CÁI CHẾT CỦA BALDER
Không có gì trên thế gian lại không yêu mặt trời. Mặt trời cho ta hơi ấm và sự sống; mặt trời làm tan băng tuyết giá lạnh của mùa đông; mặt trời khiến cây cối mọc lên và hoa nở. Mặt trời cho ta những đêm hè dài vô tận, khi bóng tối không bao giờ đến. Mặt trời cứu ta khỏi những ngày giá rét của tiết đông chí, khi bóng tối chỉ bị phá vỡ trong mấy giờ đồng hồ ngắn ngủi và mặt trời thì lạnh lẽo và xa xăm, như con mắt mờ đục của một xác chết.
Khuôn mặt của Balder tỏa sáng như mặt trời: chàng đẹp đến nỗi chàng chiếu sáng cho bất kỳ nơi nào chàng bước vào. Balder là con trai thứ hai của Odin, và chàng rất được yêu quý bởi cha mình cũng như vạn vật khác. Chàng là người thông thái nhất, hiền từ nhất và giỏi hùng biện nhất trong số các thần tộc Aesir. Chàng thường đưa ra những lời phán quyết, và ai cũng phải khâm phục sự thông thái và vẻ đẹp của chàng. Nơi chàng ở, cung điện có tên là Breidablik, là một nơi đầy vui tươi, âm nhạc và kiến thức.
Vợ của Balder là Nanna, chàng yêu nàng và chỉ mình nàng mà thôi. Con trai họ, Forsete, cũng sẽ lớn lên thành người thông thái không kém gì cha mình. Không có gì là không ổn trong cuộc sống hay thế giới của Balder, ngoại trừ một điều duy nhất.
Balder gặp ác mộng.
Chàng mơ rằng các thế giới đã đến ngày tàn, rằng mặt trời và mặt trăng bị một con sói ăn mất. Chàng mơ về nỗi đau và cái chết vô tận. Chàng mơ về bóng tối, về việc bị mắc kẹt. Anh em giết lẫn nhau trong giấc mơ của chàng, và không ai tin tưởng nhau nữa. Trong giấc mơ của chàng, một thời đại mới sẽ đến, một thời đại đầy bão tố và giết chóc. Balder thường thức giấc sau những cơn ác mộng này mà nước mắt tràn trề, vô cùng sầu não.
Balder đến gặp các thần và kể cho họ nghe về những cơn ác mộng của mình. Không ai trong số họ biết lý giải các giấc mơ này ra sao, và họ cũng lo lắng, tất cả trừ một người.
Khi Loki nghe Balder kể về những cơn ác mộng của chàng, y mỉm cười.
Odin lên đường tìm nguyên nhân cho những con ác mộng của con trai mình. Ngài khoác chiếc áo choàng xám và đội chiếc mũ rộng vành lên, và khi được hỏi tên, ngài nói mình là Lữ Hành, con của Chiến Binh. Không ai có câu trả lời cho những câu hỏi của ngài, nhưng họ nói với ngài về một nhà tiên tri, một phụ nữ thông thái có thể hiểu được mọi giấc mơ. Lẽ ra bà ta đã có thể giúp được ngài, họ nói, nhưng bà ta chết đã lâu rồi.
Ngôi mộ của người phụ nữ thông thái đó nằm ở tận cùng thế giới. Phía sau nó, ở đằng Đông, là vùng đất của những người đã chết mà không do hy sinh trong chiến trận, vùng đất được cai quản bởi Hel, con gái của Loki với người phụ nữ khổng lồ Angrboda.
Odin đi về phía Đông, và ngài dừng bước khi đến trước ngôi mộ.
Cha tối cao là vị thần tộc Aesir thông thái nhất, và ngài đã hy sinh con mắt của mình để được thông thái hơn nữa.
Ngài đứng trước ngôi mộ ở tận cùng thế giới, và ở đó ngài triệu đến những cổ tự đen tối cùng những quyền năng cổ xưa đã bị quên lãng từ lâu. Ngài đốt và đọc thần chú, rồi ngài phù phép và khẩn cầu. Gió bão quật vào mặt ngài, rồi gió lặng và một người phụ nữ hiện ra trước ngài ở phía bên kia đống lửa, mặt chìm trong bóng tối.
“Chặng đường trở về từ vùng đất của người chết rất vất vả,” bà ta nói với ngài. “Ta được chôn ở đây từ rất lâu rồi. Mưa và tuyết đã rơi xuống mình ta. Ta không quen ngài, hỡi người-đã-vời-ta-đến. Tên ngài là gì?”
