CHƯƠNG 2
Deadville, đầu tháng Tám. Chúng tôi mất chưa đến hai giờ để đến đó. Đi ra khỏi London trên một tuyến đường hai chiều được mở rộng thành một con đường xa lộ, má cứ luôn miệng tấm tắc nào là “A, trong lành quá!” với lại “Ồ, nhẹ nhõm quá!”, và những lời đại loại như thế. Tôi thì không nói một lời nào vì hai mẹ con đang bỏ ba lại sau lưng và điều đó không cho cảm giác trong lành tí nào (tro của ba được rải ở Hampstead Heath).
Khi chúng tôi đến lối rẽ vào ngôi nhà mà người ta đặt tên là “Lòng Chảo” (nghe mà phát ói), má kéo thắng tay lên, tắt máy xe, và ngồi im ở đó, không nói lời nào, chỉ nhìn đăm đăm qua kính xe. Máy xe kêu lích tích khi nguội dần. Trước đầu xe là một giàn lưới mắt cáo có hoa hồng mọc bám vào và quá nữa là khu vườn. Một băng ghế, một bình tưới, và cỏ rậm rì cần được cắt xén. Má ngó về phía khu vườn nhưng thật ra bà không thấy nó. Bà đang nhìn tương lai của mình, đó là điều mà tôi nhận ra được, bởi vì chính tôi cũng làm như vậy. Tôi đang nhìn vào cuộn ống nước tưới cây được buộc vào bức tường ga-ra và nghĩ thầm. Chỉ vậy thôi. Không tiếng động, không âm thanh nào cả. Tôi căng đôi tai ra lắng nghe rồi sau cùng chúng reo lên thành một tiếng chim hót.
Tiếng chim hót rằng “Chào mừng đến với Deadsville”. [2]
Má đặt cạnh hai bàn tay xuống tay lái và nói: “Á à à...”
Tôi buột miệng: “Con ghét cây cối, con ghét không khí tươi mát, và ghét nhất là cái thứ hoa chuông cứ lắt lay rập rờn đó.”
Đây là một câu nói đùa trong gia đình. Chúng tôi thường về làng chơi khi ông bà ngoại còn sống. Có lần hai cha con tôi thả bộ đến cái kho thóc ma quái, để ba chuồn khỏi cái mà ông gọi là thói nói dai nói dở hàng giờ của ông ngoại. Chúng tôi đi xuyên qua một cánh rừng hoa chuông để đến đó, và thật tình mà nói thì tôi nghĩ nó đẹp lạ kỳ. Ba luôn cho rằng đời sống ở miền quê là nhảm nhí.
Có lúc hai cha con tôi phải trèo qua những cành cây bị rêu bám đầy. Ánh nắng xuyên qua cành lá thành những dẻ quạt xanh sáng và chiếu trên đám rêu phong làm nó ánh lên cái màu xanh nhất mà người ta từng thấy được. Một bà hoàng trong truyện cổ tích mới có được những hộp đựng nữ trang chạy viền bằng thứ rêu như thế (xin đừng kể với Tally là tôi nói như thế, cô ấy sẽ nghĩ rằng tôi là một cô nàng õng ẹo). Ánh nắng cũng soi lên đám hoa chuông phủ trên mặt đất rừng. Đôi giày da báo của ba, bà ngoại ghét chúng ghê gớm, cày nát đám hoa mênh mông màu xanh tím đang lay động rập rờn.
Chúng tôi đi tiếp đến cái kho thóc nằm trên đỉnh của một ngọn đồi bằng phẳng. Người ta cho rằng nó ma quái vì nó tạo ra những tiếng vang thật lớn chỉ trong tích tắc sau khi bạn la lên. Trong lúc đi về phía đó, tôi quay sang ba hỏi bằng cái giọng cà rỡn rất "mốt" nhưng vẫn rõ nghĩa: “Ra ngoài ngoải có êm hông dzậy tía?”, thì ba đáp: “Tao ghét cây cối, tao ghét không khí tươi mát, và ghét nhất là cái thứ hoa chuông cứ lắt lay cà rập cà rờn đó.”
Ông vừa giậm chân thình thịch như một gã lên cơn khùng, vừa gào lên: “Mình muốn gì nào? Mấy cái tiệm xăm mình và tiệm bán băng đĩa. Mình cần chúng lúc nào nào? Ngay bây giờ!”
