn những mảnh vàng cốm.
Bạn thân của Midas là thần Pan, hát hay và thổi tiêu cùng giỏi. Pan lấy làm vinh hạnh vì hai cái tài đó nên có ý tự so sánh với Apollon. Pan còn thách thức Apollon nữa. Midas đứng ra làm trọng tài. Vì thiên vị, Midas quyết nghị là Pan thắng cuộc. Apollon tức giận vì sự thiên vị đó, kéo hai tai dài của Midas cho dài thêm và hóa thành cặp tai lừa. Midas lấy làm xấu hổ vì cặp tai đó nên lo giấu luôn luôn bên trong chiếc mũ kiểu Phrygien của mình. Chỉ riêng có chú thợ cạo là biết rõ Midas có cặp tai kỳ lạ đó, nhưng bị hăm dọa không được tiết lộ cho ai biết. Nhưng chẳng may bao giờ sự bí mật cũng khó lòng giữ được kín. Khổ sở vì phải giữ mãi điều bí mật nặng nề, chú thợ cạo mới kiếm một nơi vắng vẻ bên bờ sông, đào một cái hố sâu, nói điều bí mật vào trong hố rồi lấp kín. Ít lâu sau đám lau sậy từ hố đó mọc lên thủ thỉ cùng nhau điều bí mật khiến lan tràn ra khắp chốn. Ai nấy đều nghe thấy đồn: “Midas có cặp tai lừa!”
Dường như Midas vì xấu hổ quá mới lấy huyết bò uống rồi chết.
Sự tích Milon ở Crotone
Ngay từ thuở nhỏ Milon đã tỏ ra có khiếu đặc biệt về chạy nhảy, vận động và có một sức khỏe ít ai bì kịp. Danh tiếng của Milon vang dậy khiến cho không ai còn dám tỉ thó với Milon nhâu các kỳ vận động hội. Milon thật xứng đáng là tay lực sĩ số một của thời bấy giờ. Milon lại nổi tiếng là một tay phàm ăn.
Truyền thuyết nói rằng hễ Milon đứng trên một tấm ván, dù tấm ván có thoa mỡ, cũng không ai có thể đẩy nổi Milon nhích đi một chút. Milon lấy bàn tay mặt úp sau lưng, ngón tay cái đưa lên trời còn bốn ngón kia chụm vào nhau, không ai tài sức gì có thể cạy ngón tay út của Milon rời ra một chút. Milon lai lấy một sợi dây thừng thật chắc quấn quanh đầu rồi vận dụng mạch máu căng trên đầu làm dứt đôi sợi thừng. Một hôm, nhân kỳ vận động hội ở núi Olympe, Milon vác trên vai một con bò mộng bốn tuổi, đi một mạch tới tận cùg vận động trường, dùng trái thôi sơn đấm chết con vật rồi ăn thịt hết ngay trong ngày hôm đó.
Khi về già, Milon không tin rằng sức khỏe của mình suy giảm được. Chính Milon bị hại vì sự tin tưởng đó. Một bữa đi dạo chơi trong rừng vắng, Milon trông thấy một cây chêne mới bị bão làm tróc vỏ một quãng liền nảy ra ý muốn tiếp tục công việc của cơn gió lớn và mở rộng chỗ vỏ cây bị tróc ra. Nhưng cây chêne rất dẻo, Milon vừa banh chỗ vỏ bị tróc ra thì nó liền ngậm lại giữ chặt hai bàn tay của Milon lại. Nhà thần lực không cách nào rút được tay ra. Bỗng trở nên bị cây chêne cầm tù ở giữa rừng, Milon bị đàn chó sói kéo tới ăn thịt mà không cách nào chống đỡ nổi.