“Ta là Lữ Hành,” Odin nói. “Cha ta là Chiến Binh. Hãy cho ta biết tin tức từ Hel.”
Nhà tiên tri đã chết nhìn ngài chằm chằm. “Balder sắp đến với chúng ta,” bà ta nói. “Chúng ta đang nấu rượu để chờ chàng. Ở dương thế sẽ có cảnh điêu tàn, nhưng dưới âm gian chúng ta sẽ ăn mừng.”
Odin hỏi bà ta ai sẽ giết Balder, và câu trả lời của bà ta khiến ngài sững sờ. Ngài hỏi ai sẽ trả thù cho cái chết của Balder, và câu trả lời của bà ta khiến ngài bối rối.
Ngài hỏi ai sẽ khóc than Balder, và bà ta nhìn ngài chằm chằm từ phía bên kia ngôi mộ của chính mình, như thể mới nhìn thấy ngài lần đầu tiên.
“Ngài không phải là Lữ Hành,” bà ta nói. Cặp mắt đã chết của bà ta long lanh, và mặt bà ta bỗng đầy biểu cảm. “Ngài là Odin, người đã tự hiến tế bản thân cho chính mình cách đây rất lâu.”
“Và ngươi không phải nhà tiên tri nào hết. Trước kia ngươi chính là Angrboda, người tình của Loki, mẹ của Hel, của Jormungundr, con mãng xà Midgard, và của Sói Fenrir,” Odin nói.
Người phụ nữ khổng lồ đã chết mỉm cười. “Về nhà đi, Odin bé nhỏ,” bà ta nói. “Chạy nhanh đi, chạy về đại sảnh của ngài đi. Giờ sẽ không còn ai đến tìm ta nữa cho tới khi chồng ta, Loki, thoát khỏi xiềng xích và trở về với ta, và Ragnarok, tận thế của các thần, tàn phá tất cả, đã đến.”
Và rồi ở nơi ấy chẳng còn lại gì ngoài bóng tối.
Odin ra về với trái tim trĩu nặng và tâm trí rối bời. Ngay cả các thần cũng không thể thay đổi được định mệnh, nếu ngài muốn cứu Balder, ngài sẽ phải hết sức khôn khéo, và ngài sẽ cần sự giúp đỡ. Còn một điều nữa mà hồn ma của người phụ nữ khổng lồ kia đã nói khiến ngài băn khoăn.
Tại sao bà ta lại nói về việc Loki thoát khỏi xiềng xích? Odin tự hỏi. Loki đâu có bị xiềng. Rồi ngài nhủ thầm, Chưa đấy thôi.
IIOdin giữ kín những suy nghĩ của mình, nhưng ngài kể với Frigg, vợ của mình, mẹ của các thần, rằng những giấc mơ của Balder là sự thật, và rằng có những kẻ muốn làm hại người con trai họ yêu quý nhất.
Frigg ngẫm nghĩ. Vốn luôn thực tế, bà nói, “Thiếp không thể tin được chuyện đó. Thiếp sẽ không tin chuyện đó. Không có gì căm ghét mặt trời và hơi ấm cùng sự sống nó đem tới cho mặt đất, và cũng vì vậy, không có gì có thể căm ghét con trai Balder đẹp đẽ của thiếp.” Và bà lên đường để đảm bảo chuyện này sẽ không xảy ra.
Bà đi khắp thế gian và bắt tất cả những vật mình gặp trên đường phải thề sẽ không bao giờ làm hại Balder đẹp đẽ. Bà nói với lửa, và lửa hứa sẽ không bao giờ đốt chàng; nước thề sẽ không bao giờ dìm chết chàng; sắt sẽ không đâm vào chàng, và các thứ kim loại khác cũng vậy. Đá hứa sẽ không bao giờ làm da chàng bầm giập. Frigg nói với các loài cây cỏ và muông thú, với chim và với vạn vật biết bò, biết bay, biết trườn, và sinh vật nào cũng hứa rằng giống loài của chúng sẽ không làm hại Balder. Các loài cây cũng đồng tình, từ cây sồi đến cây tần bì, từ cây thông đến cây dẻ, từ cây bu lô đến cây linh sam, rằng gỗ của chúng sẽ không bao giờ có thể được dùng để làm hại Balder. Bà gọi tên cả các loại bệnh và nói với chúng, và mỗi thứ bệnh tật có thể làm đau hoặc làm hại người đều hứa là nó cũng sẽ không chạm tới Balder.