Và cái kho thóc ma quái dội trả lại: “BÂY GIỜ! BÂY GIỜ! BÂY GIỜ...!”
Má ném mấy cái túi đi chợ lên sàn bếp, rồi bà đi vào phòng khách ngồi phịch xuống cái ghế bành mà ngày xưa bà ngoại hay ngồi. Ngôi Nhà Lòng Chảo này có trần rất thấp. Ánh sáng mờ mờ âm u và thật buồn thảm. Có mùi ẩm ướt và những mạng nhện giăng ở góc các cửa sổ mắc đầy xác ruồi. Má lấy hai tay che mặt nói: “Mấy con ruồi này gớm quá!” rồi cố mỉm cười, vỗ vỗ cái tay ghế nói: “Dễ thương cái coi, đi đặt ấm nước nào con.”
Tôi xuống bếp pha hai vại nước trà. Tôi xoa lưng dỗ dành lúc bà đang khóc. “Cám ơn con yêu của má,” má thổn thức: “Con giỏi lắm. Đúng là thằng con ngoan. Phải không nào?”
Tôi nghĩ thầm: Không, mình là một thằng nhóc điên cuồng hung tợn. Nhưng tôi lại nói: “Chuyện gì vậy má?”
“Ô, không có gì đâu. Chỉ là một ngày đầy cảm xúc thôi mà. Ngày đầu tiên trong phần đời còn lại của hai má con mình.”
Má nói với giọng châm biếm nhưng tôi hiểu rằng bà nói thật. Chỉ có điều má không nói rõ được chữ “đời” vì bà lại khóc nấc lên. Tôi hỏi: “Má có muốn mình nói về chuyện này không?”
Má bật cười cho dù bà đang khóc. “Con lớn thiệt rồi phải không, trong mấy tuần vừa rồi thôi? Ừa, nó như vầy nè. Hổm rày má mong chờ có ngày hôm nay. Má nghĩ, cái giây phút mà mình bước vào cánh cửa trước đó...” bà vói tay lại phía sau chỉ: “thì mình sẽ ổn. Sạch bong. Làm lại từ đầu. Nhưng cuộc đời hông dễ như vậy đâu, má lo lắm.” Má xì mũi. “Má xin lỗi con nghen. Má không nên bắt con lo những chuyện này. Con có cuộc đời riêng để phải lo rồi. Chỉ là... nhiều lúc khó khăn, cực lòng lắm. Hổng có ba mày.”
“Đôi khi con về lại London để thăm ba nghen?”
“Ý con là sao vậy?”
“Chỉ đi dạo trên đồi Health thôi mà. Rồi con có thể lẩm nhẩm trò chuyện với ba trong đầu. Rồi có thể con thăm tụi thằng Vern và Barry luôn.”
“Tất nhiên là có thể chứ. Má nói với con rồi. Từ nhà ga gần đây nhất đi tới Waterloo chỉ mất có một giờ thôi. Rồi đi thẳng lên ngả phía Bắc. Đây có phải xứ Ngoại Mông Cổ đâu, con biết mà.”
“Nghe thích đó,” tôi đáp: “Con tới mấy tiệm xăm mình và mấy dãy nhà cao tầng ngày nào cũng được.”
Má bật cười: “Có thể ông là một cha nội ngờ nghệch, ba mày đó. Nhưng ông dễ thương lắm.” Má cau mày lại, trông như vờ giận dữ. “Lúc nào cũng vậy.” Rồi bà thở dài đánh sượt, rồi lần này má nói bằng cái giọng thật nghiêm: “Lúc nào cũng vậy.”
Nhiều khi lắng nghe là cách duy nhất để một đứa trẻ hiểu được chuyện gì đang xảy ra trên cái trần gian mà bọn người lớn làm cho rối lung tung xà bèng lên. Đó là cách mà tôi biết được những rắc rối về tài chánh của ba làm cho chúng tôi rơi từ chỗ khá giả xuống cảnh nghèo rớt mồng tơi chỉ trong một nhịp thở. Chuyện đó sau tang lễ của ba đúng một tuần. Tôi đang xem tivi trong phòng khách, còn má thì nói chuyện với cô Barbara, bạn của má, sau bếp. Má đóng cánh cửa ngăn giữa nhà bếp và phòng khách vì bà biết tôi chỉ đang làm bộ xem tivi thôi. Tuy tôi không cố ý nghe lén, nhưng đôi khi phải làm vậy mới được. Tôi nhón chân rón rén tới bên cánh cửa rồi áp tai vào lỗ khóa.
