← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 3

Ở London chúng tôi có một khu vực mà Vern gọi là lãnh địa. Nó có hình tam giác, Hampstead Heath (nơi trường học nằm) là đỉnh, và các trạm xe điện ngầm Camden Town và Chalk Farm là các điểm đáy. Đây là nơi chúng tôi la cà, trên các chuyến xe buýt và vỉa hè và trong các cửa tiệm, cười nhạo những kẻ qua đường quê mùa, và chôm chỉa lặt vặt trong các tiệm, chẳng có gì nghiêm trọng cả.

Giờ đây lãnh địa của tôi là một con đường làng, và một đoạn đường cái, và - như tôi sắp khám phá được - một cửa tiệm xập xệ tồi tàn. Việc đầu tiên tôi làm trên chiếc xe đạp leo núi (chiếc xe này rẻ thứ nhì trong tiệm bán xe đạp ở Basingstoke, nhưng tôi không có ý kiến gì về chuyện đó) là đi thám sát cái lãnh địa mới này. Từ cổng nhà, tôi quành vào đường làng và thả dốc chừng một dặm hơn, trên con dốc dài cỡ từ Kentish đến Camden Towns, giữa những bờ rào và hàng cây cao, qua một cái ao có hoa vàng mọc quanh bờ, lách tránh cứt ngựa trên đường và cố cán lên những vỏ thuốc lá, bị chiếc Land Rover kéo một thùng xe qua mặt, và một xe cảnh sát bóp còi, chắc hẳn là do tôi không đội mũ. Nắng soi nghiêng thành những vệt lốm đốm, xuyên qua dãy bờ rào và hàng cây, và gió lùa vào tai làm tôi cảm thấy như đang lao xuống một con dốc xanh tươi.

Tôi nhớ lại hồi chúng tôi chạy lên con đường làng này trong một chiếc BMW có hệ thống âm thanh thật chiến, trong một kiếp khác chỉ cách đây có một năm thôi. Ba bấm còi ở mỗi khúc quanh để ngừa có xe khác chạy ngược chiều lại. Má muốn ông hạ cửa kính xe xuống để thở chút khí trời thôn dã, nhưng ba lại khoái đóng kín cửa lại để máy lạnh chạy. Đây là thứ chuyện mà họ cãi cọ nhau, nhưng chỉ là cãi cọ giễu cợt nhau cho vui thôi.

Ý tôi muốn nói là ba má rất yêu thương nhau.

Hết dãy bờ rào và hàng cây, con đường phẳng ra, tôi phải bóp thắng để đà chạy không lao vào dòng xe nhộn nhịp. Tựa vào tay lái, tôi ngắm xe cộ đi lại một lúc. Nhiều khi tôi ghét mình còn con nít, không có tiền để làm điều mình muốn, như chuyện nhảy lên một chiếc xe hơi nào đó rồi vù mất chẳng hạn.

Tôi quẹo xe qua bên phải, lên vệ cỏ rộng của đường cái. Cách nửa dặm trên kia là cửa tiệm, một tòa nhà bằng gạch đỏ có tấm bạt xanh ở mặt tiền quảng cáo thứ bia dở ẹt mà chỉ có đám quê mùa uống. Dưới tấm bạt là mớ sọt nhựa rỗng để đựng cam chồng lên nhau. Ngoài mặt tiền cửa tiệm có tấm bảng “Tiệm Tạp Hóa”. Tay nào đó đã dùng sơn xịt sửa chữ “Tiệm” thành chữ “Tọng” (rõ ràng các tay tiếu lâm này là dân trong vùng).

Tôi chỉ nghĩ đến chuyện mua trữ các lon thực phẩm và thanh kẹo ngũ cốc, xem có các đĩa DVD nào (sau này mới biết chẳng có khỉ gì cả; có lẽ lúc nào cũng cố ra vẻ hàng mới sắp về), nói chung là xáo tung ra xem nó có những gì vì nó là cửa tiệm duy nhất và là nơi duy nhất để la cà trong vùng mấy dặm quanh đây. Chuông reo lên khi tôi mở cửa, rồi im lắng trở lại cho tới khi tôi khọt khẹt ho lên. Tôi đâu có tính trước chuyện mình bị ngạt thở. Cha nội ơi, cái mùi thiệt là khó chịu.