Không có thứ gì quá tầm thường đến mức Frigg không buồn hỏi, ngoại trừ cây tầm gửi, một thứ cây bò lan sống nhờ trên thân các cây khác. Nó có vẻ quá nhỏ, quá non, quá vô nghĩa, nên bà bỏ qua nó.
Và khi mọi thứ đã thề là sẽ không làm hại con trai bà, Frigg trở về Asgard. “Balder đã được an toàn,” bà nói với các thần Aesir. “Không gì có thể làm hại nó.”
Tất cả bọn họ đều nghi ngờ bà, kể cả Balder. Frigg liền nhặt lên một viên đá và ném nó về phía con trai mình. Viên đá nẩy ra bên cạnh chàng.
Balder thích thú cười to, và tất cả thấy như mặt trời vừa tỏa nắng. Các thần mỉm cười. Và rồi từng người một, họ ném vũ khí của mình vào Balder, để rồi ai nấy đều sững sờ kinh ngạc. Gươm không chạm được vào chàng, giáo không xuyên qua được da thịt chàng.
Các thần đều nhẹ nhõm và sung sướng. Chỉ có hai khuôn mặt ở Asgard là không rạng rỡ vì vui mừng.
Loki không cười mỉm cũng không cười to. Y quan sát các thần dùng gươm và dùng rìu chém Balder, thả những hòn đá to tướng lên đầu Balder, hoặc cố đánh Balder bằng những cái chùy gỗ đầy máu, rồi cười phá lên khi các thứ chùy, gươm, đá và rìu đều tránh Balder hoặc chạm vào chàng nhẹ nhàng như lông hồng, và lầm lì lùi vào bóng tối.
Người kia là anh trai của Balder, Hod, vị thần mù.
“Có chuyện gì thế?” Hod mù hỏi. “Ai đó cho tôi biết đang có chuyện gì được không?” Nhưng chẳng ai nói chuyện với Hod. Chàng lắng nghe những tiếng cười đùa vui vẻ quanh mình và ước mình có thể tham gia.
“Hẳn bà tự hào về con trai mình lắm,” một người phụ nữ hiền hậu nói với Frigg. Frigg không nhận ra người phụ nữ đó, nhưng người phụ nữ đó mỉm cười khi bà ta nhìn Balder, và Frigg quả là rất tự hào về con trai mình. Ai cũng yêu quý chàng. “Nhưng liệu họ có làm đau chàng không, chàng trai tội nghiệp ấy? Khi họ ném các thứ vào chàng như vậy? Nếu tôi là mẹ chàng thì tôi sẽ lo cho con trai mình lắm.”
“Họ sẽ không làm nó đau đâu,” Frigg nói. “Không thứ vũ khí nào có thể làm hại Balder. Không thứ bệnh tật nào. Không hòn đá nào. Không cái cây nào. Ta đã bắt vạn vật phải thề, tất cả những vật có thể gây hại.”
“Tốt quá,” người phụ nữ hiền hậu kia nói. “Tôi rất mừng. Nhưng bà chắc mình không bỏ sót thứ gì đấy chứ?”
“Không gì cả,” Frigg nói. “Mọi cái cây. Thứ duy nhất ta không buồn hỏi là cây tầm gửi - nó là cây bò lan mọc trên thân cây sồi phía Tây Valhalla. Nhưng nó quá non và quá nhỏ để có thể gây hại. Ai có thể làm ra một cái chùy từ cây tầm gửi kia chứ.”
“Chà, chà,” người phụ nữ hiền hậu nói. “Cây tầm gửi hả? Chà, nói thật, nếu là tôi thì tôi cũng chẳng buồn hỏi nó đâu. Nó yếu ớt thế kia mà.”
Người phụ nữ hiền hậu đã bắt đầu khiến Frigg nhớ tới một ai đó, nhưng vị nữ thần chưa kịp nghĩ ra đó là ai thì Tyr đã nhấc lên một tảng đá khổng lồ bằng bàn tay bên trái còn lành lặn, giơ cao nó trên đầu, rồi đập mạnh vào ngực Balder. Tảng đá nát vụn ra như cám trước khi nó kịp chạm vào vị thần rực sáng.
Khi Frigg quay lại nói chuyện tiếp với người phụ nữ hiền hậu kia thì bà ta đã biến mất, và Frigg không nghĩ tới bà ta nữa. Khi ấy thì không.