Ba đã làm điều gì đó không thể giải thích và tha thứ được mà chúng tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu thấu đáo. Hai điều cả thảy (rõ ràng ngoài việc chết đi). Ông rút hết tiền hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của mình. Và ông tái thế chấp căn nhà của chúng tôi ở Camden để làm ăn. Ông làm cả hai việc mà không cho má biết. Có nghĩa là sau khi ông chết, thì người ta phát hiện công ty của ông bị nợ nần kinh khủng, hai má con tôi lãnh đủ vụ này. Điều tệ nhất, má nói với cô Barbara, là không thể đối mặt ông về những gì ông đã làm và hỏi: tại sao?
Nếu bà và ông có thể đứng trong bếp đốp chát với nhau như xưa nay vẫn làm, chỉ trong nửa giờ thì chuyện hẳn đã được giải quyết rồi. Ông sẽ có lời giải thích thỏa đáng, bà biết vậy. Ông đã ngu ngốc quá, nhưng ông không tệ. Không có bồ bịch lăng nhăng mà má không biết, hay ghiền cờ bạc, hay bất cứ chuyện gì khác. Hay ít ra má biết chắc là không có. Chỉ cần một cuộc trò chuyện thôi thì bầu không khí sẽ được làm cho trong sáng.
Má nói bà không quan tâm lắm đến việc phải bỏ mất ngôi nhà giá một triệu rưỡi pao ở Gloucester Crescent, hay mỗi năm đến chơi năm lần ở vùng biển Caribbean, hay những bữa tiệc có mặt những danh ca nhạc rock hay các tài tử (trong một bữa tiệc mà tôi được phép dự trong mười phút, tài tử Kevin Spacey đã cho tôi một cái móc chìa khóa của một quán bar ở Los Angeles nhưng tôi lại làm mất), hay những chuyến du lịch mua sắm ở New York. Má thích mọi thứ đó nhưng ba nói đúng: trong thâm tâm má chỉ là một cô gái quê và bà sẽ điều chỉnh cho thích hợp với hoàn cảnh. Điều duy nhất mà bà thật sự bận tâm là việc không bao giờ tìm được lý do vì sao ông đã làm như vậy.
Chà, hoan hô má, nhưng còn tôi thì sao đây? Có ai thèm hỏi tôi rằng tôi có bận tâm về chuyện Chúa đã đến và lấy đi ba tôi và nhà tôi và bắt tôi sống trong một cái ổ chuột không? Ở Gloucester Crescent tôi không chỉ có một căn phòng thôi, mà tôi có cả một tầng lầu của riêng mình, Chúa ơi – Vern, Barry và tôi dợt trong đó với một trái banh cỡ trung. Trong căn nhà cũ kỹ này thậm chí không có chỗ để chơi bi-da nữa kìa.
Hôm đầu tiên ở Lòng Chảo, má nói: “Tất nhiên con phải giữ liên lạc với London. Giờ đây nó là một phần của đời sống của con, và luôn luôn sẽ là như vậy. Nhưng con cũng phải cố gắng ổn định đời sống ở đây nữa. Con phải kết bạn và đừng tỏ ra kênh kiệu với người khác chỉ vì con nghĩ họ là... con gọi họ là gì vậy ta?”
“Bọn củ chuối quê mùa.” [3]
“Hay ho chưa. Con học từ đó ở đâu ra vậy? Mà thôi, má không muốn biết làm gì đâu.”
Thật vậy, Bickleigh không phải là Ngoại Mông. Nó tệ hơn vậy. Tôi gọi nó là Trung tâm Xác chết. Có những tiếng bíp bíp cực lớn vang lên ở những chỗ qua đường dành cho khách bộ hành để những người chết không bị một cỗ quan tài chạy bằng phân bón với tốc độ ba dặm một giờ do một người chết khác lái tông phải. Trong các cửa hàng thì người ta phải mất đến ba giờ để bước đi bốn mét từ cánh cửa đến quầy tính tiền. Và bởi vì ai cũng điếc đặc nên người ta không nghe thấy có người chưa chết (tức là má và tôi, và vỏn vẹn chỉ có hai má con chúng tôi trong chừng một trăm dặm vuông) phía sau họ và đang cố vượt qua. Nếu bạn không cẩn trọng thì họ sẽ hất bạn ngã với những chiếc xe gắn máy tàn phế mà họ lái trên vỉa hè bởi vì họ không thấy đường: họ vừa mù, vừa điếc và vừa chết.