Sự tích Orion
Orion là một người khổng lồ, nổi tiếng vì vẻ đẹp trai và thú ham thích săn bắn. Orion không có mẹ. Cha Orion là một người rất nghèo ở xứ Béotie. Một bữa có ba lữ khách đi ngang được ông ta tiếp đãi ân cần, cả nhà còn có một con bò con cũng đem giết thịt để khoản đãi khách. Ba lữ khách đó không ai xa lạ, chính là thần vương Jupiter, Mercure và Neptune. Ba vi thần cảm động vì bụng tốt của gia chủ nên lộ tung tích và hỏi ông già có ước nguyện gì sẽ giúp được toại nguyện. Ông già nghèo chỉ xin được một thằng con trai mà không cần phải cưới vợ. Chư thần liền bảo đi lấy tấm da con bò vừa giết thịt, đem nhúng trong nước rồi chôn xuống đất và hẹn rằng ít lâu sau sẽ có một chàng con trai từ chỗ đó chui lên. Quả nhiên mấy tháng sau Orion từ tấm da đó chui lên và rất mau lớn. Vóc tướng của Orion cao lớn đến nổi khi Orion lội xuống biển bao giờ vai cũng ở trên mặt nước. Hoặc khi Orion đi trên mặt nước thì đầu đụng tới mây xanh. Thuật đi trên mặt nước đó do Nepytune truyền cho Orion. Ngày nào Orion cũng mê mải vào rừng săn bắn. Vẻ mặt đẹp trai của Orion khiến cho nữ thần Diane sinh mê. Nhưng một bữa, không hiểu vì Orion đã cả gan thách thức nữ thần thi đua ném đĩa, hay Orion tỏ ra có tài săn bắn hơn cả nữ thần, hoặc Orion đã có ý bỡn cợt một nàng tùy tùng của Diane khiến cho nữ thăn sinh bụng ghen, bữa đó Diane tức giận khiến cho một con bò cạp từ dưới đất chui lên chích Orion một mũi tới chết.
Có thuyết lại nói rằng Apollon tức giận vì thấy em gái mình quá say mê Orion nên thách Diane bắn cung. Apollon chỉ cho Diane một chấm đen ở xa đố Diane bắn trúng. Diane nhận lời bắn trúng chấm đen lập lờ trên mặt biển, không dè trúng ngay đầu Orion vì khi đó Orion đang lội dưới biển hai vai nhô khỏi mặt nước. Mặc dầu lý do nào đã sui nên cái chết của Orion, Diane sau đó cũng vô cùng cảm thương nên xin với thần vương cho Orion được lên Thiên cung cùng với các vì tinh tú. Tinh tòa Orion sáng chói trên trời, nhưng Orion vẫn giữ ý thích săn bắn nên vẫn đeo bên mình cái túi đựng tên có đóng những cái đinh sáng bóng, theo sau vẫn có người yêu là nữ thần Diane.
Sự tích Phaéton
Phaéton là con trai của thần Mặt Trời và nữ thần Sơn Thủy Clymène, con gái của thần Đại Dương và nữ thần Téthys. Phaéton có cái tật ưa khoe khoang gốc tích vẻ vang của mình. Vẻ đẹp của Phaéton cũng đặc biệt. Vénus mê sắc đẹp đó nên dùng Phaéton vào công việc thủ tự ngôi đền của mình. Lấy làm vinh hạnh vì công việc đó, một bữa Phaéton cãi lộn với Epaphus, con của Jupiter và Io (xem sự tích Io). Epaphus tuyên bố rằng Phaéton không có chút liên lạc máu huyết chi với thần Mặt Trời và đừng nên làm bộ quá lắm. Phaéton tức giận liền đi kiếm mẹ. Nhưng nữ thần Sơn Thủy Clymène chỉ mỉm cười, bảo Phaéton đi kiếm Apollon mà hỏi. Phaéton bước vào cung điện của thần Mặt Trời và thấy Apollon đang ngồi trên chiếc ngai có nạm những vàng bạc châu ngọc chói lói sáng. Khi Apollon tháy Phaéton bước vào liền thu ánh sáng lại và hỏi ý muốn của Phaéton ra sao. Phaéton liền kể lại cuộc cãi lộn với Epaphus và yêu cầu cha cho một đặc ân thế nào khiến cho Phaéton tỏ rõ được nguồn gốc chói lói của mình. Trong lúc thương con, Apollon quyết tâm sẽ cho con được toại nguyện. Phaéton liền xin với Apollon cho Phaéton được một mình điều khiển chiếc xe Mặt Trời trong vòng một ngày. Lấy làm lo sợ vì sự đòi hỏi quá lố và nguy hiểm của Phaéton, thần Mặt Trời cố sức ngăn cản con, nhưng vì đã chót viện con sông Styx ra để hứa với con, Apollon đành phải nghe theo. Apollon liền sai các cô con gái thắng yên cương rồi trao chiếc xe mặt trời cho Phaéton. Nhưng đàn ngựa biết ý không phải do chính chủ của chúng đánh xe nên chúng chạy tung tăng. Bữa đó mặt trời khi thì lên quá cao làm cho Thiên cung bị thiêu đốt trong khi hạ giới bị lạnh giá như băng, hoặc xuống quá thấp làm khô cạn cả sông ngòi dưới đất. Trái Đất bị đốt cháy đến nổi khô cứng tận trong lòng đất liền kiện lên thần vương. Jupiter không có cách nào khác là dùng sấm sét hạ cho Phaéton rớt xuống sông Eridan. Tai nạn đau đớn khiến cho các chị của Phaéton khóc lóc thảm thương suốt tháng ở bên bờ sông. Các thần linh động lòng mới biến lũ chị em Héliades thành một hàng cây liễu dương còn những hạt nước mắt thành những hạt hổ phách.