Loki, trong hình thù của chính mình, đi về phía Tây Valhalla. Y dừng lại bên một cây sồi lớn. Đây đó những cụm lá tầm gửi và những chùm quả trắng treo lơ lửng từ trên thân sồi rủ xuống, nhìn càng có vẻ tầm thường khi đặt cạnh những cây sồi hùng vĩ. Chúng mọc thẳng vào vỏ sồi. Loki xem kỹ những chùm quả, cành và lá tầm gửi. Y nghĩ đến chuyện đầu độc Balder bằng quả tầm gửi, nhưng như thế có vẻ đơn giản và dễ dàng quá.
Nếu y định làm hại Balder, y sẽ khiến càng nhiều người đau đớn càng tốt.
IIIHod mù đứng sang một bên, lắng nghe tiếng cười đùa và những tiếng hò reo vui vẻ cũng như kinh ngạc phát ra từ bãi cỏ, và chàng thở dài. Hod rất khỏe, mặc dù chàng bị mù, một trong những vị thần khỏe nhất, và thường thì Balder luôn đảm bảo là Hod cũng được tham gia vào mọi việc. Nhưng lần này thì cả Balder cũng đã quên mất chàng.
“Trông anh có vẻ buồn quá nhỉ,” một giọng nói quen thuộc vang lên. Đó là giọng của Loki.
“Thật là khổ tâm, Loki ạ. Ai cũng đang vui vẻ. Tôi nghe thấy tiếng họ cười đùa. Và cả Balder, người em trai thân thiết của tôi, cũng đang có vẻ rất vui. Tôi chỉ ước gì mình có thể tham gia cùng họ.”
“Việc đó dễ thôi mà,” Loki nói. Hod không nhìn được vẻ mặt y, nhưng giọng Loki nghe đầy sốt sắng và thân thiện. Và các thần đều biết Loki rất khôn khéo. “Chìa tay ra.”
Hod làm theo. Loki đặt một thứ vào tay chàng và gập những ngón tay của Hod lại quanh vật đó.
“Đây là một cái phi tiêu nhỏ bằng gỗ mà tôi đã làm. Tôi sẽ dẫn anh đến gần Balder và chỉ anh đến đúng chỗ chú ấy, rồi anh hãy ném cái phi tiêu vào chú ta mạnh hết sức có thể. Lấy hết sức mà ném. Và rồi tất cả các thần sẽ cười và Balder sẽ biết là người anh trai mù cũng đã dự phần vào ngày vinh quang của mình.”
Loki dẫn Hod đi qua vòng người, về phía tiếng ồn ào. “Đây,” Loki nói. “Đứng chỗ này là được đấy. Giờ, khi tôi ra hiệu, hãy ném cái phi tiêu nhé.”
“Nó chỉ là một cái phi tiêu nhỏ xíu,” Hod tiếc nuối nói. “Tôi ước gì mình đang ném một ngọn giáo hay một tảng đá.”
“Một cái phi tiêu nhỏ là đủ rồi,” Loki nói. “Mũi nó cũng khá sắc mà. Giờ thì hãy ném nó về đằng kia, như tôi đã dặn ấy.”
Một tiếng hò reo và một tiếng cười lớn vang lên: một cái chùy làm bằng gỗ cây gai cắm đầy đinh sắt nhọn vừa được Thor ném vào mặt Balder. Vào khoảnh khắc cuối cùng, cái chùy nẩy lên bay quá đầu chàng, và nhìn Thor như đang nhảy múa. Trông thật là tức cười.
“Ném đi!” Loki thì thầm. “Ném ngay, trong lúc họ đang mải cười.”
Hod ném cái phi tiêu bằng cành tầm gửi, đúng như chàng đã được dặn. Chàng chờ đợi tiếng hò reo và tiếng cười. Không ai cười, cũng không ai hò reo cả. Chỉ có sự im lặng. Rồi chàng nghe thấy những tiếng kêu khẽ, và một tiếng rì rầm.
“Sao không ai hoan hô tôi cả?” Hod mù hỏi. “Tôi vừa ném một cái phi tiêu. Nó không to cũng không nặng, nhưng hẳn các vị phải nhìn thấy nó chứ. Balder, em trai của anh, sao em không cười?”
Khi ấy chàng bỗng nghe thấy một tiếng thét, một tiếng thét chói tai, ai oán và khủng khiếp, và chàng nhận ra giọng người đó. Chính là mẹ chàng vừa thét lên.
“Balder, con trai ta. Ôi Balder, ôi con trai ta,” bà khóc.
Khi đó Hod biết là cái phi tiêu của chàng đã phóng trúng đích.
“Thật kinh khủng làm sao. Thật đáng buồn làm sao. Anh đã giết chết em trai mình rồi,” Loki nói. Nhưng giọng y chẳng có vẻ gì là buồn. Giọng y không hề buồn bã chút nào.
