MEN RƯỢU CỦA THI SĨ
Bạn có bao giờ tự hỏi thi ca từ đâu tới không? Những bài hát chúng ta hát và những câu chuyện chúng ta kể từ đâu đến? Bạn có bao giờ tự hỏi tại sao một số người có thể có những giấc mơ vĩ đại, thông thái, hoặc đẹp đẽ, và biến những giấc mơ ấy thành thi ca cho thế giới, để chúng được hát và truyền lại chừng nào mặt trời còn mọc và lặn, chừng nào mặt trăng còn khuyết rồi lại tròn?
Bạn có bao giờ tự hỏi tại sao một số người có thể sáng tác ra những bài hát, bài thơ và câu chuyện hay, còn một số người thì lại không thể?
Đây là một câu chuyện dài, và không có ai đáng được khen ngợi cả: trong câu chuyện này có giết chóc, lừa lọc, dối trá và ngu ngốc, quyến rũ và truy đuổi. Hãy lắng nghe.
Câu chuyện bắt đầu không lâu sau thời hồng hoang, trong cuộc chiến giữa các thần: tộc Aesir đấu với tộc Vanir. Tộc Aesir rất hiếu chiến, gồm toàn các thần của chiến tranh và chinh phục; tộc Vanir hiền hậu hơn, gồm các nam thần và nữ thần là anh chị em, giúp đất đai màu mỡ và cây cối đâm chồi nảy lộc, nhưng không phải vì thế mà họ không hùng mạnh.
Các thần tộc Aesir và các thần tộc Vanir quá ngang sức ngang tài. Không bên nào có thể thắng trận. Và hơn thế nữa, khi chiến đấu, họ nhận ra rằng hai bên cần nhau: rằng một trận chiến vinh quang sẽ chẳng còn vui thú gì nếu sau đó ta không có những cánh đồng và trang trại tươi tốt để cung cấp thức ăn trong yến tiệc mừng thắng trận.
Họ liền thương lượng một thỏa ước hòa bình, và sau khi thương lượng xong, họ đánh dấu việc ngưng chiến bằng cách mỗi thần, của cả tộc Aesir lẫn tộc Vanir, nhổ vào một cái vại lớn. Khi nước dãi của họ hòa với nhau, thì thỏa ước của họ cũng có hiệu lực.
Rồi họ tổ chức yến tiệc. Có rất nhiều đồ ăn và rượu mật, rồi họ chè chén, cười đùa, trò chuyện và tếu táo cho tới khi đống lửa chỉ còn là những cục than hồng, cho tới khi mặt trời đã hé rạng ở chân trời. Thế rồi, khi các thần tộc Aesir và Vanir đứng lên ra về, quấn mình trong những tấm lông thú và khăn choàng và bước ra trời tuyết rét căm căm cùng màn sương buổi sáng, Odin liền nói, “Thật tiếc khi để lại vại nước dãi của chúng ta.”
Frey và Freya, anh trai và em gái, là trưởng tộc Vanir và sẽ đến ở với tộc Aesir tại Asgard theo điều khoản của thỏa ước hòa bình. Họ gật đầu. “Chúng tôi có thể biến nó thành thứ gì đó,” Frey nói. “Chúng tôi sẽ biến nó thành một con người,” Freya nói, và nàng thò tay vào cái vại.
Nước dãi trong vại biến đổi và thành hình dưới những ngón tay của nàng, và chỉ trong chốc lát nó đã biến thành một người đàn ông trần trụi đứng trước mặt họ.
“Ngươi là Kvasir,” Odin nói. “Ngươi có biết ta là ai không?”
“Ngài là Odin tối cao,” Kvasir đáp. “Ngài là Grimnir và Người Thứ Ba. Ngài còn nhiều tên khác nữa, quá nhiều để có thể kể ra ở đây, nhưng thần biết hết những cái tên ấy, và thần cũng biết những bài thơ, những bài hát và những lời tụng đi kèm với chúng.”
Kvasir, được tạo ra từ sự hòa hợp giữa tộc Aesir và tộc Vanir, là vị thần khôn ngoan nhất: ở chàng có cả trí óc lẫn trái tim. Các thần tranh giành nhau để đặt câu hỏi cho Kvasir, và câu trả lời của chàng luôn rất thông thái. Chàng có con mắt quan sát sắc sảo, và chàng luôn đánh giá những điều mình thấy một cách đúng đắn.
Không lâu sau, Kvasir quay sang các thần và nói, “Giờ tôi sẽ lên đường chu du. Tôi sẽ thăm thú cả cửu giới, thăm Midgard. Có nhiều câu hỏi cần trả lời mà tôi chưa được nghe.”
“Nhưng anh sẽ quay về với chúng tôi chứ?” họ hỏi.
“Tôi sẽ quay lại,” Kvasir. “Trong tấm lưới còn một bí ẩn mà một ngày nào đó sẽ phải được tháo gỡ.”
“Trong cái gì cơ?” Thor hỏi. Nhưng Kvasir chỉ mỉm cười và để các thần bối rối với lời nói của mình, rồi chàng khoác áo choàng đi đường lên và rời khỏi Asgard trên cây cầu cầu vồng.
Kvasir đi từ thị trấn này tới thị trấn kia, từ làng này tới làng kia. Chàng gặp đủ hạng người, chàng đối xử với họ rất tốt và trả lời các câu hỏi của họ, và không có nơi nào là không tốt đẹp hơn sau khi Kvasir dừng chân.
Thời đó có hai tiên bóng tối sống trong một pháo đài bên bờ biển. Ở đó họ làm phép và thuật giả kim. Như mọi người lùn, họ cũng chế tác ra nhiều vật, những vật kỳ diệu, tuyệt vời, trong xưởng và lò rèn của họ. Nhưng có những thứ họ chưa làm ra, và họ bị ám ảnh bởi việc phải làm ra những thứ đó. Họ là hai anh em, tên là Fjalar và Galar.
Khi nghe nói là Kvasir đang thăm một thị trấn gần đó, họ liền đến gặp chàng. Fjalar và Galar thấy Kvasir trong một đại sảnh, đang trả lời câu hỏi của người dân, khiến ai nấy đến nghe đều phải kinh ngạc. Chàng dạy người dân cách lọc nước và cách dệt vải từ cây tầm ma. Chàng cho một người phụ nữ biết đích xác ai đã ăn trộm con dao của bà ta, và vì sao. Khi chàng nói xong và người dân đã đem thức ăn đến cho chàng, hai người lùn liền lại gần.