Ở Bickleigh, nếu bạn mua sắm nhiều thì tốt nhất là mang theo một thứ gì đó tốn nhiều thời gian để làm – như là nhớ lại từng con số thống kê trong cuốn Sổ Tay Thông Tin Chính Thức của đội Arsenal chẳng hạn – bởi vì nhân viên trong cửa hàng sẽ mất nhiều giờ để phục vụ bạn. Trước tiên họ tán chuyện dông dài với người đứng trước bạn về những triển vọng của cuộc thi ăn-phân-bón trong ngày hay chuyện Jemima bị chiếc máy gặt đập nghiến mất chân như thế nào, rồi họ không đếm được tiền thối lại vì (a) họ không thể nhìn rõ và (b) họ chưa từng thấy những đồng xu thời mới, rồi họ làm rớt mớ tiền xu và bị lên cơn đau tim khi cúi xuống nhặt chúng, rồi họ phải ngủ trưa, và rồi, sau cùng khi bạn đến được đầu hàng và đưa tờ 20 pao trả cho gói đường mà bạn cần có từ năm giờ trước, thì họ gọi bạn là “Thiếu gia.”
Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng cả hai con phố lớn Camden High và Bickleigh High cùng tồn tại trong cùng một xứ sở trong cùng một thời. Không có những chiếc giày Doc Marten khổng lồ hay những chiếc máy bay màu bạc bị rơi, găm vào mặt tiền các tòa nhà của Bickleigh để làm thành lá quốc kỳ nước Anh trên cột cờ và những giỏ hoa treo đong đưa. Không có những gã Rastas [4] rất ngầu từ đầu tới đít, chỉ những xác chết ban ngày được thả rông khỏi nhà xác, thi thoảng có thằng nhóc tóc rẽ ngôi giữa bôi keo và úp hai miếng lót mông lên tai, những thùng thiếc biết đi bởi vì kiểu đó được cho là rất chiến ở Manuresville [5] . Thằng Khạc Đờm sẽ được xem là ngon lành nếu hắn dời về đây sống.
Trong lúc tôi ngồi trong xe chờ má mua súp nấu sẵn và rượu bổ - tôi không ra khỏi xe đi cà nhỏng loanh quanh vì sợ họ vô ý cho tôi là một cái quan tài - thì tôi bày một trò chơi. Tôi tưởng tượng tất cả những kẻ quái gở mà tôi thấy trước mặt mình – lừ đừ bước đi trong những cái áo trùm đầu màu hồng gớm ghiếc chắc là mua từ mục quảng cáo trên trang sau của tờ The Daily Telegraph, với mái tóc bạc và đôi chân dẹt, ngừng chân ngó tờ danh sách những thứ cần mua và phải mang dây đeo kính trên cổ, mua hết những truyện tình rất sến về Thế Chiến Thứ Hai, bước lẹp nhẹp những ngón chân tươm mồ hôi trong những chiếc vớ len và giày của hiệu Clarks đặc biệt dành cho người bị lão hóa - tôi tưởng tượng tất cả bọn họ đều đã qua đời. Tôi hình dung về mặt dân tộc học, Bickleigh toàn người chết. Trong một vài giây, cơn gió và những thứ nó chạm đến là những thứ duy nhất còn nhúc nhích cục cựa ở Bickleigh. Lá quốc kỳ nước Anh trên cột cờ dựng trước một ngôi nhà to đùng cũ kỹ được sơn cùng màu hồng của những chiếc áo trùm đầu gớm ghiếc.
Lá cờ Thánh George trên đỉnh nhà thờ. Tấm băng-rôn quảng cáo cho một buổi thuyết giảng của Hội Ái Hữu Phụ Nữ về “Những cái giếng của Vùng Old Wessex” trong hội trường của làng. Rồi Camden tràn xuống xâm lấn.
Tất cả nữ trang đeo mũi và thời trang lướt ván và đồ nghề chích hút quét xuống đường như sóng thần, xé toạc những lá cờ cũ và dựng lên những lá cờ sặc sỡ cầu vồng có ghi chữ PEACE, biến các phòng khám nhãn khoa thành quán thịt nướng fajita của người Mễ và những ma-nơ-canh gắn ở ngoài các văn phòng địa ốc và những ngọn nến hình sọ người bằng sáp trong những cửa sổ của hiệu sách cổ Bickleigh.
