← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Elvis vẫn hát mặc kệ mọi chuyện. Má hướng về phòng tôi thét lên: “Tắt, tắt ngay. Tắt. TẮT.” cho tới khi Vern nghe thấy và tiếng nhạc ngừng lại. Rồi má ngó chằm chằm vào chân tôi, chân tôi trong đôi giày của ba. Tôi cũng ngó xuống chúng. Giờ thì chúng không nhúc nhích cục cựa gì nữa, im ru. Chúng trông giống như đôi chân của tên hề. Má nói: “Sao mày dám quậy vậy?”

“Sao con dám cái gì?” Tôi thành thực hỏi.

Bà lắc đầu, nhép môi, nhưng không nói ra lời. Rồi những từ cũng thốt ra: “Mày biết rõ mà, Mungo. Quậy tưng lên – quậy tưng lên với những đồ đạc của ba mày.”

“Nhưng,” tôi nói, “con...” Tôi không tin điều má đang nói, và những điều má kết tội tôi. Nó ngược với sự thật.

Khi tôi nhấc chân ra khỏi giày, má quay qua ngó Barry chăm chăm, thằng này đang đội quần lót của má và trông giống như một thằng tâm thần bệnh hoạn. Barry bỏ cái chai thuốc của Vern mà hắn đang lắc xuống cạnh giường, rồi ngó xuống thảm trải phòng, nhưng không lột cái quần lót và áo ngực mà hắn đang mặc ra. Nếu tôi đã không hoảng quá thì điều này thật là buồn cười, bởi vì hắn trở nên một tên đần độn hơn cả Vern và tôi đã nghĩ. Má nhặt cái chai lên, nhìn cái nhãn hiệu và nói: “Cô không biết cháu đã bị mãn kinh rồi, Barry à.”

Barry nói: “Hả?”

Má lắc đầu ngó thằng Quái thú, hắn vẫn đang ngó xuống thảm trong lúc đang mặc đồ lót của bà. “Ít ra cũng biết thẹn ha,” má nói.

Barry ngó lên, miệng há ra nhưng không cử động hay nói năng được tiếng nào. Tôi thì thầm với hắn: “Cởi mấy cái đồ đó ra kìa, đồ ngu.”

Barry nói: “À, quên,” rồi với tay tháo dây móc áo ngực ra. Má khoanh tay ngó ra ngoài cửa sổ, giậm chân và nắm chặt chai thuốc của Vern trong tay phải, trong lúc Barry cởi mớ đồ rối rắm ra khỏi người. Hắn cẩn thận đặt cái áo ngực và cái quần lót lên giường, như thể chúng quí giá và là đồ rất dễ vỡ.

“Chúa ơi, cứu giúp chúng con.” Má lẩm bẩm, rồi quay sang chúng tôi, bà nói: “Xuống dưới nhà ngay. Đi liền.” Rồi sực nhớ ra còn thiếu một mạng, bà nói: “Cứ tin thằng Vernon là đứa duy nhất đàng hoàng.” Tôi chỉ ngó sững bà. Hai lần không thể tin nổi. Má đi vào phòng tắm và gọi qua cánh cửa mở vào phòng ngủ của tôi. “Cả cậu nữa, Vernon. Xuống dưới nhà ngay.”

Má đặt cái chai thuốc của Vern ở giữa bàn bếp, rồi khởi đầu bằng câu mắng Barry thật gay gắt. “Tại sao cậu dám làm thế? Tại sao cậu lại cả gan như vậy hả?”, bà thúc mạnh vào vai hắn: “Mang cái thói thô lỗ của cậu về đây à? Những người ở đây đã làm gì với cậu để đáng bị cậu giở trò hỗn xược như vậy?”

Chúng tôi nhìn nhau. Bà đang nói điều gì vậy? Tôi hỏi: “Cái gì vậy má?”

Bà quay qua tôi. “Con biết cái gì mà, Mungo. Con bày cho nó. Ba cái trò rác rưởi kẻ cả về những người quê mùa kia. Cái gì làm cho con nghĩ là con hay ho hơn người ta chứ?”

“Bọn quê mùa.” tôi nói. Có hiệu quả ngay. Má đã nói chuyện với cha Cá Chua và ông mách lẻo về chuyện Vern đưa ngón tay ra dấu chửi khi ông lái chiếc xế Cá Chua ngang qua. Má cho Barry là đứa đã làm chuyện đó bởi vì bà có thành kiến với Barry. “Đồ mách lẻo.” tôi nói. “Cha Cá Chua này đã méc bọn mình.”