“Chúng ta có một câu hỏi dành cho ngài mà ngài chưa bao giờ được hỏi,” họ nói. “Nhưng cần phải hỏi ở chỗ riêng tư. Ngài đi cùng chúng ta được không?”
“Ta sẽ đi,” Kvasir nói.
Họ đi đến pháo đài. Chim mòng biển gào thét, những đám mây nặng trĩu có màu xám xịt như sóng biển. Hai người lùn dẫn Kvasir vào xưởng, sâu tít giữa những bức tường trong pháo đài của họ.
“Kia là thứ gì?” Kvasir hỏi.
“Đó là hai cái vạc. Chúng có tên là Son và Bodn.”
“Ra thế. Thế còn kia là cái gì?”
“Sao ngài có thể thông thái đến vậy mà lại không biết những vật này? Đó là một cái ấm. Chúng ta gọi nó là Odrerir… vật đem lại khoái lạc.”
“Và ta thấy ở kia các ngươi có những thùng mật vừa lấy về. Mật còn lỏng và không được đậy kín.”
“Đúng thế,” Fjalar nói.
Galar tỏ vẻ khinh thường. “Nếu đúng là ngài thông thái như người ta nói thì ngài sẽ biết câu hỏi của chúng ta trước khi chúng ta phải hỏi. Và ngài sẽ biết những thứ đó để làm gì.”
Kvasir gật đầu vẻ cam chịu. “Ta thấy là,” chàng nói, “nếu cả hai ngươi đều thông minh và độc ác, thì chắc hẳn các ngươi đã quyết định sẽ giết vị khách của mình và để máu anh ta chảy vào hai cái vạc Son và Bodn. Rồi các ngươi sẽ hâm nóng máu của anh ta bằng cái ấm Odrerir. Và sau đó các ngươi sẽ pha mật vào hỗn hợp này rồi để nó lên men cho tới khi nó trở thành rượu mật… thứ rượu mật hảo hạng nhất, có thể khiến bất kỳ ai uống nó say túy lúy, nhưng cũng cho người đó khả năng thi ca và học vấn.”
“Chúng ta thông minh,” Galar thừa nhận. “Và có lẽ có những kẻ nghĩ rằng chúng ta độc ác.”
Nói đoạn hắn cắt cổ Kvasir, rồi chúng treo ngược Kvasir lên trên hai cái vạc cho tới khi giọt máu cuối cùng của chàng chảy xuống. Chúng hâm nóng máu và mật ong trong cái ấm có tên là Odrerir, và pha trộn thêm nhiều thứ theo công thức của riêng mình. Chúng bỏ thêm quả dâu vào đó rồi dùng một cây gậy khuấy đều. Hỗn hợp đó sủi bọt, rồi ngưng sủi bọt, và hai tên người lùn nếm thử rồi cười vang, mỗi tên đều thấy trong mình có những câu thơ và vần điệu mà trước đây chưa bao giờ có thể thốt ra.
Sáng hôm sau các thần tìm đến. “Kvasir,” họ nói. “Lần cuối cùng người ta thấy anh ta là với các ngươi.”
“Đúng vậy,” hai tên người lùn nói. “Ngài ấy đã về đây cùng chúng tôi, nhưng khi ngài ấy thấy chúng tôi chỉ là người lùn, ngu ngốc và không chút thông thái, ngài ấy đã chết nghẹn với tri thức của chính mình. Giá mà chúng tôi biết cách đặt câu hỏi cho ngài ấy.”
“Các ngươi nói anh ta đã chết rồi sao?”
“Phải,” Fjalar và Galar nói, đoạn chúng trao thi thể đã cạn máu của Kvasir cho các thần đem về Asgard để tổ chức tang lễ của một vị thần, và có lẽ (bởi vì các thần không giống ngươi thường và cái chết không phải lúc nào cũng là vĩnh viễn đối với họ) để vị thần sau này tái sinh nữa.
Và thế là hai tên người lùn đã có được men rượu của thi ca và sự thông thái, ai muốn nếm thử đều phải cầu xin chúng. Nhưng Galar và Fjalar chỉ đem rượu này cho những người chúng ưa, và chúng chẳng ưa ai ngoài bản thân mình.
Tuy nhiên, vẫn có những người mà chúng mắc nợ. Ví dụ như người khổng lồ Gilling và vợ ông ta: hai tên người lùn mời họ tới thăm pháo đài của chúng, và vào một ngày mùa đông nọ, họ đến.
“Ta chèo thuyền đi chơi một chuyến nào,” hai tên người lùn bảo Gilling.
Sức nặng của người khổng lồ khiến con thuyền lún sâu xuống nước, và hai tên người lùn chèo thuyền vào lớp đá nằm ngay dưới mặt nước. Trước kia thuyền của chúng lướt êm ái trên lớp đá. Lần này thì không. Con thuyền va vào lớp đá và bị lật, khiến người khổng lồ ngã nhào xuống biển.
“Tự bơi về thuyền đi,” chúng gọi Gilling.
“Tôi không biết bơi,” ông ta nói, và đó là điều cuối cùng ông ta thốt ra, vì đúng lúc đó một con sóng làm nước biển tràn vào miệng ông ta, rồi đầu ông ta đập vào đá, và chỉ trong chốc lát ông ta đã chìm nghỉm.
Fjalar và Galar chỉnh lại thuyền và chèo về.
Vợ Gilling đang đợi chúng.
“Chồng tôi đâu rồi?” bà ta hỏi.
“Ông ta ấy à?” Galar đáp. “À, ông ta chết rồi.”
“Chết đuối,” Fjalar tử tế thêm vào.
Nghe vậy vợ người khổng lồ liền gào khóc thảm thiết như thể mỗi tiếng khóc đều là xé toạc từ tâm hồn ra. Bà ta khóc gọi người chồng đã chết và thề sẽ yêu thương ông ta hết đời, rồi bà ta lại tấm tức, rên rỉ và thút thít.