Cái tiệm bốc mùi mấy ông già quê kệch tồi tàn, và một thứ gì đó còn kinh tởm hơn nữa mà ban đầu tôi không dám rớ tay đến. Không chỉ có cái mùi khó chịu mà thôi. Mấy trái táo để lâu trở nên vàng ủng và héo queo. Giấy gói mấy thanh kẹo sô-cô-la quăn lại và phai màu vì nằm quá lâu dưới ánh nắng chiếu qua cửa sổ.

Một mô hình tào lao của chiếc máy bay có cánh quạt dây thun bày bán, trông cũ mèm hàng ba chục năm rồi. Nhưng cái ớn nhất là quầy hàng thực phẩm có một mớ các chậu cũ mèm đựng kem, đủ thứ màu trong đó, miệng chậu dính bệt khô queo, ruồi nhặng bò quanh thấy mà ghê. Ngay cả chuột cũng phải suy nghĩ lại xem có nên thưởng thức nó không, như có lần ba nói về món lasagne [7] mà chúng tôi ăn ở xứ Scotland.

Một lối đi nhỏ dẫn ra đằng sau, được một tấm màn bằng những dải nhựa nhiều màu chia đôi ra. Sau một phút nghía quanh và cố không nôn bữa ăn sáng ra, tôi thấy một đôi dép kẻ ca-rô hiện ra dưới bức màn, rồi một cái bụng ẩn sau chiếc áo len và một cái đầu bù xù vẹt mớ dải nhựa ló ra. Đó là lần đầu tiên tôi diện kiến Lão Khắm.

Đôi mắt lão mọng nước, như lòng trắng trứng chưa được nấu chín, da lão xám xịt, tóc trên đầu vàng-xám như không khí trong quán rượu, còn bộ râu xồm xoàm như một mớ đồ chùi nồi xịn dính lên cằm. Khi lê người tới trước, lão phải vịn lên quầy để giữ thăng bằng. Móng tay lão đen thui, có vảy máu khô và vết loét ở các khớp ngón tay, thuốc dán che lên những vết còn ướt. “Gì nè?” lão hỏi. Khi lão nói, một tiếng lách cách vang lên từ sâu trong lồng ngực nghe như có ai đó đang giật sợi dây xích bồn cầu trong một ngôi nhà lớn. “Tôi giúp gì cho cậu được đây, hả chàng trai?”

Cũng như cái mùi của cửa tiệm, Lão Khắm có cái mùi riêng rất đặc thù của mình. Nó có từ sáu mươi điếu thuốc một ngày, và rượu, và quần lót ny-lon quá chật và cũ mèm, nhưng có thứ gì khác trong đó quen thuộc đến kinh tởm. Tôi ngó lảng đi, cố không nôn món thịt xông khói và nước cam chực trào ra khỏi cổ họng, và tự hỏi mình đã từng ngửi thấy cái mùi đó ở đâu rồi. Rồi tôi chợt nhớ ra.

Ba trong bệnh viện, nằm đối diện với một ông già quê kệch trông giống như thần chết. Ông già này có cả mớ ống gắn lên người, kể cả ở dưới sàn nhà, và nhiều lúc khi má con tôi ở đó thì ông già hất tung chăn ra, nằm trần truồng tồng ngồng như một con gà trong siêu thị mà có người đang làm thí nghiệm gì đó với nó.

Rồi y tá vào đắp lại nhưng chân ông luôn thò ra ở cuối tấm chăn, hướng về giường của ba. Và ở giữa các ngón chân có thứ gì đó kẹt lại trông như phô-mai kem để lâu, trước đây có màu trắng nhưng đã biến thành màu vàng ở viền bên ngoài (phô-mai kem sẽ trông giống như vậy nếu Lão Khắm trữ nó lại trong các món được gọi là thực phẩm của lão). Nhưng vấn đề của món bựa-kẽ-chân này là nó không chỉ trông gớm ghiếc mà thôi. Thỉnh thoảng tôi ngửi thấy một mùi thối, trong lúc ngồi ở cái ghế thô cố giả bộ với ba rằng cuộc đời của tôi và của ông là rất ổn, và khi cái mùi đó xông vào mũi tôi thì cứ như là cả một triệu ngày dưới địa ngục cô đọng lại thành một phần giây thôi. Và giờ thì tôi biết được cách mô tả cái mùi đó.

Nó là cái mùi của Lão Khắm.