“Ông ta đã run lên vì giận đó. Người vùng này không quen với cái kiểu gây hấn vô cớ này. Và rồi...” - má gõ gõ đầu ngón tay cái mềm lên trán - “làm má phát điên lên, nhưng nửa giờ sau chuyện đó lại xảy ra tiếp trên đường cái. Nói cho cậu biết nè, Barry, cậu lại giơ ngón tay chửi một ông cảnh sát hết giờ làm việc nữa, vậy đó.” Chúng tôi cười khúc khích vì má đã nói “giơ ngón tay”.

Tôi hỏi: “Làm sao má biết vụ đó vậy?”

“Bởi vì đây là một cộng đồng sống rất mật thiết với nhau, nơi mà mọi người vẫn trò chuyện với nhau. Nhưng các cậu không biết điều đó.”

Tôi nói: “Thật là một nơi khủng khiếp, ai cũng biết chuyện riêng của mọi người khác và họ cố bắt người ta làm điều người ta không muốn. Và dù sao đi nữa thì má đã hoàn toàn nghĩ sai về Barry. Không phải là Barry đâu. Chỉ là vì má có thành kiến xấu bởi vì Barry không có ba má làm việc cho Hội đồng Camden. À còn nữa nè, con cũng không có cha, và má của con thì làm cho cửa hàng từ thiện được mười pao một ngày, bán đồ vớ vẩn cho người chết. Không chỉ vậy... Bả... Bả...” Tôi tính nhắc tới cái ‘áo mưa’ của má. Nhưng tôi không nhắc, tôi không thể nhắc, trong đầu tôi mọi chuyện đang lộn tùng phèo. Giây phút đó qua đi và tôi biết là đã quá trễ.

Tôi không nhận ra rằng mình đang gào lên cho tới khi ngừng lời. Má đang ngó tôi trân trối. Vern và Barry đang nhìn xuống sàn nhà. Tôi muốn Vern nhận lấy về phần mình những gì hắn đã làm, nói rằng chính là hắn, chứ không phải Barry, là đứa đã giơ ngón tay chửi mấy chiếc xe đó.

Nhưng tôi biết hắn sẽ không bao giờ làm thế.

Má nói với tôi: “Vậy ra là chính con hả, đúng không? À, ít ra là con cũng đàng hoàng thừa nhận lỗi mình làm.”

“Ôi, khốn kiếp thật, quên vụ đó đi,” tôi nói.

Má cười gằn, hai môi mím chặt: “Nè, tin má đi, má còn chưa bắt đầu mà.”

Má tiếp tục cằn nhằn về những chuyện bà đã bắt gặp chúng tôi làm trong phòng ngủ, chuyện nhảy múa với nhạc của Elvis trong khi đội quần lót trên đầu thì chẳng vui vẻ hay hay ho gì, nó là hành vi tội lỗi và quấy rối và tất nhiên bà phải méc lại điều này với mẹ của Vern và Quái thú, để cho chúng biết tay (á à...à). Rồi bà cầm cái chai thuốc của Vern trên bàn lên và nhìn chúng tôi từng đứa một. “Ai sẽ lên trước đây?” bà nói. “Ai sẽ đứng ra giải thích mấy chuyện này đây? Mungo hả?”

Tôi nhún vai.

“Barry hả? Cậu đã đem cái chai này theo, tôi biết mà.”

Quái thú đáp: “Không phải cháu.” nhưng giọng hắn không thuyết phục bởi vì hắn là loại người cảm thấy hối hận ngay cả khi mình vô tội.

“Tôi hiểu rồi,” má nói.

Bà không thèm tính tới chuyện hỏi Vern. Bà nghĩ rằng mình đã tìm ra kẻ tội phạm và điều đó làm cho tôi bỗng hết sức tức giận, tức giận đến nỗi tôi nói toạc ra.

“Không, má không hiểu,” tôi nói, “Má không hiểu cái khỉ gì cả. Vern đem mấy cái đó tới, được chưa? Mấy cái đó là thuốc của Vern. Nó chôm của má nó. Con không chơi viên nào cả.”

Má trừng mắt nhìn tôi rồi quay qua nhìn Vern. Vern ngó tôi, và tôi thì ngó xuống đất. “Có đúng vậy không Vernon?” Má hỏi.