“Thôi đi!” Galar nói. “Tiếng gào khóc của bà làm điếc cả tai ta. Bà khóc to quá. Hẳn là vì bà là người khổng lồ.”
Nhưng vợ người khổng lồ chỉ càng khóc to hơn.
“Này,” Fjalar nói, “nếu chúng ta chỉ cho bà chỗ chồng bà đã bỏ mạng thì bà sẽ thấy khá hơn chứ?”
Bà ta sụt sịt và gật đầu, rồi lại khóc và gào và hờ gọi người chồng sẽ không bao giờ trở về với mình nữa.
“Đứng ở đây, chúng ta sẽ chỉ chỗ cho,” Fjalar nói và chỉ cho bà ta chính xác phải đứng chỗ nào, nói rằng bà ta phải đi qua cánh cửa lớn và đứng dưới tường thành ra sao. Rồi hắn gật đầu ra hiệu cho em trai mình, tên này liền chạy lên các bậc thang để leo lên tít đến tận đầu bức tường.
Khi vợ của Gilling đi qua cánh cửa, Galar thả một tảng đá to tướng lên đầu bà ta, và bà ta gục xuống, đầu nát nhừ.
“Giỏi lắm,” Fjalar nói. “Anh phát mệt vì những âm thanh kinh khủng đó rồi.”
Chúng đẩy cái xác cứng đờ của người phụ nữ khỏi nền đá và xuống biển. Những đợt sóng xám ngắt lôi cái xác của bà ta ra xa, và hai vợ chồng Gilling lại được sum họp trong cái chết.
Hai tên người lùn nhún vai, tin rằng mình, trong pháo đài bên biển, rất thông minh.
Hằng đêm chúng đều uống rượu thi ca, ngâm những đoạn thơ tuyệt diệu cho nhau nghe, sáng tác những thiên sử thi về cái chết của Gilling và vợ ông ta, chúng trèo lên tận đỉnh pháo đài để ngâm, để rồi đêm đêm chúng đều ngủ gục trong con say bí tỉ, và thức dậy đúng chỗ mình đã ngồi hoặc nằm xuống đêm hôm trước.
Một hôm chúng thức giấc như thường lệ, nhưng không phải trong pháo đài của mình.
Chúng thức giấc trên lòng thuyền, và một người khổng lồ mà chúng không nhận ra là ai đang chèo thuyền ra khơi. Bầu trời sầm tối vì những đám mây dông, và biển đen ngòm. Sóng dâng cao, dữ dội, và nước biển té qua mạn thuyền làm hai tên người lùn ướt lướt thướt.
“Ngươi là ai?” hai tên người lùn hỏi.
“Ta là Suttung,” người khổng lồ đáp. “Ta nghe nói các ngươi đã huênh hoang với gió và sóng biển và cả thế giới về việc giết cha và mẹ ta.”
“À,” Galar nói. “Có phải vì thế mà ngươi mới trói chúng ta lại không?”
“Đúng thế,” Suttung trả lời.
“Có lẽ ngươi đang định đưa chúng ta tới một nơi huy hoàng,” Fjalar khấp khỏi nói, “ở đó ngươi sẽ cởi trói cho chúng ta, rồi chúng ta sẽ tiệc tùng, chè chén, cười đùa và trở thành những người bạn chí cốt.”
“Ta không tin là sẽ như vậy,” Suttung nói.
Thủy triều đang xuống thấp. Có nhiều tảng đá nhô lên trên mặt nước. Đó cũng chính là những tảng đá đã làm lật thuyền của hai tên người lùn khi thủy triều lên cao, những tảng đá đã khiến Gilling chết đuối. Suttung nhấc từng tên người lùn lên khỏi sàn thuyền, đặt lên những tảng đá.
“Những tảng đá này sẽ chìm trong nước biển khi thủy triều lên cao,” Fjalar nói. “Tay chúng ta đã bị trói sau lưng. Chúng ta không thể bơi được. Nếu ngươi bỏ chúng ta lại đây, chắc chắn chúng ta sẽ chết đuối.”
“Đó quả là ý định của ta đấy,” Suttung nói. Bây giờ gã mới mỉm cười lần đầu tiên. “Và khi các ngươi chết đuối, ta sẽ ngồi đây, trên thuyền của các ngươi, và ta sẽ ngắm biển nhấn chìm cả hai ngươi. Rồi ta sẽ trở về nhà ở Jotunheim, và ta sẽ kể với em trai ta, Baugi, và con gái ta, Gunnlod, rằng các ngươi đã chết ra sao, và chúng ta sẽ hài lòng rằng cha mẹ đã được báo thù xứng đáng.”
Nước biển đang bắt đầu dâng lên. Nước dâng lên đến chân hai tên người lùn, rồi lên đến rốn. Chẳng mấy chốc chòm râu của hai tên người lùn đã nổi lềnh phềnh trên bọt biển và mắt chúng đầy vẻ hoảng hốt.
“Xin hãy nhân từ!” chúng kêu lên.
“Như sự nhân từ các ngươi đã dành cho cha mẹ ta ư?”
“Chúng ta sẽ đền bù cho ngươi vì cái chết của họ! Chúng ta sẽ bồi thường cho ngươi! Chúng ta sẽ trả tiền cho ngươi.”
“Ta không tin là hai tên người lùn các ngươi lại có thứ gì có thể đền bù được cho cái chết của cha mẹ ta. Ta là một người khổng lồ giàu có. Ở pháo đài trên núi của ta có rất nhiều người hầu kẻ hạ và đủ mọi của cải ta có thể mơ tưởng được. Vàng ta có, rồi đá quý, và đủ quặng sắt để rèn một ngàn thanh gươm. Ta làm chủ nhiều phép thuật hùng mạnh. Các ngươi có thể cho ta thứ gì mà ta chưa có?” Suttung hỏi.
Hai tên người lùn không nói một lời.
Sóng vẫn tiếp tục dâng lên.
“Chúng ta có rượu, rượu thi ca,” Galar lắp bắp nói khi nước tạt vào miệng hắn.
“Được làm từ máu của Kvasir, vị thần thông thái nhất!” Fjalar hét lên. “Hai cái vạc và một cái ấm đầy! Không ai có nó ngoài chúng ta, không ai khác trên toàn thế giới!”
