Phần III - 6 -
Ả Sieng nhồi thuốc súng vào lòng khẩu súng kép, rồi cầm một hòn chì giơ lên:
– Chì phải đánh thật tròn như thế này thì nó mới đi xa, xa mới thắng. Hòn này, cậu tính trúng người thì phải biết: tan xương. Cậu nên nhớ nhồi súng tuy phải rất nhanh, nhưng cũng phải rất cẩn thận, bởi mạng người quan hệ ở đấy. Nhồi thuốc súng xong, phải nhét vỏ dừa vào, vỏ dừa phải chọn những thứ vừa nhỏ vừa tơ như thế này này. Cho vỏ dừa vào xong rồi, phải tọng cho thật chặt, nhưng cũng không được chặt lắm. Chặt lắm có khi nó tức vỡ lòng súng mất tay, mà lỏng quá thì đạn không đi xa. Tọng tử-tế rồi, nhiên hạn mới cho đạn. Cho đạn rồi lại lấy vỏ dừa cho vào rồi tọng nữa.
Thằng Còm nhìn rất chăm chú:
– Nhưng làm thế nào cho nó nổ?
Ả Sieng huýt còi mồm:
– Ồ cậu nóng quá. Cậu chỉ muốn giá bây giờ bắn được ngay, bắn được chết nó ngay nhé. Phải từ từ mới được chứ.
Nó rút ở trong bọc một cái mồi diêm có cặp chì ra:
– Cái này sẽ làm nẩy lửa, lửa sẽ bắt vào thuốc súng, thuốc súng sẽ đẩy dạn đi.
Rồi tay đặt cái mồi vào lòng bàn tay tung lên, tung xuống.
– Cái thứ nhỏ tí thế này, mà sống chết ở trong ấy đấy. Mạng người ở trong ấy đấy. Nó ẩm, mổ cò mà không nổ thì có khi chết tươi. Phải giữ cho khô, cho thật khô. Cậu đả hiểu chưa? Đây này. Bắn phải thế này này, tì cái báng vào bả vai, cho thật chặt. Nhưng cũng không được chặt lắm. Chặt cứng nhăng nhắc thì lúc nổ, súng bật đi, đạn sai đích. Phải chặt cái lối chặt mềm, cứng cái lối cứng dẻo, để cho khi đạn nổ, súng cũng không thấy chuyển. Bây giờ tôi nói đại cương cho cậu biết đấy thôi, sau này cậu nhớn lên, bắn được súng thì cậu hiểu dần. Đây này, tôi bắn cái mắt cây kia cho cậu xem.
Một tiếng đoàng khiến thằng Còm phải nhắm cả mắt mũi. Tà Soa thấy thế bảo ngay:
– Ồ, bắn súng mà nhắm mắt thế thì chết. Cậu nhớ, tuy cò cứa ở tay, tay cầm khẩu súng, nhưng cần nhất là con mắt. Con mắt không bao giờ được loạn. Phải rất tinh tường. Phải làm thế nào nhìn thấu được cái làn khói dầy đặc kia. Chớp mắt, là chết người đấy. Mạng mình, treo ở trên mi mình đấy.
Thằng Còm buồn rầu:
– Thì ông phải để cho tôi tập dần chứ.
– À thì tôi nói cho cậu biết thế. Bây giờ về nhà cậu phải làm thế này. Để tôi lấy một tí son bôi vào cái mâm đồng, rồi cứ trưa nắng cậu phải ra nhìn vào cái chấm son ấy! Không được lóe mắt. Luyện được thế rồi, lâu lâu cậu lại nhắm mắt quay đi, rồi quay lại, cậu phải mở mắt nhìn ngay cho trúng cái chấm son. Ông nhà xưa tập như thế đấy. Cho nên ông nhà xưa mới bắn được trăm phát trăm trúng. Cậu phải cố mới được.
– Thì bao giờ tôi không cố. Tôi chỉ sợ tôi không tài được như thầy tôi thôi.
– À, không tài, cũng phải tài.
Thằng Còm hiểu cái nghĩa nằm trong câu nói bề ngoài coi như vô-lý ấy.
– Thì tôi biết rồi. Tôi cứ cố hết sức thì thôi. Nào lại xem xem nó bắn có trúng không nào.
Lại xem thì Ả Sieng bắn chệch tới một gang. Tà Soa lắc đầu:
– Mày thì làm trò trống gì được. Đấy cậu xem, nó bắn trong mười năm nay mà còn thế đấy. Sự bắn súng có phải là dễ đâu.
Thằng Còm nhìn chiếc cung của mình:
– Giá bắn súng mà cũng như bắn cung được nhỉ.
Đến lượt ông già Soa hiểu cái nghĩa thất vọng, và nỗi lo sợ nằm trong câu ấy.
– À, bắn cung giỏi thì rồi bắn súng cũng giỏi. Cậu cứ yên tâm. Với lại cậu là con ông thì hẳn là phải hơn thằng Sieng chứ! Thôi, biểu diễn cho cậu xem qua thế thôi. Bây giờ cũng chưa ích gì. Cậu muốn chúng tôi đưa đến xem chỗ ông bị bắn thì đi.
Ba người, gần trưa thì tới Ô Sugout. Đến nơi, là Ả Sieng òa khóc:
– Giời ơi, lúc nào có thầy có trò, mà bây giờ thầy đâu rồi. Ai ngờ thầy anh hùng như thế mà chết một cách đau xót như thế. Con mà không ăn được gan nó thì con không sống nữa đâu.