Và lần đầu tiên Vern không thèm ra vẻ nhũn nhặn tử tế với má. Hắn chỉ nói: “Sao cũng được.” theo cái giọng rặt Camden, và tôi biết hắn không thèm ngó ngàng gì má, suốt lúc đó hắn cứ ngó chằm chằm vào chỏm đầu tôi trong khi tôi ngó xuống sàn nhà, đôi mắt sáng rực của hắn truyền tất cả những thứ rác rưởi tệ hại vô trong đầu tôi.

Biết sao không, tôi không bao giờ gặp lại Vern sau giây phút tôi mách lẻo về hắn. Tôi gặp Barry thêm một lần nữa, bạn sẽ nghe kể lại sau này.

Má cấm cửa tụi nó không cho về đây nữa, và tôi cũng không được lên Camden để gặp chúng, rồi bà đưa chúng ra nhà ga; tôi ở lại ngôi nhà vườn dùng thời gian khởi động Kế hoạch A, bằng cách nhét vào ba-lô vài món đồ mà tôi có thể cần cho quãng đời kế tiếp. Khi má từ nhà ga trở về, bà gọi cho mẹ của Vern và Barry và kể cho họ nghe mọi chuyện kể cả chuyện chơi thuốc, sau đó bà gọi tôi xuống nhà bếp.

Má lại cầm trên tay chai thuốc. Bà đã nói với mẹ của

Vern trong điện thọai là bà giữ thuốc lại cho an toàn. “Con có biết đây là cái gì không?” bà hỏi. “Cái nhãn hiệu trên chai thuốc nói gì vậy?”

“Con không biết.”

“Cầm lấy đọc đi.”

Tôi lấy cái chai và đọc cái nhãn. Tôi chưa bao giờ thấy chữ đó. Tôi không biết làm sao đọc nó lên. “Deepo, pro, gì gì đó.” Tôi nhún vai và để cái chai trở lại trên bàn.

Má nói: “Depo-Provera là tên của một thứ gọi là progesterone. Con có biết progesterone là cái gì không? Đó là chất hóc-môn người ta dành cho đàn bà trong khi họ mãn kinh. Con có biết mãn kinh là gì không?”

“Sơ sơ thôi.”

“Mãn kinh là gì?”

“Là điều gì đó liên quan tới mấy cái trứng.” Tôi cười khúc khích. “Vậy Vern sẽ bị sao không? Nó sẽ sinh em bé không?”

Má đấm nắm tay xuống bàn. “Không phải chuyện đùa đâu, Mungo,” má la lên. “Con nghĩ là con thông minh lắm sao. Con nghĩ con biết hết nhiều chuyện. Vậy mà con không biết cóc khô gì.”

“Từ đó là khỉ khô...” đó là một từ của ba. Tôi nghĩ tới cái ba-lô đã sắp sẵn trên lầu, và chờ cho má la tiếp. Chúng tôi đã không cãi nhau khi ba còn sống, không cãi nhau như thế này. Con sói của tôi đang ở cạnh tôi đây, và tôi nghĩ là má cũng có một con sói vô hình, ngay bên cạnh bà. Khi ba còn sống thì không có con sói nào trong nhà. Những con thú hoang dã duy nhất là những con đã bao bọc mũi giày da báo của ông, và đó không phải da báo thật. Không có con gì bị giết hại trong việc làm ra giày của ba ngoại trừ một con bò mà trước sau gì người ta cũng sẽ giết thịt. Nhưng giờ thì thế giới đã khác rồi.

Má nhìn vào mắt tôi. Má nói: “Má không mắc lừa con đâu.”

“Ba sẽ nghĩ rằng vụ này thiệt mắc cười.” tôi nói. “Lần tới mà gặp Vern hẳn ba sẽ nói: 'Cục u chưa thấy bự lắm hé, Vernon?'”

Tôi biết điều mình nói là sự thật. Tôi ngó lại vào mắt má, để buộc bà phải công nhận điều đó. Má nói: “Hãy nói cho ra lẽ chuyện này đi, một lần rồi thôi. Ba con đã chết. Không có gì thay đổi điều đó được. Con có thể giận dữ và quậy tưng lên như con muốn. Con có thể mắng chửi má, nói dối má, làm khó má, nhưng ba con hổng về lại đâu. Con có hiểu không?”

Tôi đứng dậy. “Má làm con nhức đầu quá,” tôi nói. “Con đi nghe nhạc đây.”