Suttung gãi đầu. “Để ta nghĩ đã. Ta phải suy ngẫm. Ta phải tính toán.”
“Đừng mất thời giờ suy nghĩ nữa! Nếu ngươi nghĩ, chúng ta sẽ chết!” Fjalar thét, át cả tiếng gầm của làn sóng.
Thủy triều dâng lên. Từng đợt sóng trùm lên đầu hai tên người lùn, và chúng đang hốt hoảng hớp không khí, cặp mắt tròn xoe vì sợ hãi, thì người khổng lồ Suttung liền vươn tay ra và nhấc đầu tiên là Fjalar rồi đến Galar ra khỏi ngọn sóng.
“Rượu thi ca sẽ là món bồi thường thích hợp đấy. Đó là cái giá công bằng, nếu các ngươi phụ thêm vài thứ nữa, mà ta dám chắc là bọn người lùn các ngươi còn có thêm vài thứ nữa. Ta sẽ tha mạng cho các ngươi.”
Gã ném chúng, vẫn bị trói chặt và ướt sũng, vào lòng thuyền, nơi chúng nằm vặn vẹo khổ sở, như hai con tôm hùm râu ria, trong lúc gã chèo thuyền về bờ.
Suttung lấy hết chỗ rượu hai tên người lùn đã làm từ máu của Kvasir. Gã còn lấy của chúng nhiều thứ khác nữa, rồi gã rời đi, để lại hai tên người lùn vẫn mừng là mình còn giữ được mạng.
Fjalar và Galar kể với bất kỳ ai đi qua pháo đài của chúng việc chúng đã bị Suttung hành hạ ra sao. Chúng kể chuyện đó ở phiên chợ khi chúng đi mua bán. Chúng kể chuyện đó khi đàn quạ ở quanh.
Tại Asgard, Odin ngồi trên ngai vàng của mình, và hai con quạ của ngài, Huginn và Muninn, thì thầm với ngài những điều mắt thấy tai nghe khi chúng chu du quanh thế giới. Con mắt của Odin lóe lên khi ngài nghe câu chuyện về thứ rượu của Suttung.
Những người được nghe câu chuyện này gọi thứ rượu đó là “thuyền của người lùn”, vì nó đã chở Fjalar và Galar khỏi những tảng đá và đưa chúng về nhà an toàn; họ gọi nó là rượu của Suttung; họ gọi nó là nước men của Odrerir hoặc Bodn hoặc Son.
Odin lắng nghe hai con quạ của mình kể lại. Ngài gọi đem áo choàng và mũ của mình đến. Ngài cho gọi các thần và bảo họ chuẩn bị ba cái vại khổng lồ, những cái vại lớn nhất họ có thể làm ra, và đặt sẵn ở cổng Asgard.
Ngài nói với các thần rằng ngài sẽ rời họ để đi chu du thế giới, và sẽ mất ít lâu ngài mới quay về.
“Ta sẽ đem theo hai thứ,” Odin nói. “Ta cần một viên đá mài để mài dao. Viên đá mài tốt nhất mà chúng ta có. Và ta cũng cần cả mũi dùi, cái khoan, tên gọi là Rati.” Rati có nghĩa là “cái khoan”, và đó là cái khoan tốt nhất mà các thần có. Nó có thể khoan rất sâu, và xuyên qua cả những tảng đá cứng nhất.
Odin tung viên đá mài lên không trung rồi lại bắt lấy nó và bỏ nó vào túi bên cạnh cái khoan. Rồi ngài lên đường.
“Không biết ngài định làm gì nhỉ,” Thor nói.
“Kvasir hẳn sẽ biết,” Frigg nói. “Anh ta biết mọi điều.”
“Kvasir đã chết rồi,” Loki nói. “Về phần tôi, tôi chẳng cần biết Cha tối cao đang đi đâu hay tại sao.”
“Tôi sẽ đi giúp mọi người làm ba cái vại gỗ mà Cha tối cao đã yêu cầu,” Thor nói.
Suttung đã đưa thứ rượu quý giá cho con gái mình là Gunnlod trông coi trong lòng quả núi có tên là Hnitbjorg, ở sâu trong vùng đất của người khổng lồ. Odin không đi đến quả núi. Thay vào đó ngài đi thẳng đến trang trại của anh trai Suttung là Baugi.
Đang là mùa xuân, và cỏ mọc cao trên các cánh đồng, sẵn sàng để cắt làm cỏ khô. Baugi có chín người nô lệ, cũng là người khổng lồ như ông ta, và họ đang cắt cỏ bằng những lưỡi hái kếch xù, mỗi chiếc to bằng một cái cây nhỏ.
Odin quan sát họ. Khi họ ngừng tay để ăn uống, lúc mặt trời lên cao trên đỉnh đầu, Odin liền tiến về phía họ và nói, “Tôi đã xem các vị làm việc. Cho tôi hay, tại sao chủ nhân của các vị lại để các vị cắt cỏ bằng những lưỡi hái cùn như vậy?”
“Lưỡi hái của chúng tôi không cùn,” một người nô lệ nói.
“Sao ông lại nói như vậy?” một người khác hỏi. “Lưỡi hái của chúng tôi sắc nhất trên đời.”
“Để tôi cho các vị thấy một lưỡi hái sắc có thể làm được gì,” Odin nói. Ngài lấy viên đá mài từ trong túi ra và lướt trên một lưỡi hái, rồi một lưỡi hái nữa, cho tới khi tất cả các lưỡi hái đều sáng lóa dưới ánh nắng. Những người khổng lồ đứng quanh ngài vẻ lúng túng, quan sát ngài mài lưỡi hái. “Giờ thì,” Odin nói, “hãy thử mà xem.”
Những người nô lệ khổng lồ đưa lưỡi hái qua đám cỏ trên thảo nguyên và há hốc rồi kêu lên đầy thích thú. Những lưỡi hái sắc đến nỗi họ không cần cố gắng vẫn cắt được cỏ. Lưỡi hái lướt qua thân cỏ dày nhất dễ dàng như không.
“Tuyệt quá!” họ nói với Odin. “Chúng tôi có thể mua viên đá mài của ông được không?”