IVBalder đã chết, bị đâm bởi cái phi tiêu bằng cành tầm gửi. Các thần xúm lại, khóc lóc và xé quần áo. Odin không nói gì, ngoại trừ, “Hod sẽ không phải chịu sự phục thù nào. Chưa đến lúc. Bây giờ thì chưa. Lúc này thì chưa. Chúng ta đang ở một nơi thanh tĩnh thiêng liêng.”
Frigg nói, “Ai trong số các ngươi muốn được hưởng đặc ân của ta bằng cách đi gặp Hel? Có lẽ cô ta sẽ cho phép Balder trở về thế giới này. Ngay cả Hel cũng không thể tàn nhẫn đến mức muốn giữ nó…” Bà ngẫm nghĩ một lát. Dù sao thì Hel cũng là con gái của Loki. “Và chúng ta sẽ thỏa thuận để đổi lấy Balder. Có ai trong số các ngươi sẵn lòng tới vương quốc của Hel không? Kẻ đó có thể sẽ không trở về nữa.”
Các thần nhìn nhau. Rồi một người trong số họ giơ tay lên. Đó là Hermod, còn gọi là Nhanh Nhẹn, người hầu của Odin, người nhanh nhất và gan dạ nhất trong số các vị thần trẻ.
“Thần sẽ tới gặp Hel,” chàng nói. “Thần sẽ đưa Balder đẹp đẽ trở về.”
Họ dẫn Sleipnir tới, đó là con chiến mã tám chân của Odin. Hermod trèo lên lưng nó và lên đường xuống lòng đất, sâu tít bên dưới, để gặp Hel ở đại sảnh cao vút của nàng, nơi chỉ người chết đến được.
Trong khi Hermod cưỡi ngựa đi vào bóng tối thì các thần chuẩn bị đám tang cho Balder. Họ đặt xác chàng lên Hringhorn, con thuyền của Balder. Họ muốn hạ thủy con thuyền rồi châm lửa đốt, nhưng họ không thể đẩy nó xuống khỏi bờ cát. Tất cả họ cùng kéo và đẩy, kể cả Thor, nhưng con thuyền vẫn nằm trơ trơ trên bờ cát, không nhúc nhích. Chỉ có Balder là có thể hạ thủy con thuyền của chàng, và giờ chàng đã không còn nữa.
Các thần cho gọi bà khổng lồ Hyrrokkin, và bà ta đến, cưỡi trên lưng một con sói đại tướng, cương làm bằng hai con mãng xà. Bà ta đến trước mũi thuyền của Balder rồi vận hết sức đẩy mạnh: bà ta hạ thủy được con thuyền, nhưng cú đẩy của bà ta mạnh đến nỗi những con lăn dùng để đẩy thuyền bốc cháy, mặt đất rung chuyển và sóng dâng cao dữ dội.
“Tôi nên giết quách bà ta đi,” Thor nói, vẫn cay cú vì chính chàng đã không thể hạ thủy con thuyền, và chàng nắm chặt cán Mjollnir, chiếc búa của mình. “Bà ta đã tỏ ra bất kính.”
“Anh không được làm thế,” các thần khác nói.
“Tôi chẳng thích thú gì chuyện này,” Thor nói. “Tôi sẽ phải sớm giết ai đó cho đỡ căng thẳng. Rồi các vị xem.”
Thi thể của Balder được rước xuống bờ đá cuội, đỡ bởi bốn vị thần; bốn đôi chân rước chàng qua đám đông đang đứng đó. Odin đứng đầu đoàn người đưa tang, hai con quạ đậu trên vai, còn sau lưng ngài là các nàng Valkyrie và các thần tộc Aesir. Ở đám tang của Balder có người khổng lồ băng và người khổng lồ núi; thậm chí có cả người lùn, những người thợ thủ công khéo tay sống sâu dưới lòng đất, vì vạn vật trên đời đều khóc thương cái chết của Balder.
Vợ của Balder, Nanna, thấy thi thể chồng mình được rước qua. Nàng khóc thét lên, và trái tim nàng ngừng đập trong lồng ngực, rồi nàng gục xuống chết bên bờ biển. Họ đưa nàng đến giàn hỏa thiêu, và họ đặt thi thể nàng bên cạnh Balder. Để tỏ lòng thương kính, Odin đặt chiếc vòng Draupnir của ngài lên giàn thiêu; đây là chiếc vòng kỳ diệu được làm cho ngài bởi hai người lùn Brokk và Eitri, mà cứ chín ngày thì lại sinh ra tám chiếc vòng khác cũng hoàn hảo và đẹp không kém. Rồi Odin thì thầm một bí mật vào đôi tai đã chết của Balder, và điều Odin thì thầm thì không còn ai khác biết ngoài ngài và Balder.