“Có xúc xích cay không?” tôi ráng hỏi.

“(Khúc khắc ho) Xúc xích cay là cái gì (thở khò khè)?” Lão Khắm hỏi lại.

“Thôi được.” tôi đáp vội, lùi ra. “Còn bánh mì ciabatta [8] có không?”

“Mày giỡn hả mậy?” ông nói, rồi móc trong túi áo ra một gói thuốc lá.

“Ồ, không. Không có chuyện gì đâu. Chào ông nghen.”

Tôi đạp xe như phát khùng sau khi vù ra khỏi tiệm, chạy tắt theo vệ cỏ của con đường rồi rẽ trái lên đồi về hướng nhà. Khi cái mùi thối hoăng của Lão Khắm vẫn còn vương vất trong mũi, tôi thấy thằng nhóc cố chôm mất cuộc đời của tôi, lần đầu tiên.

Khi tôi rẽ ra khỏi đường cái thì trời bắt đầu đổ mưa, tiếng lộp độp vang to như trứng vỡ trên con đường làng mù bụi. Qua những cành lá vắt ngang trên đầu, bầu trời trở thành một màu tím bầm, màu của những trái mận tía ở vườn sau mà má giả vờ vui lắm khi thấy chúng. Chẳng mấy chốc mưa đổ rào rào nặng hạt như đá rơi, xô rạp đám cỏ cây bên vệ đường, đập lên lưng tay bàn tôi đang đặt trên tay lái. Tôi nhảy xe qua mặt đường nhựa và trượt lên bờ đường đến thân cây gần nhất bên đường, nhảy khỏi yên xe, rồi nép sát người vào lớp vỏ cây xù xì và ấm lạ kỳ.

Cơn mưa xối xả đã biến một bên con đường thành dòng suối cuộn chảy hung hãn, nhưng chỗ tôi đứng, ẩn dưới một góc thân cây, thì lại gần như hoàn toàn khô ráo. Tôi đứng đó, hai tay dang ra áp vào thân cây, ngực tôi nép vào lớp vỏ cây, dõi mắt nhìn cơn mưa sầm sập bao phủ đất trời, hơi run vì cái lạnh ập đến. Và kìa, một bóng người bước đi trong màn mưa.

Trông hắn như trôi lướt đi hơn là chỉ bước. Chân không gây chút tiếng động nào, hay tiếng mưa quá lớn đã át đi những âm thanh nhỏ hơn. Và không có dấu hiệu nào cho biết bóng người - giờ thì tôi nhận ra rõ hơn, một thằng bé cỡ tuổi tôi – biết rằng trời đang mưa. Vì ai cũng có phản ứng lại với thời tiết. Nếu trời lạnh thì người ta gập người lại, nếu trời nóng thì người ta bày thân thể mình ra đón ánh mặt trời, người ta ngước mặt lên như một đóa hoa vào buổi sáng. Và nếu trời đổ mưa xối xả thì người ta cúi đầu xuống và chạy tìm chỗ trú. Nhưng thằng nhóc này không chạy, hay cố bước mau chân, mà hắn cũng không cúi đầu xuống.

Bước thật chậm rãi xuống con đường làng, đi về hướng đường cái, vừa đi vừa hơi ngó quanh quất, như thể hắn là kẻ duy nhất trong hành lang ở trường và bị trễ giờ học, nhưng không quan tâm chuyện mình bị trễ, vì đó là môn học mà hắn luôn luôn thấy chán ngắt. Điều đó làm hắn trông hay hay cho dù qua màn mưa tôi thấy hắn gầy nhom, dong dỏng cao, bàn chân to, mang đôi giày thể thao và quần sọt chật có nhiều dây kéo, loại rẻ tiền, và có một đường ngôi rẽ giữa kiểu thông thường của người dân tộc vụng về.