Không riêng gì các chị em Héliades than khóc Phaéton, Cycnus, con trai vua xứ Ligurie, khi hay tin Phaéton chết thảm thương như vậy cũng bỏ xứ mà đi. Bao nhiêu năm trời người ta còn gặp Cycnus lang thang đi bên sông không sao nguôi được nổi nhớ bạn. Thần linh cảm động vì sự chân tình của Cycnus nên biến mái tóc trắng thành mớ lông còn thân hình Cycnus thành một con anh nga trắng rất đẹp. Từ đó loài chim này thường một mình bơi thung dung trên mặt hồ vắng, thỉnh thoảng cất tiếng kêu thảm thương như tiếng Cycnus gọi bạn vậy.
Sự tích Philémon và Baucis
Philémon và Baucis là một cặp vợ chồng người xứ Phrygie. Hai người rất mực thương yêu nhau từ ngày trẻ tuổi lấy nhau cho tới khi về già trán đã nhăn. Hai người sống riêng biệt trong một mái nhà sơ sài, giữa một thị trấn mà ai nấy đều ích kỷ, khắc nghiệt với mọi người chung quanh. Jupiter hay tin dân chúng vùng đó dữ tính muốn thử một phen tới coi tận mắt. Mộl bữa Jupiter cùng với Mercure tới đó. Quả tình không một nhà nào chịu mở cửa tiếp hai người khách lạ. Mãi sau Jupiter và Mercure mới tới nhà của hai vợ chồng già Philémon và Baucis. Nghe tiếng kêu cửa Philémon liền chạy ra đón tiếp mời hai người bước vào. Philémon hết sức vồn vã cầm giữ hai ngươi khách. Trong khi Baucis lo nấu nước cho khách rửa chân thì Philémon nói chuyện làm vui cho khách. Câu chuyện của ông chủ nhà không đả động tới những sự đua chen bên ngoài mà chỉ toàn những sự liên quan tới công việc cày cấy, đồng áng, chăn nuôi. Vận dụng hết thảy những vật dụng tầm thường trong nhà, hai vợ chồng lo khoản đãi khách một bữa ăn thanh đạm. Hai vị khách đi đường xa nên đói khát. Nhưng bình rượu có ít khách phải pha thêm nước lạnh nhưng càng rót bình càng đầy thêm. Cả hai vợ chồng Philémon va Baucis đều nhận thấy phép lạ đó liền cùng quỳ xuống đất. Philémon xin thần nhân tha lỗi vì chỉ biết có một tấm lòng để hậu đãi khảch còn nhà vốn nghèo không đủ để dọn một bữa tiệc thịnh soạn. Trong khi đó thì Baucis chạy ra vườn đuổi bắt con gà vẫn để dành nuôi từ lâu. Con gà chạy quanh Baucis không bắt nổi, sau cùng nó chạy ngay tới bên hai vị quý khách mà ẩn. Jupiter liền đứng lên, trong lúc trời đã bắt đầu hừng sáng. Chủ khách cùng ra cửa. Jupiter truyền cho Mercure kéo mây tới ùn ùn và Jupiter dẫn hai vợ chồng người chủ nhà tới một ngọn đồi cao. Bao nhiêu dân cư làng mạc ở dưới chân họ phút chốc bị mưa lũ kéo trôi đi hết cũng với tai tiếng vang dậy là một vùng dân cư hiểm ác. Còn nơi nhà của hai vợ chồng Philémon và Baucis hiện lên một ngôi đền nguy nga tráng lệ. Hai vợ chồng Philémon và Baucis được thần vương cho làm thủ tự giữ việc trông nom, thờ cúng. Về sau Baucis hóa thành một cây bồ đề và Philémon thành một cây sồi cành lá giao nhau, mãi mãi được nhân gian đem lễ vật tới dâng cúng các thần linh ở gốc cây. Dân gian còn truyền tụng rằng những cặp vợ chồng nào yêu nhau dưới bóng hai loài cây đó sẽ giữ mãi mãi được chung thủy với nhau.