“Mua nó ư?” Cha tối cao nói. “Chắc chắn là không rồi. Chúng ta hãy làm một việc công bằng và thú vị hơn. Các vị hãy lại đây. Đứng thành một nhóm, mỗi người cầm chắc lưỡi hái của mình. Đứng gần vào.”
“Chúng tôi không thể đứng gần hơn được,” một người nô lệ khổng lồ nói. “Vì lưỡi hái sắc quá.”
“Các vị thông minh đấy,” Odin nói. Ngài giơ viên đá mài lên. “Tôi sẽ thỏa thuận thế này. Ai trong số các vị có thể bắt được viên đá mài thì người đó sẽ được giữ nó!” nói đoạn, ngài ném viên đá mài lên không trung.
Chín người khổng lồ nhảy lên bắt viên đá mài khi nó rơi xuống, mỗi người đều đưa bên tay còn trống ra mà không để ý gì đến lưỡi hái đang cầm trong tay kia (mỗi lưỡi hái đều đã được mài sắc bởi vị Cha tối cao bằng viên đá mài của mình, mài đến độ sắc hoàn hảo).
Họ nhảy lên, tay với ra, và những lưỡi hái lóe lên dưới ánh mặt trời.
Một dòng máu đỏ bắn tung ra dưới ánh mặt trời, và xác của chín người nô lệ co giật rồi từ từ đổ gục xuống lớp cỏ mới cắt. Odin bước qua xác những người khổng lồ, nhặt viên đá mài của các thần lên, và cất nó vào trong túi.
Chín người nô lệ đã chết vì bị cắt cổ bởi lưỡi hái của người đứng cạnh mình.
Odin đi vào đại sảnh của Baugi, anh trai của Suttung, và xin trọ lại qua đêm. “Tôi tên là Bolverkr,” Odin nói.
“Bolverkr,” Baugi nhắc lại. “Một cái tên xấu tệ. Nó có nghĩa là ‘người làm ra những thứ khủng khiếp’.”
“Chỉ với kẻ thù của tôi mà thôi,” người tự gọi mình là Bolverkr lên tiếng. “Các bạn tôi luôn trân trọng những gì tôi làm ra. Tôi có thể làm việc bằng chín người, và tôi làm việc không biết mệt và không bao giờ kêu ca.”
“Ông có thể trọ lại đây đêm nay,” Baugi thở dài nói. “Nhưng ông đã đến gặp ta vào một ngày đen tối. Ngày hôm qua ta còn là một người giàu có, với nhiều cánh đồng và chín tên nô lệ để trồng trọt và gặt hái, để làm lụng và xây dựng. Đêm nay ta vẫn còn cánh đồng và gia súc, nhưng nô lệ của ta đã chết cả rồi. Chúng giết lẫn nhau. Ta không biết vì sao.”
“Quả là một ngày đen tối,” Bolverkr do Odin giả dạng nói. “Ngài không tìm được thêm lực điền sao?”
“Năm nay thì không,” Baugi thở dài. “Đã là mùa xuân rồi. Các lực điền giỏi đều đã đi làm công cho em trai ta là Suttung, và cũng ít người đi qua đây. Đã nhiều năm nay rồi, ông mới là người lữ hành đầu tiên xin ngủ lại đây đấy.”
“Và ngài thật may mắn vì tôi đã dừng chân lại đây. Vì tôi có thể làm việc bằng chín người.”
“Ông không phải người khổng lồ,” Baugi nói. “Ông chỉ là một kẻ còi cọc, bé nhỏ. Làm sao ông có thể làm việc bằng một người hầu của ta, nói gì đến chín người?”
“Nếu tôi không thể làm việc bằng chín người của ngài,” Bolverkr nói, “thì ngài sẽ không phải trả công cho tôi. Nhưng nếu tôi làm được thì…”
“Thì sao?”
“Ngay cả ở những nơi xa xôi chúng tôi cũng đã được nghe chuyện về thứ rượu kỳ diệu của em trai ngài là Suttung. Người ta nói rằng nó sẽ đem thi ca đến cho bất kỳ ai uống nó.”
“Đúng thế. Khi chúng ta còn trẻ, Suttung chẳng biết thơ phú gì. Ta mới là người hay thơ trong gia đình. Nhưng từ khi nó quay về với thứ rượu của hai tên người lùn, nó đã trở thành một thi sĩ và một kẻ mộng mơ.”
“Nếu tôi làm việc cho ngài, cày cấy, xây dựng và gặt hái cho ngài, và hoàn thành hết mọi việc của những người hầu đã chết của ngài, tôi xin được nếm thử rượu của Suttung.”
“Nhưng…” trán Baugi nhăn lại. “Nhưng rượu đó không phải là của ta. Nó là của Suttung.”
“Thật đáng tiếc,” Bolverkr nói. “Vậy thì tôi xin chúc ngài may mắn vào lúc thu hoạch mùa vụ năm nay.”
“Đợi đã! Đúng là rượu đó không phải của ta. Nhưng nếu ông làm được như lời hứa, ta sẽ đưa ông đến gặp Suttung. Và ta sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp ông được nếm rượu của nó.”
“Vậy thì,” Bolverkr nói, “chúng ta hãy thỏa thuận.”
Chưa bao giờ có một người lực điền nào làm việc chăm chỉ bằng Bolverkr. Ngài cày cấy còn khỏe hơn hai mươi người, chứ đừng nói gì đến chín người. Một mình ngài chăm nom tất cả gia súc. Một mình ngài thu hoạch vụ mùa. Ngài đã cày cấy đất đai, và đất đai đã trả công cho ngài gấp nghìn lần.
“Bolverkr,” Baugi nói khi màn sương đầu tiên của mùa đông tràn từ trên núi xuống, “ông đã bị đặt nhầm tên rồi. Vì ông chỉ toàn làm những điều tốt thôi.”
“Chẳng phải tôi đã làm việc bằng chín người đó sao?”
“Phải, và gấp đôi thế nữa.”
“Vậy ngài sẽ giúp tôi nếm rượu của Suttung chứ?”
“Hẳn rồi!”