Tôi ước vậy. Tuy nhiên, trong những ngày đầu ở vùng quê đó tôi đã cố gắng hành xử tốt và không gọi người khác là bọn quê mùa nhai phân. Thế rồi tay Cá Chua xuất hiện, kéo lê theo những bao phân.
Tôi đang ăn bánh mì nướng trong bếp. Chúng tôi nghe tiếng vỏ xe nghiến lạo xạo trên lối vào nhà trải sỏi. Má nhướng mày nhìn tôi. Tiếng gõ cửa trước vang lên. Má lên tiếng. Những lời ú ớ, một tiếng cười vang, ngắn, rồi cánh cửa nhà bếp mở ra và một người đàn ông tóc chải mượt, cao lênh khênh choán hết không gian nhà bếp phải cúi lom khom để bước vào. Ông mỉm cười với tôi, một nụ cười có mùi, như thể một thằng bé vừa ói lên người ổng vậy.
“Nè cưng, đây là ông Boland,” má nói. “Ổng là bạn của ông bà ngoại.”
“Vậy hả má?” Tôi nói.
“Nhờ Trời ổn cả! Còn cậu là?”
Tôi không phải suy nghĩ gì nhiều, ngay lập tức cái tên Cá Chua bật lên trong trí.
“Thằng con trai quậy của tôi đó,” má đáp. “Anh uống tách trà nghen?”
“E hèm... Tôi định...” Ổng nhìn đồng hồ tay. “Chà, mười phút thôi thì cũng không sao. Cám ơn chị.”
Má dọn sơ một chỗ ở bàn để cho ông ngồi. Bà cũng nhân tiện cất bơ và mứt đi luôn dù tôi chưa ăn xong. Tôi la khẽ: “Ồ, má...” thì má cau mày với tôi, cái cau mày làm hai mắt lồi lên rất đặc biệt của má.
“Nói kẻo quên mất, tôi có để ít đồ trên lối vào.” Ông Cá Chua nói.
“Ồ, vậy sao?” Má thốt lên.
“Hai túi loại tốt nhất của tự nhiên. Cho mấy bụi hoa hồng của chị.”
“Tôi không hiểu?” Má hỏi, đôi khi má rất chậm tiêu.
Nhưng tôi thì không chậm tiêu. Tôi hiểu ngay nó là cái gì, và tôi la lên trước khi ông Cá Chua kịp nói. “Phân bón. A ha ha ha ha!” Rồi tôi vung nắm đấm lên trời và bắt chước cách các cầu thủ đội Arsenal ăn mừng khi làm bàn, nhưng với cái cối xay tiêu.
Kết quả của cuộc chạm trán nảy lửa này là má mời ông bà Cá Chua đến ăn tối vào thứ bảy sau. Bà bối rối, không biết phải nấu món gì. Vì một cặp vợ chồng dân nhà quê mà bối rối hơn cả khi tay ca sĩ Eric Clapton đến trình diễn ở Gloucester Crescent, điều đó thật lạ kỳ. Bà không muốn nấu thứ gì cầu kỳ quá – như món cá hanh đỏ với tỏi bằm, có bông cải tím non được ủ bên dưới - vì nó có vẻ như thị thành London quá, nhưng bà cũng không cho là món hầm hay bánh hấp là ổn vì e rằng họ nghĩ là bà cho họ quê mùa (nhưng bà không nói vậy, mà nói là họ “chất phác”).
Rốt cuộc thì má quyết định làm món chân cừu, nhưng nấu trong một thứ nước sốt lại hoàn toàn có hương vị London mà bà học được trong sách dạy nấu ăn River Café. Má hỏi tôi có thể pha nước xúp cho các món khai vị và xắt cần tây và cà chua phơi khô và tìm cây bạch hoa cho nước sốt thịt cừu không.
“Má chỉ biết tên của họ,” má phân trần: “Brian và Felicity Boland. Chẳng biết họ làm nghề gì. Rồi mình sẽ nói chuyện gì với nhau đây cho hết cả buổi tối?”
“Về những thứ phân bón khác nhau,” tôi đáp: “Phân bón thích hợp với tất cả mọi dịp.”
Má dứ dứ ngón tay vào tôi: “Con ăn nói giữ mồm giữ miệng à nghen.”