Càng lúc hắn càng tiến gần đến. Chắc chắn giờ thì hắn đã nhìn thấy tôi. Hay nếu không thấy tôi thì cũng thấy chiếc xe đạp của tôi? Nép vào thân cây, tôi chờ khoảnh khắc hắn phát hiện ra mình và thét lên kinh ngạc. Nhưng hắn không hề nhìn thấy tôi. Tuy nhiên có điều gì khác xảy ra. Như một sự bùng vỡ của tiếng động trắng trong đầu, như thể đột nhiên tâm trí tôi là một máy thu sóng và một tín hiệu phóng vào trong nó. Một tín hiệu mà tôi không giải mã được. Nghe có vẻ ngu xuẩn, nhưng trong thoáng giây ấy tôi tự hỏi có phải thằng nhóc là một dạng khách lạ nào đó từ xa đến, đang cố bắt liên lạc theo một cách ngoài tầm hiểu biết của loài người. Và tất nhiên, rút cuộc thì hắn là một người khách lạ, nhưng không theo cái cách mà tôi có thể tưởng tượng ra lúc đó.

Kinh dị, tôi lắc mạnh đầu để rũ bỏ sự hỗn loạn đang náo động trong đó, rồi ấp úng nói điều gì đó, mời hắn cùng trú chung với mình: “Nè...” Nhưng tiếng mưa át mất giọng tôi rồi nhấn chìm nó trong dòng nước mưa tuôn xối xả trên mặt đường, tiếng nước mưa quất trên lá cỏ, và thằng nhóc vẫn cứ tiếp tục bước đi, ngang qua cái cây, ngang qua chiếc xe đạp nằm vắt ngang bờ đường lầy bùn, không thèm nhìn, không thèm nghe, không quan tâm, rồi biến mất ở góc đường.

Năm phút sau cơn mưa ngớt hạt nhanh như khi nó bắt đầu đổ xuống. Tôi lôi chiếc xe đạp lên khỏi bờ đường đằm nước và lau yên xe. Tôi định tiếp tục chạy về nhà thì mặt trời ló ra, chiếu xòe qua cành lá, biến nước mưa thành những làn hơi nước bốc lên trên mặt đường, rồi tôi đổi ý, quay xe lại và chạy xuống đồi. Ở mỗi ngã rẽ, tôi mong nhìn thấy thằng nhóc lững thững đi dọc theo bên đường trong cái dáng quái dị, quê mùa của hắn. Nhưng tôi không thấy hắn đâu cả. Tôi chạy đến đường cái, ngó qua trái rồi qua phải. Chẳng tăm hơi đâu cả. Tôi nhún vai, nghĩ rằng chắc hắn đã đi tắt xuyên qua đám rừng đến nơi hắn muốn đến, và trong một lúc, tôi quên khuấy thằng nhóc quái dị hiện ra trong mưa rồi lại biến mất vào trong mưa.

Tôi không biết mình nên đi đâu đây, tôi chỉ theo bánh xe trước mà chạy: rẽ phải hướng về cửa tiệm của Lão Khắm, rồi rẽ vào lối tay trái đầu tiên trước khi đến tiệm và đi thẳng lên con dốc của một đường làng hẹp có bờ rào cao chắn hai bên. Trên đỉnh đồi là một vùng bình nguyên mùa màng ươm vàng bạt ngàn. Con đường cắt ngang cánh đồng màu vàng và trải dài xuống một thung lũng rộng có nhiều cánh đồng và bờ rào xanh tươi chạy dài nhiều cây số đến một đường chân trời có đám cây nhấp nhô lởm chởm trông như những chiếc răng. Khung cảnh xa xa bất ngờ này làm tôi nghẹn thở. Tôi hít vào thật sâu, để trấn tĩnh lại và tẩy sạch mùi Bựa Kẽ Chân mà cơn mưa không gột sạch được. Tôi cười vang, nhớ lại Lão Khắm. Thật là một chuyện hay, tôi nôn nóng để kể lại... mà kể với ai đây? Tôi không biết ai để kể, ngoài má ra, và bà sẽ cho rằng tôi bất công và thô lỗ (đó là điều mà bà đã nói).

Dựa vào tay lái, tôi mải mê ngắm cảnh. Thế giới dường như vui tươi và thư giãn ra sau cơn mưa. Những con cào cào tạo ra âm thanh nghe như những cây vĩ cầm li ti ở ven đường. Chim hót líu lo trên tàng cây và không trung. Trên cao, một chiếc máy bay đang bay ngang qua bầu trời trong vắt. Tôi nhìn thấy nó và dõi mắt theo trước khi tiếng máy vang xuống qua bầu trời xanh. Và từ dưới chân đồi trước mặt vang đến một tiếng quang quác bị nén lại nghe như tiếng của hàng trăm con gà.