Sáng hôm sau họ dậy sớm và lên đường đi, đi mãi, đi mãi, và đến tối thì họ đã rời khỏi vùng đất của Baugi và đến vùng đất của Suttung, bên rìa rặng núi. Đến đêm thì họ tới được đại sảnh khổng lồ của Suttung.
“Xin chào, chú Suttung,” Baugi nói. “Đây là Bolverkr, là người hầu trong mùa hè vừa rồi của anh và là bạn của anh.” Và ông ta kể cho Suttung thỏa thuận của mình với Bolverkr. “Vậy chú thấy đấy,” ông ta kết luận, “anh phải xin chú hãy cho ông ta nếm một ngụm rượu thi ca.”
Mắt Suttung như hai mảnh băng. “Không,” gã nói thẳng thừng.
“Không ư?” Baugi hỏi.
“Không. Tôi sẽ không bao giờ cho đi một giọt rượu nào. Không một giọt. Tôi đã cất nó cẩn thận trong hai cái vạc, Bodn và Son, và trong cái ấm Odrerir. Chúng đang nằm sâu trong lòng núi Hnitbjorg, và quả núi sẽ chỉ mở ra theo lệnh tôi. Con gái tôi, Gunnlod, đang canh gác nó. Tên người hầu của anh không được phép nếm thử. Anh cũng không được phép nếm thử.”
“Nhưng,” Baugi nói, “đó là cái giá để đổi lấy máu của cha mẹ chúng ta. Chẳng lẽ anh không đáng được hưởng một chút, để chứng tỏ cho Bolverkr rằng anh là một người khổng lồ biết trọng danh dự ư?”
“Không,” Suttung nói, “anh không đáng.”
Họ rời khỏi gian sảnh.
Baugi hết sức phiền muộn. Hai vai ông ta so lên cao, còn cái miệng thì trễ xuống. Cứ đi được vài bước, Baugi lại xin lỗi Bolverkr. “Ta không nghĩ em trai ta lại quá đáng đến vậy,” ông ta nói.
“Quả là ông ta rất quá đáng,” Bolverkr do Odin giả dạng thành nói. “Nhưng ngài với tôi có thể chơi xỏ ông ta một vài ngón, để sau này ông ta không tự cao tự đại như thế được nữa. Để sau này ông ta sẽ phải nghe lời anh trai mình.”
“Chúng ta có thể làm như vậy,” người khổng lồ Baugi nói, rồi ông ta đứng thẳng hơn và khóe miệng nhếch lên gần như thành một nụ cười. “Chúng ta sẽ làm gì?”
“Trước hết,” Bolverkr nói, “chúng ta sẽ trèo lên Hnitbjorg, quả núi tim đập.”
Họ cùng nhau trèo lên Hnitbjorg, người khổng lồ trèo trước, rồi sau đó đến Bolverkr, chỉ nhỏ như con búp bê so với người khổng lồ, nhưng không bao giờ bị tụt lại sau. Họ trèo lên những lối mòn mà cừu và dê đã tạo ra, rồi họ trèo lên những tảng đá cho tới khi lên cao trên sườn núi. Những bông tuyết đầu tiên của mùa đông đã rơi xuống lớp băng chưa kịp tan từ mùa đông năm ngoái. Họ nghe thấy tiếng gió rít quanh núi. Họ nghe thấy tiếng chim kêu xa tít dưới chân mình. Và họ còn nghe thấy cả một âm thanh khác nữa.
Âm thanh đó nghe như tiếng người. Dường như nó đang phát ra từ những tảng đá trên núi, nhưng nó cứ xa xăm, như thể đang vọng ra từ tận trong lòng núi.
“Tiếng gì thế?” Bolverkr hỏi.
Baugi cau mày. “Nghe giống như tiếng cháu gái ta, Gunnlod, đang hát.”
“Vậy thì chúng ta sẽ dừng chân ở đây.”
Từ trong chiếc túi da của mình, Bolverkr lấy ra cái khoan có tên là Rati. “Đây,” ngài nói. “Ngài là một người khổng lồ, to lớn và khỏe mạnh. Sao ngài không thử dùng cái khoan này để xuyên qua sườn núi nhỉ?”
Baugi cầm lấy cái khoan. Ông ta ấn nó vào sườn núi và bắt đầu xoay. Mũi khoan xuyên qua sườn núi như một chiếc đinh vít xuyên vào một cái nút bần mềm. Baugi cứ tiếp tục xoay cái khoan không ngừng.
“Xong rồi,” Baugi nói. Ông ta rút mũi khoan ra.
Bolverkr cúi người xuống bên cái lỗ do cái khoan tạo ra và thổi vào đó. Những mẩu đá vụn và bụi đá bay ngược trở lên. “Tôi mới phát hiện ra hai điều,” Bolverkr nói.
“Hai điều gì?”
“Rằng chúng ta chưa xuyên được qua sườn núi,” Bolverkr đáp. “Ngài phải khoan tiếp.”
“Đó chỉ là một điều thôi mà,” Baugi nói. Nhưng Bolverkr không nói gì nữa trên sườn núi cao vút đó, nơi làn gió băng giá cào cấu họ. Baugi lại nhấn cái khoan Rati vào lỗ và tiếp tục xoay.
Khi Baugi lại rút mũi khoan ra khỏi cái lỗ thì trời đã tối. “Nó đã xuyên thủng vào tâm quả núi rồi,” ông ta nói.
Bolverkr không nói gì, chỉ thổi nhẹ vào cái lỗ, và lần này ngài thấy những mẩu đá bay vào trong.
Ngay lúc đó, ngài nhận ra có thứ gì đó đang lao tới mình từ phía sau. Bolverkr liền biến hình: ngài biến thành một con rắn, và mũi khoan sắc nhọn đâm vào chỗ lúc trước còn là đầu ngài.
“Điều thứ hai ta phát hiện ra được khi ngươi nói dối ta,” con rắn rít lên với Baugi đang đứng sửng sốt, tay cầm cái khoan như cầm một món vũ khí, “đó là ngươi sẽ phản bội ta.” Và vẫy đuôi một cái, con rắn biến vào cái lỗ trên sườn núi.