Con tuấn mã của Balder, thắng yên cương đầy đủ, được dẫn đến bên giàn thiêu và hiến tế ngay tại đó, để nó có thể chở chủ nhân của mình ở thế giới bên kia.
Họ châm lửa cho giàn thiêu. Nó cháy bùng lên, nuốt chửng thi thể Balder và Nanna, cùng con ngựa và mọi của cải của chàng.
Thi thể của Balder cháy rực như mặt trời.
Thor đứng trước giàn hỏa thiêu và giơ cao Mjollnir lên đầu. “Ta tuyên bố giàn thiêu này là thiêng liêng,” chàng hô lớn trong lúc ném những cái nhìn bực dọc về phía bà khổng lồ Hyrrokkin, vì chàng cảm thấy là bà ta vẫn chưa tỏ ra tôn kinh đúng mực.
Lit, một người lùn, đi ra trước mặt Thor để nhìn giàn thiêu cho rõ hơn, và Thor liền tức tối đá thẳng anh ta vào giữa đống lửa, khiến Thor cảm thấy khá hơn chút đỉnh, còn những người lùn thì thấy tệ đi nhiều.
“Ta không thích việc này,” Thor cáu kỉnh nói. “Ta không thích việc này một chút nào. Ta mong Hermod Nhanh Nhẹn đang giải quyết mọi việc với Hel. Balder càng sớm sống lại chừng nào thì càng tốt cho chúng ta chừng ấy.”
VHermod Nhanh Nhẹn cưỡi ngựa suốt chín ngày chín đêm không nghỉ. Chàng cưỡi ngựa xuống sâu hơn và cưỡi ngựa qua màn đêm mỗi lúc một dày đặc: từ chỗ lờ mờ sáng đến chỗ tranh tối tranh sáng đến một vùng bóng tối như mực không trăng sao. Trong bóng tối, thứ duy nhất chàng thấy được là một vật gì đó vàng ánh lấp lánh ở đằng xa.
Chàng cưỡi ngựa tới gần hơn, và ánh sáng đó rực rỡ hơn. Đó là vàng tỏa ra từ mái tranh của cây cầu bắc qua sông Gjaller, con sông mà mọi người chết đều phải đi qua.
Chàng ghìm cương cho Sleipnir đi chậm lại trong khi họ đi qua cầu, cây cầu liên tục lắc lư và chao đảo dưới chân họ.
“Tên ngươi là gì?” một giọng phụ nữ vang lên hỏi.
“Gia đình ngươi là ai? Ngươi làm gì ở vùng đất của người chết?”
Hermod không nói gì.
Chàng đi đến đầu bên kia cầu, nơi một thiếu nữ đang đứng. Nàng tái xanh và rất xinh đẹp, và nàng nhìn chàng như thể nàng chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy. Tên nàng là Modgud, và nàng là người canh gác cây cầu.
“Hôm qua số người chết đông bằng dân chúng của năm vương quốc đã đi qua cầu, vậy mà chỉ một mình ngươi cũng khiến nó chao đảo hơn tất cả bọn họ, mặc dù họ đông người và ngựa không đếm xuể. Ta có thể thấy máu đỏ dưới da ngươi. Ngươi không có màu của người chết - họ chỉ toàn những màu xám, xanh, trắng và tím. Bên dưới da ngươi vẫn còn sức sống. Ngươi là ai? Tại sao ngươi lại đến Hel?”
“Ta là Hermod,” chàng trả lời. “Ta là con trai của Odin, và ta đến Hel trên lưng con ngựa của Odin để tìm Balder. Ngươi có nhìn thấy chàng không?”
“Không ai nhìn thấy chàng có thể quên được,” nàng đáp. “Balder đẹp đẽ đã đi qua cây cầu này cách đây chín ngày. Chàng đã đến đại sảnh của Hel.”
“Xin cảm ơn,” Hermod nói. “Ta cũng phải đến đó.”
“Đường đến đó ở phía dưới và hướng về phương Bắc,” nàng nói. “Cứ tiếp tục đi xuống và đi về phương Bắc. Ngươi sẽ đến được cánh cổng của Hel.”