Mắt tôi dõi theo tiếng gà kêu. Ở chân đồi là một khu phát triển khá lớn có một ngôi nhà xưa bằng đá, rất lớn, có các ống khói cao, vô số khu nhà phụ và chuồng trại bằng kim loại, và những cây cao to, sậm màu, cành nhánh tỏa ra, mọi thứ được một hàng rào bảo vệ bao quanh lấp lánh trong ánh nắng.

Tôi đẩy xe đạp đến đầu con dốc dẫn vào thung lũng. Tôi không bao giờ thừa nhận với Vern hay Barry, hay cả với má, nhưng khi đứng đó trong ánh nắng, với tất cả những âm thanh vang lên dịu dàng ở đằng xa, và hơi nước bốc lên khỏi mặt đường, trông thật lạ kỳ và huyền ảo, tôi cảm nhận một niềm hạnh phúc, lần đầu tiên tôi cảm nhận được sau một thời gian dài, theo sau là một thôi thúc khôn cưỡng: phóng xe hết ga xuống thung lũng dưới đó.

Rạp mình xuống sát sườn ngang xe, tôi nhấn bàn đạp như điên. Tôi thấy đôi chân mình thật mạnh, giống như các bộ phận của máy, như những bộ phận xe đạp được tra dầu mỡ thật kỹ hơn là máu và xương và bắp thịt. Vỏ xe dày tạo ra một âm thanh uốn éo và nhanh trên mặt đường ướt, làm bắn tung lên một đám sương mờ bao phủ lấy tôi như một bình phun tưới cây. Tôi đạp mạnh, càng lúc càng nhanh, qua những khúc quanh không nhìn rõ.

Đây là con đường hẹp một xe chạy, rất thường có những chỗ xe chạy ngang. Tôi tự nhủ, không có lý do gì để giữ lề bên trái mãi. Toàn bộ con đường thuộc về mình tôi. Nhưng trong trường hợp có một chiếc xe hơi, hay xe kéo, hay loại cơ giới nào khác do mấy tay nhà quê lái ngoặt quanh góc đường, và tôi thì không có chuông hay còi xe, và bởi vì tôi nổi hứng muốn làm sạch hai lá phổi, tôi gào to lên khi đang chạy: “Mình muốn gì nào? Tiệm xăm mình và quán kebab! [9] Khi nào? Ngay bây giờ!” Và cứ thế mà tôi chạy, gió rít qua mũ bảo hiểm, bọn côn trùng nhảy tung vào mắt và môi tôi, hơi sương thấm đẫm đôi chân, phó thác vào hồn-loài-sói. Thật là sai lầm!

Khi con đường trở nên bằng phẳng, hàng rào bảo vệ hiện ra bên tay trái. Tôi vẫn gào lên khi đến khúc quanh cuối cùng. Tôi không xoay xở gì kịp. Tay tài xế đang lái ra khỏi lối ra từ trong nhà ở cuối rặng cây và chiếc xe tải nằm chình ình ngang mặt lộ. Tôi chỉ kịp nhấc tay lên khỏi tay lái theo bản năng. Tay lái va vào sườn xe tải, tôi văng ngược lại chỏng gọng trên mặt đường, chiếc xe đạp dính kẹt vào dưới chiếc xe tải và sứt càng gãy gọng tan tành.

Dòng chữ “quán kebab” bay lơ lửng trong không khí. Vậy mà kỳ lạ chưa, tôi không sao cả, trừ đôi tay bị trầy trụa rát ơi là rát. Tôi nằm đó, áp mặt vào bờ cỏ mịn màng. Có một cái bảng gỗ với dòng chữ đen được đốt in lên mặt gỗ cắm ở đó. Tôi phải ngẩng đầu lên để đọc nó. Nông Trại Hedge End Hall. Rồi tay tài xế trèo xuống khỏi buồng lái la lên, một tay khác chạy vụt ra khỏi lối đi đằng sau chiếc xe tải cũng la lên.

Ông Củ Chuối từ sau chiếc xe tải chạy đến tôi trước.

Hắn là Brian Cá Chua.

Má buồn giận lắm. Không phải với tôi, mà là với cuộc đời. Bà đã nghĩ rằng khó mà có chuyện nguy hại gì xảy ra ở cái xứ quê tuyệt vời này. Bà xem vụ tai nạn quá mức nghiêm trọng và khóc bù lu bù loa. Tôi nói không có gì lớn chuyện đâu. Tôi chỉ tông vào vào chiếc xe tải thôi mà. Chuyện như thế có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Và má giận dữ mắng tôi, điều này thật bất thường.