Baugi lại vung khoan lên, nhưng con rắn đã biến mất, ông ta bèn tức tối ném cái khoan đi rồi nghe thấy tiếng nó rơi lạch cạch lên nền đá bên dưới. Ông ta nghĩ đến chuyện quay về sảnh của Suttung, và ở đó ông ta sẽ phải kể với em trai rằng ông ta đã giúp đưa một tên pháp sư hùng mạnh đến Hnitbjorg, thậm chí còn giúp hắn đột nhập vào trong núi nữa. Ông ta tưởng tượng Suttung sẽ phản ứng thế nào với tin này.
Thế là, hai vai chảy xệ và cái miệng trễ xuống, Baugi trèo xuống núi và lê bước về nhà, về với lò lửa và đại sảnh của ông ta. Cho dù có chuyện gì xảy ra với em trai ông ta hoặc thứ rượu quý báu của gã trong tương lai thì, ô kìa, nó cũng chẳng liên quan gì đến ông ta cả.
Bolverkr trong hình thù rắn trườn qua cái lỗ trên sườn núi cho tới khi cái lỗ kết thúc và ngài thấy mình trong một cái hang lớn.
Cái hang được thắp sáng bằng những thỏi pha lê, tỏa ánh sáng lạnh. Odin lại biến hình từ rắn trở lại thành người, không chỉ là một người thường mà là một người khổng lồ, hình dáng cân đối. Rồi ngài bước đi, đi theo tiếng hát.
Gunnlod, con gái của Suttung, đứng trong hang trước một ô cửa khóa kín, đằng sau đó là hai cái vạc Son và Bodn và cái ấm Odrerir. Trong tay cô ta cầm một thanh gươm sắc, và cô ta vừa đứng đó vừa hát một mình.
“Xin chào nàng thiếu nữ can đảm!” Odin nói.
Gunnlod trố mắt nhìn ngài. “Ta không biết ngươi là ai,” cô ta nói. “Hãy xưng danh đi, kẻ lạ mặt, và cho ta biết tại sao ta nên để ngươi sống. Ta là Gunnlod, người bảo vệ nơi này.”
“Ta là Bolverkr,” Odin nói, “và ta biết ta đáng nhận cái chết vì đã dám đặt chân vào nơi này. Nhưng xin hãy dừng tay và cho ta ngắm nàng đã.”
Gunnlod nói, “Cha ta, Suttung, đã ra lệnh cho ta canh gác ở đây, bảo vệ men rượu thi ca.”
Bolverkr nhún vai. “Ta thì quan tâm gì đến men rượu thi ca? Ta đến đây chỉ vì ta đã nghe đồn về sắc đẹp, lòng can đảm, và đức hạnh của Gunnlod, con gái của Suttung. Ta tự nhủ, ‘Chỉ cần nàng cho ngươi ngắm nhìn nàng thôi cũng đáng rồi. Tất nhiên, đó là nếu nàng thực sự đẹp như lời đồn’ Ta đã nghĩ như vậy đấy.”
Gunnlod nhìn gã khổng lồ đẹp trai đứng trước mặt nàng. “Và ngươi có thấy đáng không, hỡi Bolverkr-kẻ- sắp-chết kia?”
“Còn hơn là đáng ấy chứ,” ngài trả lời. “Vì nàng còn đẹp hơn bất kỳ câu chuyện nào ta từng được nghe hay bài hát nào mà các nhạc sĩ có thể sáng tác ra. Đẹp hơn cả một đỉnh núi, đẹp hơn một sông băng, đẹp hơn cả một cánh đồng phủ tuyết mới rơi lúc rạng đông.”
Gunnlod cúi mặt, má đỏ ửng.
“Ta có thể ngồi cạnh nàng không?” Bolverkr hỏi.
Gunnlod chỉ gật đầu, không nói gì.
Trong lòng núi cô ta có thức ăn và nước uống, nên họ cùng ăn uống.
Sau khi ăn xong, họ âu yếm hôn nhau trong bóng tối.
Sau khi ân ái xong, Bolverkr buồn rầu nói, “Ta ước gì mình có thể nếm một ngụm rượu từ cái vạc tên gọi là Son. Khi đó ta sẽ có thể sáng tác một bài ca đích thực về cặp mắt của nàng, và ai ai cũng sẽ hát nó khi họ muốn hát về sắc đẹp.”
“Chỉ một ngụm thôi ư?” cô ta hỏi.
“Một ngụm nhỏ đến nỗi sẽ không ai biết,” ngài đáp.
“Nhưng ta chẳng vội gì. Nàng còn quan trọng hơn thế. Để ta cho nàng biết nàng quan trọng với ta tới mức nào.”
Và ngài lại kéo cô ta vào lòng.
Họ ân ái trong bóng tối. Sau đó, khi họ nằm cuộn tròn bên nhau, làn da trần áp vào nhau, thì thầm những lời âu yếm vào tai nhau, thì Bolverkr liền rầu rĩ thở dài.
“Có chuyện gì thế?” Gunnlod hỏi.
“Ta ước gì ta có thể hát về đôi môi nàng, êm ái xiết bao, dịu ngọt hơn đôi môi của bất kỳ người con gái nào khác. Ta nghĩ đó sẽ là một bài hát rất hay.”
“Quả là không may,” Gunnlod nói. “Vì đôi môi em quả là rất quyến rũ. Em thường nghĩ đó là nét đẹp nhất của em.”
“Có lẽ vậy, nhưng nàng có nhiều nét hoàn hảo đến nỗi thật khó để chỉ chọn một. Nhưng nếu ta có thể nếm một ngụm rượu nhỏ xíu từ cái vạc có tên là Bodn, thì thi ca sẽ tuôn chảy trong hồn ta và ta sẽ sáng tác được một bài thơ về đôi môi nàng, bài thơ sẽ kéo dài cho tới khi mặt trời bị con sói ăn mất.”
“Nhưng chỉ là một ngụm nhỏ tí xíu thôi nhé,” cô ta nói. “Vì cha em sẽ rất bực mình nếu ông biết em lại đem rượu cho những kẻ lạ mặt đẹp trai đã xuyên thủng được pháo đài trong lòng núi này.”