Hermod đi tiếp. Chàng cưỡi ngựa về phương Bắc, và men theo lối mòn đi xuống sâu hơn nữa, cho tới khi chàng thấy vươn lên trước mặt mình là một bức tường cao khổng lồ và cánh cổng dẫn tới Hel, cao hơn cả những cái cây cao nhất. Chàng xuống ngựa siết chặt sợi đai yên lại. Sau đó chàng lại lên ngựa, rồi, bám chặt vào yên, chàng thúc Sleipnir phi mỗi lúc một nhanh hơn, đến cuối cùng nó lao vút lên, một cú nhảy mà chưa con ngựa nào làm được trước đó cũng như từ đó về sau, và nó nhảy qua cánh cổng của Hel rồi đáp xuống an toàn ở phía bên kia, trong vương quốc của Hel, nơi không người sống nào đến được.
Hermod cưỡi ngựa tới đại sảnh của người chết, xuống ngựa, rồi đi vào trong. Balder, em trai chàng, đang ngồi ở đầu bàn, tại vị trí danh dự. Balder tái xanh; da chàng có màu như thế gian vào một ngày xám xịt, khi không có mặt trời. Chàng ngồi đó, uống rượu mật của Hel và ăn thức ăn của nàng. Khi nhìn thấy Hermod, chàng liền bảo Hermod đến ngồi cạnh mình và ăn cùng bàn với họ. Phía bên kia của Balder là vợ chàng, Nanna, và bên cạnh nàng, không lấy gì làm vui vẻ cho lắm, là một người lùn tên Lit.
Ở thế giới của Hel, mặt trời không bao giờ mọc và ngày không bao giờ có thể bắt đầu.
Hermod nhìn sang bên kia đại sảnh, và chàng thấy một người phụ nữ có vẻ đẹp kỳ lạ. Bên phải cơ thể nàng có màu da thịt bình thường, trong khi bên trái lại đen sì và thối rữa, như một cái xác đã chết một tuần mà ta có thể thấy treo lơ lửng trên cây trong rừng hoặc đóng băng trong tuyết, và Hermod biết đây chính là Hel, con gái của Loki, người mà vị Cha tối cao đã giao cho cai quản vùng đất của người chết.
“Tôi đến vì Balder,” Hermod nói với Hel. “Chính Odin đã cử tôi đi. Vạn vật trên thế gian đều khóc thương chàng. Hãy trả lại chàng cho chúng tôi.”
Hel dửng dưng. Một con mắt màu lục nhìn thẳng vào Hermod, còn con mắt kia thì trũng xuống, đờ đẫn. “Ta là Hel,” nàng nói cộc lốc. “Người chết đến với ta, và họ sẽ không thể trở về dương gian được nữa. Tại sao ta lại phải thả Balder ra?”
“Tất thảy đều khóc thương chàng. Cái chết của chàng đã gắn kết chúng tôi trong nỗi đau chung, từ thần tới người khổng lồ băng, từ người lùn tới tiên. Động vật và cỏ cây cũng khóc thương chàng. Kể cả sắt đá cũng phải nhỏ lệ. Những viên sỏi mơ rằng Balder dũng cảm sẽ được trở về với thế giới có mặt trời. Hãy thả chàng ra.”
Hel không nói gì. Nàng nhìn Balder bằng cặp mắt cọc lệch. Và rồi nàng thở dài. “Chàng là thứ đẹp đẽ nhất, và ta nghĩ là tuyệt vời nhất, từng đến vương quốc của ta. Nhưng nếu đúng như ngươi nói, nếu vạn vật đều khóc thương Balder, nếu vạn vật đều yêu quý chàng, thì ta sẽ trả chàng lại cho các vị.”
Hermod phủ phục xuống chân nàng. “Nàng thật là cao quý. Xin cảm ơn nàng! Xin cảm ơn nàng, hỡi nữ hoàng vĩ đại!”
Nàng nhìn xuống chàng. “Đứng lên,” nàng nói.
“Ta chưa nói là ta sẽ trả lại chàng. Đây là nhiệm vụ của ngươi, Hermod. Hãy hỏi họ. Hỏi các thần và người khổng lồ, hỏi từng hòn đá và từng cái cây. Hãy hỏi tất cả. Nếu mọi vật trên dương gian đều khóc thương chàng và muốn chàng trở về, thì ta sẽ trả chàng về với tộc Aesir và dương thế. Nhưng nếu chỉ một sinh vật không chịu khóc hay có lời chỉ trích chàng, thì chàng sẽ phải ở lại với ta vĩnh viễn.”
