← Quay lại trang sách

Phần VI - 2 -

Chiếc nhà ấy là một chiếc nhà mới làm trên một khoảng rừng vừa chặt xong, hơi xa xóm làng một chút. Popok nhìn thấy cái vị-trí ấy, lòng mừng khấp khởi. Chàng tự nhủ: « Nó ở hẻo lánh như thế này, mình hạ-thủ không còn sợ ai can-thiệp nữa.»

Chàng bảo người đưa đất quay về rồi rảo cẳng bước về phía nhà Kmokmucth. Tà Soa vờ tập-tễnh theo sau. Popok thấy thế tủm-tỉm cười:

– Ông thật cũng lắm trò.

Nhưng gần đến nhà chàng vụt nghĩ ra:

– Ông đã biết mặt nó, thì hẳn là nó phải biết mặt ông, và nếu không thì nó cũng ngờ-ngợ.

Tà Soa vội nói ngay:

– Sáu bẩy năm nay rồi, bẩy tám năm nay rồi, con già nó không nhận được con nữa đâu. Con đi với ông bao nhiêu năm nay, con học được lắm cách thay hình đổi dạng. Không ai nhận ra con được.

Hai người vừa tới cổng, thì một con chó ở dưới sàn sồ ra. Popok tự nhủ: «Thế nào tối nay cũng phải giết con chó này trước mới được. »

Rồi vừa cầm một cành lá xua xua, chàng vừa để ý nhận xét chung quanh.

Cái nhà này cũng như trăm nghìn nhà sàn ở Cao-Mên chỉ có một cầu thang ở phía trước cửa đi lên. Và chung quanh chỉ có một bức hàng rào thưa bằng những thân cây lớn. Gà chó chui ra chui vào tha hồ. Người ta làm thế là chỉ đồ ngăn cho trâu bò không ra vào được thôi, chứ người chui qua chui lại rất dễ.

Thấy chủ cứ đăm đăm nhìn vào cái cầu thang, Tà Soa sẽ gãi lưng rồi bảo:

– Cậu nên nhớ, những nhà tay chơi như thế này, thế nào nó cũng có một cái cửa mở ở phía sau. Chứ cậu đừng thấy ván bao kín như thế mà cậu tưởng chỉ có một lối ra mà thôi đâu. Cậu nên cố nhận ra cái cửa hậu ấy, và cậu liệu chờ nó ở đấy. Bởi nếu động thì quyết nhiên là nó ra ở lối ấy đấy. Rồi nó rút ra rừng. Nếu cậu chờ được nó ở đấy, thì nó có lên giời cũng không thoát tay cậu.

Lúc ấy Popok mới nhận thấy rằng sự kinh-nghiệm của ông già Soa rất cần cho mình:

– Được rồi, để tôi để ý.

Hai người vừa lên tiếng gọi, thì ở trong nhà có một đứa bé con chạy ra.

– Cậu vào thưa với ông bà trong nhà, tôi là khách lỡ độ đường, hết cả gạo, ông bà làm ơn để cho một ít. Tôi xin giả tiền nong cẩn thận.

Thằng bé quay vào thì hai thầy trò liền đi theo ngay. Bỗng có tiếng ở trong nhà quát ra:

– Ai hỏi gì mà sồng-sộc vào nhà người ta thế?

Tà Soa đưa mắt cho chủ, rồi tiến lại phía cầu thang:

– Chúng tôi là khách bộ hành đi sang Aranya mua muối, chẳng may hết gạo. Xin các ngài để cho một ít.

Tiếng nói ở trên sang-sảng và gay-gắt:

– Không có gạo nước gì, đi đi.

Tà Soa tiến lên mấy bực thang:

– Thì các ngài làm ơn. Các ngài làm phúc thì Giời Phật lại giúp các ngài. Tôi thì tôi còn đi được nhưng chủ tôi kia thì đói lả mất rồi.

Popok nghe ông già Soa nói thế cũng tiến lên, rồi chàng đĩnh-đạc bước lên thang, rồi chàng lên hẳn trên sàn:

– Anh em bốn biển một nhà, các ngài hẹp gì với chúng tôi mấy lẻ gạo. Chúng tôi vừa lại đằng xóm kia hỏi mấy nhà, nhưng họ không có họ trỏ đến đây.

Cái phong-độ chững-chạc của chàng làm cho mấy người ngồi đấy nể, họ không đuổi xua-xủa nữa:

– Vâng thế để tôi vào xem hễ có thì để cho ông.

Liền lúc đó ở mé buồng đằng bên trái có một người lùn béo bước ra, hỏi một cách dõng-dạc:

– Cái gì, ai hỏi cái gì?

Không hiểu sao nghe cái tiếng nói ấy cả cơ thể Popok bỗng run lên. Chàng nhìn lên thì đúng là hình-dạng Ả Kmuth mà Ả Sieng đã tả cho chàng. Máu chàng sôi lên nhưng chàng cố nén.

– Chúng tôi là khách lỡ độ đường, muốn nhờ ngài để lại cho mấy lẻ gạo, và nhờ ngài cái nồi ít củi để nấu ăn.

Ả Kmuth nhìn chằm-chằm vào chàng:

– Nồi-niêu, gạc-nước cái gì, đâu có. Đi đi, đừng có lôi-thôi.

Popok nghiêm sắc mặt:

– Ô hay! sao ngài lại thế. Tôi trông ngài cũng là người… có cốt-cách người nhớn, ngài không ban cho chúng tôi thì thôi. Hà cớ ngài phải nặng nhời như thế. Chúng tôi nào có dám có điều gì vô lễ với ngài đâu.

Một người trong bọn nghe những lời nói dẽ-dàng của Popok nên bảo Ả Kmuth:

– Thôi để cho người ta Néak ạ.