Thằng Còm lặng thinh, nhưng nhìn làn da tái mét của nó, ông già Soa biết rằng nó đau đớn lắm. Và nó phải cố gắng lắm mới không òa lên khóc. Ông đập vào lưng Ả Sieng:
– Đồ khỉ độc, mày làm cái trò gì thế. Mầy khóc mà chết được nó à.
Ả Sieng vỗ bụng:
– Nhưng mà tôi đau ở đây lắm.
Tà Soa lại búng vào râu:
– Đau thì cắt bố mày đi. Hôm ấy mầy không nổ vỡ được sọ nó ra, chạy như đồ chó, còn khóc cái gì!
– Nhưng mà chúng nó đông và giỏi lắm, tôi làm thế nào được.
Cái búng râu của Tà Soa lần này mạnh hơn cái trước.
– Cái cừ khôi là làm thế nào được chớ. Thôi, khóa cái mồm khỉ độc của mày lại, đầu đuôi thế nào, kể đi cho cậu nghe.
Ả Sieng vừa chùi nước mắt vừa mếu máo:
– Tối hôm ấy thì chúng tôi tải đồ đến đây. Ông nhà ngồi ở đây nhìn chúng tôi thổi cơm này này, rồi thì không biết chúng nó nấp ở đằng bụi kia từ bao giờ, ông đang hút Kanchha thì bị thằng Kmut nó bắn trúng lưng, có lẽ phát ấy suốt qua tim, nên ông nhà chẳng cựa cậy, chân nào tay ấy rục ngay xuống. Ối ông ơi là ông ơi.
Thằng Còm lúc ấy mới lên tiếng.
– Sao mày biết là thằng Kmut. Nhỡ thằng khác biết đâu.
Ả Sieng nói bằng một giọng quả quyết:
– Chính thằng Kmut. Tôi trông thấy nó sồ ra ngay lúc ấy kia mà. Với lại thằng khác thì bố bảo cũng không dám bắn ông, bởi nó biết bắn trượt thì thế nào cũng chết. Tay ông nhanh hơn móng hổ, nổ lại tắp lự được ngay.
Với lại sau khi chúng nó tản đi rồi chúng tôi lại khiêng xác ông, chúng tôi có lại xem chỗ chúng nó nấp, chỉ thấy có vết chân một người nấp vào cái bụi kia thôi.
Cái vết chân ấy đích là vết chân thằng Kmut, các quân nó còn ở đằng xa kia, đến khi thằng Kmut reo lên rằng đã bắn chết được ông thì quân nó mới dám lại kia mà.
Thằng Còm quay nhìn bụi cây:
– Thế hôm ấy nhà ta bao nhiêu người, bao nhiêu súng?
– Nhà ta… mười sáu người, năm tay súng không kể ông. Nhưng năm mười tay thì kể gì, một tay súng của ông thì bằng một trăm tay súng khác. Với lại còn cái thanh thế, cái oai của ông nữa chứ. Mất ông thì chúng con như rắn mất đầu, còn làm gì được. Với lại chúng nó cũng đông lắm.
– Chúng nó chừng độ bao nhiêu?
– Đến hơn mười tay súng ấy.
– Thế giá hôm ấy thầy tôi mà không bị đau thì thế nào?
– Thì còn thế nào nữa. Ông đánh tan ngay. Trước hết là ông giết chết thằng Kmut. Rồi thì chúng nó cũng tan đi như rắn không đầu. Đầu người thì kể gì, cậu tính, can hệ ở ông tướng ấy chứ. Có nhiều lần hàng ba bốn mươi tay súng nó đến đánh ông, ấy thế mà ông cứ dắt chúng tôi lủi lên lủi xuống, bắn chết dăm thằng là chúng nó tan. Ông còn sống thì có ai mà làm gì được. Ức là ức ở cái chỗ nó bắn lén ông đấy chứ.
Thằng Còm nghe nó kể xong, trầm-ngâm một lát rồi bước chậm chậm lại chỗ mà thầy nó đã bị giết xưa kia. Rồi từ từ nó ngồi bệt xuống khoanh tay che lấy mặt.
Ả Sieng và Tà Soa ràn rụa nước mắt đứng nhìn nó. Nó ngồi như thế lâu lắm. Chẳng nhúc nhích. Hình như đau đớn đã biến nó ra đá. Và hình như thần trí của nó đã bị cuốn hút vào cái dĩ-vãng đầy máu. Ả Sieng và ông già Soa nín thở, không dám cựa cậy trước cái cảnh bi-đát của đứa trẻ thương cha, nhìn nhau nghẹn ngào.
Thằng Còm ngồi như thế lâu, lâu lắm. Nhìn thấy bóng nắng đã đổ xuống ngọn cây, ông già Soa rón rén lại đặt bàn tay lên đầu nó:
– Thôi, cậu ơi, dậy về đi, không tối.
Thằng Còm loạng choạng đứng dậy, rồi nó lặng lẽ theo hai người. Suốt trên một con đuờng dài mười lăm cây số, nó không hé răng, mà hai người biết nó đau đớn lắm cũng không dám hỏi.
Mãi khi về gần tới chỗ bứt mây, nó mới ư ở trong cổ ra những tiếng rên như những tiếng rên của con lợn bị người ta chọc tiết, rồi quay đầu nhìn ông già Soa, nhìn ông một cái nhìn không thể tả.
Tà Soa òa khóc, chạy đến ôm chầm lấy nó:
– Thôi, cậu ơi!..