“Chính là ở điểm đó đó,” bà nói. “Nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu. Đúng là không còn nơi nào an toàn cả. Má dọn về đây để mình tránh những chuyện nguy hại. Vậy mà cũng không được.” Rồi má ôm xiết lấy tôi, làm tôi ngạt thở muốn chết luôn.

Tôi cũng rầu muốn chết vì chuyện đó: không phải vì tay chân trầy trụa và cái áo thun bị rách bươm, đó chỉ là chuyện nhỏ, nhưng là vì nó tạo cơ hội cho cha nội Brian Cá Chua len vào đời má. Sau cái tai nạn xe tải thì cha Brian sẽ lân la đến Lòng Chảo. Trước tiên ổng chở tôi về nhà bằng chiếc Land Rover Discovery của ổng, chiếc xe đạp cong vẹo để đằng sau, rồi đứng trong bếp ngó và cười trong lúc má lau các vết trầy ở tay tôi bằng thuốc khử trùng rồi băng lại (ngay khi chả về là má òa khóc hu hu). Rồi ông nằng nặc đòi mua cho tôi chiếc xe đạp mới, cho rằng chiếc xe tải của mình đã chắn con đường và mọi chuyện là do lỗi của mình (và lấy cớ để tới để gặp má. Tuy vậy, chỉ nửa chiếc xe đạp ngon lành thôi thì tôi cũng cho ổng làm chuyện đó). Rồi khi tình cờ đi ngang qua nhà, ông ghé lại nói ông nghĩ rằng đưa cô con gái Tally đến đây chơi sẽ là hay lắm, vì thấy tôi chưa có thời gian để làm bạn với ai. Trời ạ, để chơi! Với Tally!

Mọi người đang đứng trong bếp. Má mời Cá Chua uống cà phê, ổng nhận lời ngay, chuyện này làm tôi nổi khùng. Má đứng dựa vào mặt bếp, ngớ ngẩn cười như người máy. Đột nhiên tôi thấy lại hình ảnh thằng nhóc kỳ cục bước đi trong màn mưa. Ký ức về tiếng động trắng vang lên từ tai bên này qua tai bên kia xuyên qua óc tôi, rồi trước khi kịp hiểu mình đang nói gì thì tôi la lên: “Nhưng con có bạn rồi.”

“Ồ, con có bạn rồi hả cưng?” Má hỏi lại vẻ bối rối. Tôi suýt trả lời má là mình giả bộ vậy thôi, nhưng thật tình tôi không làm bộ. Thằng nhóc đã hát ậm ừ trong đầu tôi rồi tuy rằng tôi chưa từng gặp nó. Tuy nhiên, má lại hưởng ứng chuyện này. “À, tất nhiên rồi.” Má nói. “Má quên bẵng nó mất. Nó tên gì vậy ta?”

“Con sẽ nói cho má biết sau nghen.” tôi đáp. “Giờ con đi gặp nó đây.” Rồi tôi ra khỏi nhà và dọt xuống đường nhanh cái vèo, má la vói theo sau lưng: “Nhớ lấy theo đồ bảo vệ đầu gối và cùi chỏ nghen,” mấy món này má mua cho tôi sau vụ tai nạn mà tôi chẳng hề mang vào, tôi nhét chúng trong ba-lô.

* * *

Chính thằng nhóc xuất hiện một cách hữu hiệu như thế đó, nó quay tôi như quay một hột xí ngầu, nó điều chỉnh tôi mà tôi không mảy may nhận ra vào lúc đó. Chuyện xảy ra một vài ngày sau khi ông Brian gợi ý về chuyện đưa Tally tới chơi. Trời lại đổ mưa. Gió thổi mạnh làm cây cối oằn xuống, và cành lá rầm rào. Tôi đang nằm trên giường nghe nhạc rock bằng dàn máy dởm, không nghĩ về thằng nhóc đã đành, thiệt là kỳ cục, cũng không nhớ gì tới ba tôi, mà lại hình dung ra Camden Lock, nơi xa lơ xa lắc, mất cả một giờ bốn mươi lăm phút để tới, thì tôi nghe tiếng vỏ xe nghiến trên lối vào nhà. Tôi ngó ra thấy ông Cá Chua và hòn bi bự tóc vàng, cái kính-mọt-sách dày cộm của cô con cưng ngồi kế bên trên ghế trước chiếc xế Cá Chua. Họ đến rồi, nguyên bộ sậu, và tôi biết rằng mình phải chuồn ngay thôi, mưa bão gì cũng mặc.