Hai vợ chồng đều diện đồ bảnh. Ông Cá Chua đeo một cái đồ cột-cổ bự xự, rực rỡ, bao quanh cổ mà về sau má nói nó được gọi là cái cà-vạt. Bà Felicity thì mặc một cái đầm hoa hòe và một cái khăn choàng có kết tua màu trắng quấn quanh vai. Má không còn thì giờ để thay đồ và vẫn còn mang bộ đồ vải thô có sọc. Úi dà dà. Bà đưa họ vào phòng khách và bảo tôi hỏi họ muốn uống gì trong khi bà vào bếp lấy bánh rán và hạt hồ-trăn đãi khách. Ông Cá Chua muốn một ly bia nhỏ thôi, vì còn phải lái xe. Bà Felicity thì một ly vang trắng.
Khi tôi sắp trở vào bếp để lấy thức uống thì ông Cá Chua hỏi: “Cháu đi học trường nào đấy?”
Tôi đáp tôi không đi học. Tôi có học một trường ở London. Đầu năm học tới, tôi sẽ vào một trường mới dưới này nhưng tôi không nhớ được nó tên gì.
Ông Cá Chua nói: “Con gái chúng tôi, Talullah, thì học ở Blunkers. Ở đó phát triển lắm. Hai đứa nên làm quen với nhau đi.” Ông còn nháy mắt với tôi nữa.
Tôi nói: “Chiến quá.” rồi vào nhà bếp khi má từ đó bưng mấy thố đựng bánh rán và hạt ra. Trong lúc lấy lon bia ở tủ lạnh ra, tôi lắng nghe câu chuyện họ đang nói bên kia cửa.
Ông Cá Chua nói với má: “Con trai chị có xuống học ở Blunkers khóa tới không? Cậu ta có vẻ hơi mơ hồ đó.”
Bà Felicity nói: “Chị khó mà chọn được chỗ khá hơn đâu. Nhỏ Tally thích học ở đó lắm.”
Má đáp: “Không... ừm... Nó học trường địa phương trong phố thôi.”
Bà Felicity nói: “A, thế à.”
Tally! Tôi suýt nhổ nước miếng vào ly bia của ông Cá Chua, nhưng rồi ý nghĩ đó làm tôi nhớ tới thằng Khạc Đờm và tôi phát chán, cố nghĩ đến chuyện gì khác trong lúc rót rượu vang cho bà Felicity. Tôi nghĩ về tro cốt của ba, bị gió thổi bay mất trên đồi Heath. Nếu lúc này mà ba có mặt ở đây với tôi trong nhà bếp, thì ông sẽ giả bộ cụng bể đầu cha nội ở bên kia. Kẹt cái là ông chẳng bao giờ ở đây được nữa. Má con tôi ở đây, sống trong căn nhà gỗ này và mời cặp vợ chồng vớ vẩn này đến ăn tối, chỉ vì ba không có mặt ở đây. Chính là như vậy. Đó là cái giá của chuyện đời, như lời ba thường hay nói.
Ăn xong món đầu tiên, món súp mà tôi xay nghiền trong máy xay, má hỏi ông Cá Chua làm nghề gì. Ông đáp: “Cho thuê thiết bị.”
Tôi ngó má và có một cảm giác thật tệ. Đột nhiên trông bà thật buồn khổ, cầm ly rượu vang giơ ra ơ hờ như thể con người bà sụm xuống. Bà ho khan rồi nói: “Nghề đó thiệt là thú vị. Sao nhỉ, cho các lễ cưới và mọi chuyện?”
Ông Cá Chua hỏi lại: “Tôi không nghe rõ. Xin chị nói lại?”
Thật là một câu ngớ ngẩn.
Bà Felicity nói: “Thiết bị hạng nặng. Xe ủi lô và máy cán đá. Thiết bị nông nghiệp nữa. Brian là nhà cung cấp máy gặt đập và đóng kiện trong toàn vùng West Country, phải vậy không ông, Brian?”
“Hổng dám đâu, nhưng người ta cho là như vậy. Món súp này ngon ghê. Có phải nó là món của nhà bếp trứ danh Delia không?”
“Ô, tôi ngốc quá,” má đáp. “Tôi đang nghĩ... tôi không biết mình đang nghĩ chuyện gì nữa. Tôi nghĩ chuyện đâu đâu không à... Món súp hả? Không, nó là... ừm...”
“Nó là món nhà cháu nấu,” Tôi nói hộ má: “Không phải từ công thức nấu ăn nào.”
“Còn chị thì làm gì?” Má hỏi bà Felicity.