Họ đi qua cái hang, tay nắm tay, môi chốc chốc lại chạm môi. Gunnlod chỉ cho Bolverkr thấy cánh cửa ra vào và cửa sổ mà cô ta có thể mở từ trong núi, để Suttung gửi thức ăn và nước uống qua, và Bolverkr có vẻ không chú ý gì cả; ngài giải thích rằng mình không quan tâm tới bất kỳ thứ gì không phải là Gunnlod, không phải là mắt, môi, ngón tay hay tóc cô ta. Gunnlod cười phá lên và nói những lời hoa mỹ đó chẳng có gì là thật cả và chắc hẳn ngài không muốn ân ái với cô ta nữa.
Ngài áp môi vào môi cô ta để cô ta im lặng, và họ lại ân ái một lần nữa.
Khi họ đã hoàn toàn thỏa mãn, Bolverkr bắt đầu khóc nức nở trong bóng tối.
“Có chuyện gì thế, tình yêu của em?” Gunnlod hỏi.
“Hãy giết ta đi,” Bolverkr sụt sùi. “Hãy giết ta ngay bây giờ! Vì ta sẽ không bao giờ có thể sáng tác nổi một bài thơ về sự tuyệt mỹ của làn da và mái tóc nàng, của giọng nói nàng và cảm giác từ những ngón tay nàng, vẻ đẹp của Gunnlod là không thể tả nổi.”
“Chà,” cô ta nói, “em đoán là sáng tác một bài thơ như vậy chắc là không dễ. Nhưng em không nghĩ là không thể đâu.”
“Có lẽ…”
“Sao cơ?”
“Có lẽ một ngụm nhỏ xíu từ cái ấm Odrerir sẽ cho ta tài thơ phú để gọi lên vẻ đẹp của nàng cho muôn đời sau,” ngài gợi ý, tiếng nức nở nhỏ dần.
“Phải, có lẽ vậy. Nhưng phải là ngụm nhỏ nhất trong những ngụm nhỏ nhất đấy nhé…”
“Hãy cho ta xem cái ấm, và ta sẽ cho nàng thấy ta có thể uống ngụm nhỏ đến mức nào.”
Gunnlod mở khóa cửa, và trong chốc lát cô ta đã cùng Bolverkr đứng trước cái ấm và hai cái vạc. Mùi men rượu thi ca thơm nồng khắp không gian.
“Chỉ một ngụm nhỏ tí xíu thôi đấy nhé,” cô ta dặn ngài. “Để sáng tác được ba bài thơ về em, đáng để lưu truyền lại qua mọi thời đại.”
“Tất nhiên rồi, người thương của ta.” Bolverkr cười nhăn nhở trong bóng tối. Nếu lúc đó cô ta nhìn thấy ngài thì hẳn cô ta đã biết có chuyện chẳng lành.
Với ngụm đầu tiên, ngài uống hết từng giọt trong cái ấm Odrerir.
Với ngụm thứ hai, ngài nốc cạn chiếc vạc tên gọi Bodn.
Với ngụm thứ ba, ngài hút sạch chiếc vạc tên gọi Son.
Gunnlod không hề ngốc. Cô ta nhận ra ngay là mình đã bị phản bội và lao vào tấn công ngài. Cô ta rất khỏe và nhanh, nhưng Odin không ở lại để chiến đấu. Ngài lao ra khỏi đó. Ngài kéo cửa lại và nhốt cô ta bên trong.
Trong chớp mắt ngài đã biến thành một con đại bàng khổng lồ. Odin vừa rít lên vừa đập cánh, cửa vào núi mở ra, và ngài bay vút lên trời cao.
Tiếng thét của Gunnlod xé toạc cả bình minh.
Trong đại sảnh của mình, Suttung thức giấc và lao ra ngoài. Gã ngước lên, nhìn thấy con đại bàng, và hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Suttung cũng liền biến hình thành đại bàng.
Hai con đại bàng bay cao đến nỗi từ dưới đất nhìn lên chúng chỉ như hai đầu đinh ghim bé xíu. Chúng bay nhanh đến nỗi âm thanh chúng phát ra nghe như tiếng gầm rú của một con cuồng phong.
Ở Asgard, Thor nói, “Đã đến lúc rồi.”
Chàng lôi ba chiếc vạc gỗ khổng lồ ra sân.
Các thần Asgard dõi theo hai con đại bàng đang gào thét phóng qua bầu trời về phía họ. Rất sít sao. Suttung bay rất nhanh và bám sát sau Odin, cái mỏ gần như chạm vào lông đuôi Odin khi hai con đại bàng bay tới Asgard.
Khi Odin đến gần đại sảnh, ngài bắt đầu nhổ: một dòng suối rượu mật trào ra từ mỏ ngài vào ba chiếc vạc, lần lượt đổ đầy chúng, như một con chim bố đem thức ăn về cho chim non.
Từ đó trở đi, chúng ta biết rằng những người có thể dùng ngôn từ tạo nên phép mầu, những người có thể sáng tác thơ, trường ca và kể chuyện là những người đã được nếm men rượu thi ca. Khi chúng ta lắng nghe một nhà thơ tài năng, chúng ta nói rằng người đó đã được nếm món quà của Odin.
Đó. Đó là câu chuyện về men rượu thi ca và nó đã được đem về cho thế gian như thế nào. Đó là một câu chuyện đầy những dối trá và lừa lọc, đầy giết chóc và âm mưu. Nhưng đó vẫn chưa phải là toàn bộ câu chuyện. Còn một điều nữa để kể với các bạn. Những ai nhạy cảm nên bịt tai lại hoặc đừng đọc thêm nữa.
Đây là điều cuối cùng, và một điều hết sức đáng xấu hổ. Khi vị Cha tối cao, trong hình hài đại bàng, sắp bay tới chỗ ba cái vạc, còn Suttung theo sát phía sau, Odin đã phun một ít rượu ra từ đằng sau, một luồng rượu hôi thối bắn thẳng vào mặt Suttung đánh bẹt một cái, làm người khổng lồ mờ mắt và mất dấu Odin.
Không ai, ngày đó cũng như bây giờ, muốn uống thứ rượu phun ra từ đằng sau của Odin cả. Nhưng khi nào các bạn nghe các thi sĩ tồi ngâm những bài thơ dở ẹc của họ, đầy những phép ẩn dụ ngớ ngẩn và vần điệu xấu xí, thì các bạn biết là họ đã nếm thứ rượu nào rồi đấy.