Sự tích Protée
Protée là con trai Neptune và Téthys. Tuy sinh ra ở Pallène, xứ Macédoine, Protée ngay từ nhỏ đã rời khỏi nơi đó để qua Ai Cập chuyên trông coi bây thú vật của Neptune nuôi dưới đáy biển. Cứ đúng ngọ, Protée lại từ dưới nước ngoi lên tới nằm ngủ trong một thạch động ở gần bờ biển. Vì được Neptune truyền dạy cho nên Protée có tài đoán biết được chuyện dĩ vãng, hiện tại và vị lai. Dân gian thường ngóng chờ Protée từ đáy nước ngoi lên mỗi buổi trưa để hỏi chuyện số mạng. Nhưng Protée chỉ chịu nói ra nếu bị áp bức phải nói. Protée có thói quen biến hóa thành nhiều giống vật kỳ lạ để khỏi bị bắt đem gạn hỏi những chuyện Protée không muốn nói. Nhưng khéo léo vẫn bắt Protée hiện nguyên hình để dọ hỏi được. Hay nhất là rình khi Prótée đang ngủ, bắt trói lại mà hỏi. Ménélas có đi kiếm Protée để hỏi đường về xứ sau khi dự trận đánh thành Troie. Khi Aristée bị lạc mất bầy ong mật cũng được mẹ là nữ thần Sơn Thủy Cyrène chỉ cho tới hỏi Protée cách gây lại. Trong khi Protée tiết lộ chuyện tương lai thì từng đàn hải trư quây quần chung quanh phát ra một mùi đặc biệt của biển cả.
Sự tích các người lùn (Les Pygmées).
Các người lùn trong thần thoại ở tại bờ biển xứ Libye, hằng năm vẫn bị đàn vạc ở xứ Scythie tới gây chuyện. Mỗi lần có chuyện đánh nhau với đàn vạc bọn người Pygmées lại cỡi trên lưng một đàn dê mà chiến đấu cho được lanh lẹn. Phụ nữ Pygmées ba tuổi đã có con và tám tuổi đã già. Các đô thị của người Pygmées làm bằng vỏ trứng. Ở vùng thôn quê họ sống trong các hang hốc và dùng rìu để gặt lúa mì, giống người ta đốn cây trong rừng vậy. Một bữa Hercule đi qua xứ lùn sau khi tận lực để hạ sát tay khổng lồ ăn thịt người Antée. Vì mệt, Hercule nằm ngủ trên bãi biển bị bọn người Pygmées do nữ chúa của họ điều khiển vây bọc. Quân Pygmées chia ra làm ba đạo tiến đánh Hercule; hai đạo đánh hai cánh tay còn một đạo ở giữa do chính nữ chúa Pigas cầm đầu đánh thẳng vào mặt Hercule. Ban đầu Hercule còn ngủ say, sau cảm tưởng như bị kiến cắn khiến Hercule tỉnh dậy. Lấy làm lý thú được chứng kiến một trận giặc kỳ lạ, Hercule cứ để yên cho bọn người lùn tấn công. Sau cùng Hercule vơ cả đám cùng với nữ chúa Pigas bỏ trong tấm da sư tử Hercule thường khoác bên mình đem về làm quà cho nhà vua Eurysthée.