Phải tính thời gian sao cho đúng. Tôi chui ra khỏi mấy cái cửa sổ nằm ở cuối ngôi nhà, ngay bên dưới phòng ngủ của tôi, và chờ ở đó cho tới khi nghe tiếng má gọi tôi, có nghĩa là lúc này gia đình Cá Chua đã vào nhà rồi. Rồi tôi chạy vòng ra sau nhà đến ga-ra, cúi người thấp hơn mấy cái cửa sổ. Khi chạy được đến chiếc xe đạp thì đã ướt mèm, nhưng tôi mặc kệ. Tôi dắt xe xuống lối đi, nhảy lên yên và chuồn vào vùng ngoài tầm ảnh hưởng của Cá Chua.

Tôi tháo vè chắn bùn ra khỏi chiếc xe mới vì chúng làm cho chiếc xe trông rất dởm, giờ thì tôi không chỉ ướt mèm nước mưa mà thôi, mà bùn trên đường bắn lên tôi cả đằng trước lẫn đằng sau. Nhưng chuyện nhỏ. Thật ra còn khoái nữa. Đã thấy thằng nhóc lầm lũi đi trong mưa như thể chẳng có mưa gió khỉ khô gì cả, thì tôi biết rằng chuyện bị ướt mèm là một trong những điều đã nhất mà bạn có thể làm, miễn sao trong mùa hè và do đó vẫn còn ấm. Bởi vì khi bạn ướt mèm rồi, thì một cách nào đó, CHẲNG CÒN CÁI KHỈ KHÔ GÌ LÀ QUAN TRỌNG NỮA. Cho nên tôi phóng vù vù xuống dốc về hướng đường cái mà chẳng nghĩ chút gì về chuyện mình đang đi đâu đây, nhưng cảm thấy rất khoái và tự do, rồi tôi vọt qua một thằng nhóc đang đi bộ dọc theo bên đường. Điều tôi làm tiếp đó được gọi là Tượng Thần Tự Do. Anh của thằng Barry Lunc bày cho tôi, có lần hắn biểu diễn trên cây cầu ở Camden Lock và làm cho một tay du khách người Nhật hoảng vía. Tôi xiết thắng trước, lắc mông xoay bánh sau, nhảy ra khỏi xe về bên phải, bóp thắng sau, nhảy lên bánh sau, phóng cả hai, vừa xe vừa người, lấy thăng bằng, vung nắm tay trái lên màn mưa (do đó trông tôi giống như bức tượng nổi tiếng kia, thấy chưa nào?), và thét vào mặt thằng nhóc: “Ê, hãy kính nể nó. Kính nể mưa. Chú mày có hiểu tao nói gì không?” Tất nhiên tôi nói bằng giọng London, cách duy nhất để nói một điều như vậy.

Chỉ vào lúc đó, hạ xuống thăng bằng trên bánh sau rồi, câu nói theo kiểu dân chơi London vẫn còn vang vang trong mưa gió, thì tôi mới nhận ra thằng nhóc này là anh chàng tôi đã thấy trước đây. Nước mưa làm xẹp lép mớ tóc, chúng rũ rượi chảy xuôi xuống má, nên trông như thể có ai rót một thùng dầu ăn lên đỉnh đầu hắn. Miệng hắn há hốc vì kinh ngạc khi thấy gương mặt bự sự của tôi. Tôi tưởng tượng ra cảnh gặp nó trên đường khi tôi la cà với Vern. Chúng tôi sẽ thúc khuỷu tay vào nhau và cười khúc khích. Giờ thì tôi thấy hắn rõ hơn, có vẻ như toàn thể ấn tượng về hắn đều trật lất. Tóc hắn để dài nhưng trông không sửa soạn gì cả, nó cứ mọc như bụi cỏ dại, và đường ngôi thì đúng là mọi chính hiệu. Cái áo thun và quần sọt thì đối nghịch với mốt hàng thụng, cái mốt duy nhất coi được theo con mắt của chúng tôi ở Camden. Coi chân với cẳng kìa! Que diêm cắm vào khúc xúc xích cỡ bự. Và khi hắn mở miệng cóc, nghe chán ngắt trong cái giọng quê mùa: “Trời mưa ít hơn trước đây.” hắn nói. “Mực mưa xuống khá thấp quanh vùng này trong vài năm qua.”