“Tôi thấy đời sống thôn dã cũng bận rộn quá sức rồi,” Felicity đáp. “Nó quay tôi như chong chóng, thiệt tình là vậy đó. Hiện nay hội Ái hữu Phụ nữ do một tay tôi lo. Chị phải tham gia, chúng tôi có nhiều thuyết trình viên giỏi lắm. Chị chắc cũng làm việc hiệu quả lắm, hả chị McFall?”
“Tôi sẽ bận lắm, hi vọng là vậy, kể từ bây giờ trở đi. Nghề của tôi chựng lại trong vài năm vừa qua nhưng đã tới lúc phải phục hồi lại và làm tiếp. Nhiều khả năng là vậy đó.” Má thở dài và nhướng mày lên.
“Mà chị làm ngành gì vậy?” bà Felicity hỏi.
“Tôi là nhà thiết kế đồ họa. Tôi hi vọng bố trí được công việc ở đây và làm ở nhà.”
“Hay quá.”
“Má thiết kế bìa album nhạc cho Elvis Costello,” tôi nói.
“Tôi sẽ dọn món chính,” má nói và quay sang tôi: “Con dọn mấy cái đĩa súp dùm má nghen?”
Không ai nói lời nào trong suốt mười phút khi ăn món chân cừu. Tôi định giải thích Elvis Costello là ai, và cái bìa album mà má thiết kế trông như thế nào, nhưng tôi nghĩ chắc má không muốn tôi nói chuyện đó, nên thôi.
Chỉ có tiếng dao nĩa chạm nhau lanh canh. Sau một lúc nó im bặt đi. Rồi bà Felicity nói: “Món này ngon quá, phải không anh Brian?”
Ông Cá Chua đang nhồm nhoàm một miệng đầy. Ổng cố đáp: “Ưmmm, ngon ghê.” Khi ổng nuốt xong, ổng nói với má: “Chúng tôi rất buồn khi nghe tin bác trai qua đời. Chẳng bao lâu ngay sau cái chết của má chị.”
“Cám ơn anh,” má đáp: “Thiệt tình chuyện đó cũng an ủi một cách kỳ cục, là hai người nên sống gần gụi với nhau.” Bà cười to: “Thiệt là một năm khủng khiếp.”
Ông Cá Chua giơ dao nĩa lên nửa chừng và đầu ngả qua một bên. Trông ông ta như thể sắp bật khóc òa. “Thiệt vậy. Chúng tôi hiểu là cuộc sống của chị trở nên quá bi thảm trong thời gian gần đây. Còn chồng chị nữa. Thiệt là xui xẻo quá mức.”
“Dạ, chúng tôi thiệt buồn lòng về những mất mát của chị,” bà Felicity nói.
“Cám ơn anh chị, thiệt anh chị tốt hết sức. Dạ, khó khăn đau buồn lắm chứ. Tuy nhiên, giờ thì hai mẹ con tôi về đây rồi, và chúng tôi khởi sự lại từ đầu, phải vậy không cưng của má?” Tôi gật đầu. “Thật ra, cách nào đó thì đối với tôi nó cũng là chuyện trở về quê hương xứ sở. Chắc anh chị không biết đâu, vì giờ đây chỉ có vài người còn lại trong làng này là còn nhớ tôi, nhưng thật ra tôi lớn lên ở đây.”
Bà Felicity ồ lên kinh ngạc, rồi gật đầu.
“Dạ, thật ra tôi biết điều này,” Ông Cá Chua nói. Ổng cười khì và trông có vẻ thoải mái vì không phải giả vờ là người mẫn cảm nữa. “Tôi nhớ chị mà. Clare Groves. Vận động viên thể dục dụng cụ, nhỏ con mà rất giỏi. Tóc thắt bím, nếu tôi nhớ không lầm.” Ổng vẫy vẫy ngọ nguậy những ngón tay ở cả hai bên đầu để ra dấu hai bím tóc. “Tôi là gia đình Brian ở Bickleigh. Chị còn nhớ cái ngôi nhà cũ Hedge End Hall bỏ hoang mà hồi nhỏ chúng ta thường lẻn vào chơi không? Đó là nơi mà bây giờ chúng tôi ở. Chúng tôi sửa sang nó lại thành một khu thương mại. Chúng tôi có một chương trình đầu tư về các nguồn lợi nông nghiệp hoạt động ở cơ sở ấy.”