Sự tích Pyrame và Thisbé
Tại Babylone, xứ Assyrie, có một cặp tình nhân thương nhau rất mực. Một người tên là Pyrame còn người kia là nàng Thisbé. Hai bên ở gần nhà nhau nhưng gia đình nghiêm cấm nên đều không được toại nguyện. Không có cách nào liên lạc được với nhau họ phải hò hẹn nhau ở ngoài thành. Họ hẹn gặp nhau trong một vườn dâu, nơi rất vắng vẻ. Thisbé tới chỗ hẹn trước, mình trùm một tấm khăn trắng cho không ai nhận ra. Trời trong, trăng sáng. Bỗng Thisbé thấy một con sư tử cái ở đâu chạy tới. Kinh hoảng Thisbé bỏ chạy để rớt lại tấm khăn trắng. Con sư tử tức giận xé nát tấm khăn và làm cho vấy máu rồi bỏ đó mà đi. Trong khi đó Pyrame hân hoan đi tới chỗ hẹn. Tới nơi trông thấy tấm khăn vấy máu Pyrame cho rằng Thisbé đã bị ác thú hại nên đau lòng ôm lấy tấm khăn rồi đâm bụng chết. Lát sau Thisbé hoàn hồn trở lại thì trong lúc vội vàng sợ người yêu ngóng đợi chợt vấp ngã trên người Pyrame. Pyrame hé mắt trông thấy Thisbé nhưng không sao nói nên lời. Thisbé đau xót điên lên cũng vớ lấy cây gươm đâm bụng chết theo Pyrame. Máu của hai nhười chảy tràn trên vườn dâu, từ đó những trái dâu trắng trở thành sắc đỏ máu.
Sự tích các Nàng Nhân Ngư (Les Sirènes)
Các nàng Nhân Ngư là con gái thần sông Anchélotis (xem sự tích các nữ thần Sơn Thủy) và nàng Ly Tao Calliope, gồm có ba người. Có thuyết lại cho rằng các nàng tám người hết thảy. Ba nàng Nhân Ngư có giọng nói rất du dương, êm ái. Các nàng thường ở đảo Sicile ở mỏm Pélore, đôi khi lại ở đảo Caprée, gần duyên hải xứ Campanie. Nửa mình trên của ba nàng là mình người, nửa mình dưới hình thù giống như mình con chim. Ở hai cánh tay có mọc thêm một đôi cánh. Dịp Cérès bị Pluton bắt cóc mất cô con gái Proserpine, các chị em Nhân Ngư cảm thương nỗi đau lòng củu người mẹ mất con có xin với các thần linh giúp cho họ có thêm cánh để bay đi kiếm Proserpine giùm cho Cérès. Nhưng một bữa thi tài ca hát với các nàng Ly Tao chị em Nhân Ngư bị thua nên từ đó không được mang cánh nữa.
Thật ra các truyền thuyết không đề ra một hình dáng nhất định về các chị em Nhân Ngư. Có thuyết lại cho rằng nửa mình về dưới của họ giống hệt đuôi con cá. Một thuyết khác lại cho rằng Cérès căm tức bọn chị em Nhân Ngư không ngăn cản nỗi để Proserpine bị bắt cóc nên trừng phạt họ và biến họ thành một thứ quái vật có cánh.
Nhưng thuyết nào cùng nói chắc rằng chị em Nhân Ngư có một giọng ca du dương hết sức, nghe văng vẳng từ xa hết thảy mọi thủy thủ đều thấy mê. Mỗi khi đi ngang mé biển có chị em Nhân Ngư ở các thủy thủ từ xa đã nghe thấy tiếng ca êm đềm, ngọt ngào, chiêu dụ của họ và không thể đừng không hướng thuyền tới đó. Một khi đã tới nơi, các thủy thủ không còn hi vọng gì thóat khỏi vì mải mê say tiếng ca êm đềm các thủy thủ quên ăn quên uống, mrr say cho tới chết. Vì thế cho nên suốt một mé biển đặc những xương khô.