Hermod đứng dậy. Balder dẫn chàng ra khỏi đại sảnh, và chàng đưa cho Hermod chiếc vòng Draupnir của Odin, để làm bằng chứng là Hermod đã đến Hel. Nanna trao cho chàng một chiếc áo vải lanh để cho Frigg và một chiếc nhẫn vàng cho Fulla, người hầu gái của Frigg. Lit thì chỉ nhăn nhó và làm những cử chỉ cục súc.
Hermod lại trèo lên lưng Sleipnir. Lần này cánh cổng của Hel rộng mở cho chàng ra đi, và chàng lần lại bước chân của mình. Chàng đi qua cầu, và cuối cùng chàng lại được thấy ánh sáng ban ngày.
Ở Asgard, Hermod trao trả chiếc vòng Draupnir cho Odin, Cha tối cao, và kể cho ngài nghe những gì đã xảy ra và những điều chàng đã thấy.
Trong khi Hermod ở âm gian, Odin đã có một người con trai khác để thay thế Balder; người con trai này, tên Vali, là con của Odin với nữ thần Rind. Khi chưa được một ngày tuổi, vị tiểu thần đã tìm Hod và giết chết chàng. Vậy là cái chết của Balder đã được báo thù.
VICác thần tộc Aesir cử sứ giả đi khắp thế gian. Các sứ giả của tộc Aesir cưỡi ngựa đi nhanh như gió, và họ yêu cầu tất cả những vật họ gặp hãy khóc thương Balder, để Balder có thể được giải thoát khỏi thế giới của Hel. Phụ nữ khóc, đàn ông khóc, cả trẻ em và động vật nữa. Chim trên trời khóc cho Balder, cả mặt đất, cây cối và đá sỏi cũng vậy - thậm chí cả những thứ kim loại mà các sứ giả gặp cũng khóc thương Balder, như một thanh gươm sắt lạnh thường nhỏ lệ khi ta đem nó từ nơi băng giá ra ngoài ánh mặt trời và hơi ấm.
Mọi vật đều khóc thương Balder.
Các sứ giả đắc thắng và vui sướng trở về sau khi hoàn thành sứ mệnh. Balder sẽ sớm quay lại với các thần tộc Aesir.
Họ ngồi nghỉ trên một ngọn núi, trên một gờ đá bên cạnh một cái hang, rồi họ cười đùa, ăn thức ăn và uống rượu mật.
“Ai đó?” một giọng nói từ trong hang vang lên, và một mụ khổng lồ già bước ra. Mụ ta có vẻ gì đó quen quen, nhưng các sứ giả không dám chắc vẻ quen quen đó là gì. “Ta là Thokk,” mụ ta nói, cái tên có nghĩa là “biết ơn”. “Các vị làm gì ở đây?”
“Chúng ta đã yêu cầu vạn vật trên đời khóc thương cho Balder đã chết. Balder đẹp đẽ đã bị giết bởi người anh trai mù của mình. Vì ai nấy đều nhớ Balder như nhớ mặt trời, nếu có khi nào mặt trời không bao giờ tỏa sáng nữa. Và mỗi người trong chúng ta đều khóc thương chàng.”
Mụ già khổng lồ gãi mũi, hắng giọng, rồi nhổ toẹt xuống nền đá.
“Mụ Thokk già này sẽ không khóc thương Balder,” mụ nói thẳng thừng. “Sống hay chết thì con trai của lão Odin đó cũng chẳng đem lại cho ta điều gì ngoài khổ sở và tức tối. Ta mừng là hắn đã chết. Rác rưởi như thế thì chết đi cho rảnh mắt. Cứ để Hel giữ hắn.”
Rồi mụ lê bước vào bóng tối trong hang và biến mất.
Các sứ giả trở về Asgard và kể cho các thần những điều họ thấy rồi nói rằng họ đã thất bại, vì có một sinh vật không chịu khóc thương Balder và không muốn chàng trở về: một mụ khổng lồ già sống ở một cái hang trên núi.
Và đến lúc đó họ mới nhận ra mụ Thokk già đó khiến họ nhớ tới ai: điệu bộ và cách nói của mụ giống hệt Loki, con trai của Laufey.
“Ta đoán đó chính là do Loki giả dạng,” Thor nói. “Tất nhiên đó là Loki. Lúc nào cũng là Loki.”
Thor nhấc chiếc búa Mjollnir của chàng lên và tập hợp một nhóm các thần để đi săn lùng Loki và trả thù, nhưng kẻ gây rối xảo quyệt đó đã biến mất. Y đang trốn ở một nơi xa Asgard, tự đắc vì sự ranh mãnh của mình và đợi cho mọi chuyện lắng xuống.