Má giật mình vì bà đã quên mất mình đang ở đâu và cứ mơ mòng về London. “Gì hả?”, bà hỏi, giọng thật lớn, như là một tay cảnh sát chậm hiểu.
Sau khi họ về, má uống thêm rượu vang đỏ rồi xỉn. Bà ngồi ở chiếc ghế bành của bà ngoại. Má hất đôi xăngđan ra, gấp hai chân lại trên ghế. “Trời, má không thể tin nổi,” má cứ lảm nhảm: “Thằng cha, thằng cha đần độn đó. Cái thằng cha hũ chìm nhớ dai khốn kiếp ấy. Chả đã tới đây một lần rồi mà chả vẫn không nói gì tới chuyện chả biết má. Chả phải mất đến cả hai giờ ca cẩm này nọ! Để làm chi vậy chớ? Chậc, má cũng không tin nổi là mình lại nói về chuyện cho thuê thiết bị. Lúc đó má đang nghĩ về chuyện..., con hổng biết đâu, chuyện cho thuê mấy cây cọ của mình bỏ trong chậu để trang trí mấy cái lều đãi đám cưới, hay cho thứ gì như vậy. má muốn nói là, chuyện đó hổng có ngu quá xá phải không? Ui, má xin lỗi, cưng à. Con phải chịu những thứ nhảm nhí này, phải không?”
“Con uống chút rượu nghen?” Tôi hỏi.
“Lấy cái ly,” má đáp: “Cho một ít nước vô đó trước.” Khi tôi mang ly lại, má rót một ít rượu vào. “Má không biết, cưng à. Bây giờ cái làng này cứ như là một hành tinh nào khác với má vậy. Thiệt là lạ, vì khi còn ở London thì má không cảm thấy mình thuộc về nó chút nào, rồi về đây, về nơi mà má lớn lên, thì nó giống như là ở xứ quái Ngoại Mông xa lạ nào vậy. Ôi, Chúa ơi!” Bà uống một ngụm rượu lớn, rồi cười phá lên tới nỗi phải phì ra một nửa. “Má muốn nói là, nói về chuyện rối loạn chức năng...”
“Chả là một cha nội Cá Chua quê một cục.” Tôi nói:
“Brian Cá Chua. Và bà Felicity cà ngơ.”
Má khúc khích cười, rồi rùng mình: “Nè, đoán thử coi. Giờ thì má nhớ chả rồi. Có lần chả tán tỉnh má ở buổi dạ vũ Những Nông Dân Trẻ. Con tin nổi không nào? A, hahahahaha!”
Sáng hôm sau, tôi mặc áo ngủ hiệu đội bóng Arsenal đi xuống bếp, má dọn một cái săng-uých kẹp thịt muối xông khói cho tôi. Tôi mở bánh ra, xịt nhiều nước sốt nâu của ba vào, rồi ngoạm một miếng thiệt bự. “Má nè, cái tấm hình ông bố trên chai nước sốt ngó giống Brian Cá Chua quá hen.” Tôi nói.
“Thôi đi,” má đáp “đừng nhắc chuyện đó với má nữa.” Má đang uống cà phê, đen đậm, mà má rót từ cái bình pha cà phê rất to ra. “Lẽ ra má không nên uống hết chai rượu vang đỏ đó. Sáng nay có bà PlunkettStrawberry đến báo cho má về chương trình An Ninh Khu Phố.”
Tôi phì cười. “Bà Plunkett-Strawberry? [6] Má nói giỡn hả?”
“Thiệt đó, bả giống vậy đó. Bự bằng hai cái thùng tô-nô. Cưng nè, má đang suy nghĩ, và má thật sự nghĩ là trong vài tuần qua, mình đã quá xem trọng bản thân mình rồi co mình lại trong những vấn đề khó khăn của mình, giờ thì má muốn đền cho con, má muốn mua cho con một chiếc xe đạp leo núi thật tốt, nếu con thích. Má có một ít tiền để dành. Con nghĩ sao nào? Con có thể đi thám hiểm lòng vòng. Đường xá quanh đây rất an toàn. Mỗi ngày con có thể chuồn đi đâu đó xa khỏi má vài giờ. Nghe cũng khoái đó chứ hả?”
Tôi gật đầu và nhún vai. Chuyện đó chán lắm không vậy ta? Tôi nghĩ, nhưng cả hai chúng tôi đều sai. Đường phố quanh Manuresville không an toàn và buồn chán chút nào. Chúng rất nguy hiểm.