Nhà tiên tri có nói rằng ngày nào mà giọng ca của các nàng Nhân Ngư không còn mãnh lực nữa là ngày họ sẽ phải chết. Ulysse khi ở Troie trở về có đi ngang vùng đó, nhưng Ulysse nhớ tới lời dặn của nàng phù thủy Circé lấy sáp ong bít hai lỗ tai, nhất định không nghe lời ca chiêu dụ và nhờ các bạn đồng hành cột chặt mình vào cột buồm và nhất định không mở trói nếu Ulysse có bị mê hoặc cầu xin được thả ra. Khi đi ngang vùng chị em Nhân Ngư, hai lỗ tai dù đã bít lại, Ulysse vẫn còn nghe thấy giọng ca du dương của đám chị em Nhân Ngư và ra lệnh cho thủy thủ cỡi trói cho mình. Nhưng mọi người giữ đúng lời Ulysse đã dặn từ trước nêu thuyền cứ ngang nhiên trôi đi, những lời chiêu dụ vô hiệu quả. Các nàng Nhân Ngư buồn rằng nhọc công vô ích cùng nhau lao mình xuống biển biến thành những mỏm đá. Khu vực đó với những đảo nhỏ đá lởm chởm về sau được mệnh danh là quần đảo Sirénuses.
Sự tích Psyché
Tên của Psyché do danh từ Hy lạp có nghĩa là linh hồn. Psyché là con gái của mội ông vua trên dương thế. Sắc đẹp của Psyché làm mọi người đều mê say đến nỗi các thuộc dân của ông vua đó phải lập riêng một ngôi đền thờ người đẹp. Psyché luôn luôn bị hai cô chị ganh ghét vì nàng xinh đẹp hơn chị. Đồng thời nữ thần Vénus cùng nặng lòng thù ghét Psyché vì Venus không thể chịu nổi một phàm nhân có thể xinh đẹp so sánh được với mình, hơn nữa còn được mọi người mê say hơn cả mình nữa. Vénus bèn sai con trai là thần Ái Tình lo kiếm cách trả thù Psyché. Ái Tình dùng cung bắn một mũi tên trúng tim Psyché và xui khiến cho nàng si mê một con quái vật. Do đó một nhà tiên tri cho nhà vua hay rằng xứ đó sẽ bị tai họa lớn nếu nhà vua không đem con gái hiến dâng cho một con quái vật hiện đang chờ trên một mỏm núi cao ở gần đó. Lời tiên tri còn dặn rằng Psyché phải một mình leo lên tới ngọn núi để hiến dâng cho quái vật.
Nhưng quái vật mà Vénus khích thích đòi được hiến dâng Psyché không ai khác thần Ái Tình, vì trong khi theo đuổi Psyché để trả thù thì thần Ái Tình bỗng thấy yêu mê Psyché hơn ai. Lên tới mỏm núi, Psyché không gặp quái vật mà thấy một tòa lâu đài rất đẹp. Đêm đó trong bóng tối Psyché lại gặp một chàng thanh niên xem chừng xinh trai. Nhưng cứ tảng sáng khi các vì sao bắt đầu lu mờ thì chàng thanh niên biến đâu mất, Psyché còn lại một mình trong tòa lâu đài và càng thấy yêu mê hết sức chàng trai trẻ. Psyché lại nghiễm nhiên trở xuống núin khiến cho ai nấy đèu kinh hoảng không hiểu đầu đuôi. Tối đến Psyché lại leo lên núi, coi bộ hoan hỉ, không chút lo sợ. Nhưng Psyché không ngớt hồ nghi, muốn biết chàng xinh trai đó là ai mà mọi người ở dưới núi đều khiếp hãi. Du Psyché hết sức van nài chàng thanh niên cũng một mực chối từ, khuyên Psyché cứ tiếp tục chung hưởng hạnh phúc.
Lâu dần hai cô chị của Psyché thấy Psyché cứ tiếp tục sống với chàng lạ mặt mà không tìm hiểu cho biết là ai nên luôn luôn dùng lời chế riễu. Những lời riễu cợt khiến cho Psyché ngã lòng, nên một tối Psyché đem theo cây đèn dầu nhỏ, quyết tâm khi gặp mặt chàng trai sẽ đốt đèn lên cho thấy rõ mặt một lần. Đêm đó khi chàng trai ngủ say, Psyché lén trở dậy đốt cây đèn đem tới gần soi cho rõ mặt. Psyché sung sướng biết bao khi nhìn rõ mặt người yêu. Say mê vẻ đẹp của người yêu, Psyché cúi mãi tới gần, quên cả lời chàng căn dặn đừng tò mò tìm hiểu. Khi nàng cúi tới gần người yêu, một giọt dầu đang cháy nóng chợt rớt xuống bàn tay chàng trai. Bị bỏng, chàng trai vụt tỉnh dậy thấy Psyché không nghc lời cố tình