Rồi cũng chẳng chờ Ả Kmuth giả nhời người ấy cất tiếng gọi vợ:

– Đàn-bà đâu lấy gạo để cho hai bác này này.

Ả Kmuth mặt lầm-lầm, đi về phía Popok rồi xuống cầu thang. Popok bất giác cho tay vào túi nắm mấy chiếc đinh thuyền, nhưng nhìn thấy bọn người đông quá, chàng lại thôi.

Chàng lao ra một chùm thì thế nào cũng giết được thằng Ả Kmuth rồi, và thế nào chàng cũng chạy thoát rồi. Nhưng còn Tà Soa ở đây, vì thế chàng phải nén lòng. Tà Soa vừa nghe thấy trên nhà bằng lòng bán gạo thì đã vội-vàng chạy ra phía vại nước cầm một cái nồi. Ả Kmuth đi qua thấy thế nói ngay:

– Các bác lại còn định thổi cơm ở đây đấy à?

Tà Soa cười cố làm ra khúm núm:

– Các ngài đã thương bán gạo cho mà các ngài không cho nhờ nồi và củi nấu thì có khác gì các ngài không bán gạo. Gạo ngài còn giúp thì ngài hẹp gì một tí củi.

Ả Kmuth lặng thinh, múc nước uống rồi quay vào.

Ở trên nhà Popok ung dung lấy thuốc lá ra hút, rồi khi Ả Kmnuth lên chàng còn lấy thuốc lá ra mời y là khác. Y cầm lấy một điếu hút. Popok lại vờ không có diêm sà lên bọn người đang ngồi giữa nhà để xin lửa. Rồi thì chàng gợi chuyện với mọi người. Ả Kmuth cầm điếu thuốc lá rồi đi về phía buồng, cũng chả nói năng gì.

Popok để ý nhìn khắp gian nhà thì thấy ván liền cả ba gian, chẳng thấy cái cửa mà Tà Soa nói ở đâu. Chàng đồ chừng cái cửa ấy nếu có, thì hẳn phải ở trong gian buồng mà Ả Kmuth vừa vào. Vì thế sau khi nói chuyện mưa nắng qua loa với mọi người chàng bước xuống sân. Tuy rằng ra để vờ xem Tà Soa thổi cơm, nhưng chính là tìm cách để biết cho rõ cái cửa mà Tà Soa đã nói với mình.

Đứng trông Tà Soa một lúc chàng vờ đi chung quanh sân:

– À nhà ngài trông phong-quang quá nhỉ, vườn rộng quá nhỉ.

Con chó dưới sàn nhìn thấy Popok đi đi lại lại lúc ấy lại lồng lên cắn. Trong nhà lại có tiếng quát ra:

– Ồ, làm cái gì mà chó cắn khiếp thế.

Những tiếng ấy lại có cái mãnh-lực làm cho máu Popok sôi lên.

Chập tối thì bọn anh em đã ăn uống no nê. Lúc ấy Popok mới bảo mọi người:

– Trong nhà chúng nó có bẩy tám người, giá anh em chúng mình lăn vào lén đánh thì cũng có thể hạ được. Nhưng một là Ả Kmuth nó giỏi nó có thể thoát được. Hai nữa tiếng súng động lên, người trong xóm đổ ra thêm khó khăn cho mình. Tôi cho rằng chỉ có cách một mình tôi lẻn vào thừa lúc nó ngủ giết ngọt nó đi là mầu-nhiệm nhất. Một mình tôi lẻn vào cũng dễ. Cái nhà sàn ấy không cao. Mà cửa thì coi bộ đóng bằng phên cũng không kiên- cố mấy. Có thể vào rất dễ. Con chó thì tôi cho nó một mũi đinh. Anh em lúc ấy đứng chặn ở cửa ngoài. Hai người phía cửa trước, hai người phía cửa sau. Nhưng phải chờ khi nào tôi giết chó, tôi lại bảo lúc ấy hẵng tiến lên. Chứ nếu không chúng thấy động chúng đề-phòng thì xôi hỏng bỏng không cả. Mà rồi chúng lại tản ra bốn phương, chẳng biết đằng nào mà tìm.

Chetteng nói ngay:

– Nhưng nếu anh vào mà chúng biết thì làm thế nào? Thôi anh cho tôi đi với, có thế nào tôi cũng đỡ tay anh được.

Popok lắc đầu:

– Lẻn vào như thế, hai người thì lôi-thôi lắm. Tôi đã bảo anh cứ nghe tôi mà.

Ả Sieng lúc ấy mới đề-nghị:

– Như thế thì nguy hiểm lắm. Nhỡ một cái.. Âu bằng ta làm cái lối đánh thẳng tay. Ta cho Tà Soa đến cửa trước bắn vào rồi ta phục ở cửa sau. Chờ chúng nó rút ra là ta bắn ráo. Tôi tin rằng giời tối như thế này người trong xóm nghe súng không ai dám đổ ra cứu đâu.

Popok lắc đầu:

– Mày thằng lỗ-mãng lắm. Mình còn có ba tay súng. Giời tối thế này, chúng nó bao nhiêu là người. Bắn sao cho xiết được. Lai giời tối sẫm thế này làm sao mà nhận được Ả Kmuth mà bảo chỉ bắn một mình nó. Không, từ giờ tôi bảo ai đều phải nghe hết. Không có bàn ra nói vào gì cả. Ta ngủ đi một giấc rồi chờ khuya lúc ấy chúng nó ngủ say rồi, tôi lẻn vào quyết là không ai biết. Tôi biết được chỗ nó nằm rồi thì không thể nào nó thoát được tay tôi.