Tôi không hiểu hắn muốn nói gì, điều này làm tôi cảm thấy mình ngu quá, đặc biệt là sau cái màn phán đoán lầm về Tượng Thần Tự Do. Tôi gật đầu và nhảy xuống xe. “Nè, mày làm gì vậy?” tôi hỏi. Không bằng giọng London, chỉ nói như bình thường.

Và giờ đây, đứng đối diện nhau, tôi nhận ra vài điều khác. Sao lần đầu tôi lại không thấy ta? Hắn không có dái tai, hay ít ra thì dái tai của hắn không có lòng thòng. Hắn là một thằng đầu cá trê như tôi. Như má và như ông tôi và, ai mà biết, chắc là nguyên một nghĩa trang đầy những tổ tiên đầu cá trê của tôi.

Nhưng nếu hắn nhận ra cái đặc điểm cơ thể khác thường mà chúng tôi cùng có, thì hắn không để lộ ra điều đó. Hắn chỉ nhún vai rồi nhìn tôi chằm chằm. Một giọt nước mưa đang lớn dần lên trên đầu mũi nhưng hắn không phủi đi hay lắc mạnh đầu cho nó rơi ra.

Tôi hỏi: “Mày có ở gần đây không?”

“Không xa lắm. Còn mày?” hắn vẫn cứ ngó tôi.

“Ngay sau kia.” Tôi ra dấu bằng ngón tay cái chỉ qua vai. Tuy nhiên thằng nhóc không nhúc nhích hay biểu lộ điều gì.

Có lẽ hắn mắc chứng tự kỷ. Đột nhiên mọi chuyện có vẻ quái gở, đứng đây mất thì giờ với cái thằng chẳng ra gì này. Nó đâu phải là người khách đến từ ngoài vũ trụ, mà chỉ là một gã nhà quê. Ý nghĩ này làm tôi buồn phát bệnh. Chắc là mọi đứa nhóc quanh đây đều giống vậy. Không mong gì có bạn, tất nhiên trừ phi tôi chọn một đường đi vòng, tránh cá tính và tính khôi hài, và trở thành một đứa trong đám. “Dù sao...” tôi nói, và bước quanh thằng nhóc, định tránh xa nó ra càng nhanh càng tốt.

Có lẽ chỉ là chuyện tình cờ thôi nhưng hắn cũng di chuyển theo cùng lối và cùng lúc, và rút cuộc là chặn đầu tôi. Tôi ngó xuống đôi bàn chân thô kệch khổng lồ của hắn, cố ra hiệu bằng mắt cho hắn biết rằng hắn đang xâm phạm vào không gian của tôi và tôi muốn đi tiếp.

Hắn không hiểu cử chỉ bóng gió của tôi mà còn hỏi: “Nè, mày tên gì vậy?”

Tôi thở dài, vì tôi không hãnh diện về cái tên chút nào và đáp: “Mungo.”

Cái tên tác động lên thằng nhóc thật kỳ dị, như thể một thây ma bị hội chứng rối loạn thần kinh. Hắn nhấc tay lên và run rẩy như là một tay thuyết giáo khôi hài, hắn gục gặc đầu lia lịa, rồi ngửa đầu ra sau gào lên bầu trời mù mịt mưa: “À!”

Hắn phát khùng rồi sao? Tôi nghĩ bụng và hỏi: “Mày có sao không?” vừa ghì chặt tay lái xe đạp, chỉ muốn chuồn ngay thôi.

Hắn lại trở nên yên lặng và bình tĩnh, và lại tiếp tục nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi có một cảm giác lạ thường, như nỗi sợ của loài súc vật. Nếu tôi mà là một con sói thì tôi đã lùi khỏi thằng nhóc và hú lên.

Hắn nói: “Tao không sao.” Rồi cười khằng khặc.

“Cười cái gì vậy?”

“Mày muốn biết thiệt hả?”

Tôi nhún vai, không dưng thấy vừa quê vừa sợ.

“Tên tao cũng là Mungo.” thằng nhóc nói.