Má đập bàn tay xuống bàn, la lớn. “Ngồi xuống. Con vẫn không hiểu, hả? Vậy để má nói rõ từng tiếng cho con hiểu. Con sẽ học để điều chỉnh cho thích hợp với đời sống ở đây. Má thấy con không hành xử lịch sự với Brian một cách đúng đắn, con sẽ nói chuyện với một ông bạn của nhà mình làm cảnh sát, ổng sẽ dạy con đôi điều cho phải phép. Con sẽ gặp Talullah Boland...”

Tôi hét to: “Dẹp đi. Hổng có chuyện đó đâu”

Không tin được. Má bạt tai tôi. Chính bàn tay đập xuống bàn lúc nãy vươn ra và tát vào mặt tôi. Gò má tôi nóng rực như một cái bóng đèn. Tôi chạy ào lên phòng mình.

Tôi nằm trên giường nhìn bầu trời tối dần qua cửa sổ. Chim đang hót như lũ khùng, những bài hát vui tươi rằng Chào mừng bạn đến với Manuresville. Không phải là lỗi của chúng. Chúng không biết điều khủng khiếp đã xảy ra.

Tôi cố gắng tập trung vào những điều nhỏ nhặt, để đầu óc không bị ám ảnh về chuyện lớn, đó là cái thắc mắc về con sứa của má và nó mang ý nghĩa gì, cách nói khác là... Nhưng tôi ngừng ý nghĩ ấy lại và một ý khác, ít nguy hiểm hơn thay vào: Tay cớm mà má đang nói là cha nào đây? Ba không ưa bọn cớm, ổng sẽ không mời một tay nào vào nhà này. Chắc chắn ba không mời một tay vào đây để lên lớp tôi về cách hành xử ở đời. Gò má tôi vẫn đau nhức.

Dưới lầu, chuông điện thoại reo lên. Chắc bà đang tán chuyện với Barbara. Tôi biết chắc rượu vang đã mở và chai đã hết một nửa. Tôi nghe tiếng cửa nhà bếp mở. Má bước qua phòng nghỉ mát mùa hè và đi được nửa đường cầu thang dẫn lên lầu. Im lặng một chút, rồi bà lên tiếng: “Mungo?” Tiếng của bà nghe thật gần.

Tôi không đáp.

“Con muốn ăn pizza không?”

“Không.”

“Con phải ăn.”

Tôi không đáp.

Má đi tiếp lên lầu. Bà đang đứng ngoài cửa. “Lẽ ra má không nên đánh con. Má xin lỗi.”

Tôi không đáp.

“Má vô được không?”

“Không. Con đang ngủ.”

Tôi nhìn cái nắm cửa, chờ cho nó xoay, chờ má vào.

Nhưng nắm cửa không xoay, rồi má trở ra cầu thang. Tôi ước gì tôi đã nói “Ăn” với bánh pizza.

Ban đêm, những ý nghĩ lại trở về, và lần này tôi đã không thể ngăn chúng lại. Đầu óc tôi giống như một bãi biển và những ý nghĩ giống như những cơn sóng lớn giận dữ, từng cơn từng cơn vỗ vào bờ, tan tác.

Má tôi đang yêu đương. Hay đang định yêu đương. Chỉ có một kẻ duy nhất mà bà có thể làm trò yêu đương hay dự định làm mà thôi.

Thôi... thôi đừng nghĩ tới chuyện đó.

Nhưng tôi phải nghĩ cho tới nơi tới chốn.

Cha Cá Chua.

Má đang làm chuyện yêu đương với cha Cá Chua. Hay là đang muốn làm thế.

Má đã vất đôi giày ra chỗ khác và bỏ con sứa vào thế chỗ. Má không biết hay quan tâm cái vệt thuốc chống nắng đã làm ố chiếc giày trái. Bà quá bận rộn suy nghĩ về chuyện cặp bồ với cha Cá Chua – hay... nghĩ khác đi... có lẽ đã cặp bồ cha Cá Chua rồi. Ví dụ, khi tôi lang thang bằng xe đạp ở ngoài, thì hắn có thể mò tới và hai người có thể làm vụ đó. Có thể họ đang làm rồi. Thêm một ý nghĩ tồi tệ nữa: Cái con sứa này mới hay cũ đây? Có phải là cái mà bà đã xài với ba hay bà đã đi mua cái mới đặc biệt dành cho cha Cá Chua? Và điều nào tệ hơn điều nào?

Những ý nghĩ đó đã là tệ rồi. Nhưng rồi những cơn sóng to nhất trong mọi con sóng đã đập vào bờ, giống con sóng thần hơn là sóng thường. Một mảnh vỡ của cơn ác mộng mà tôi đã có khi ở dưới cái giếng trở lại với tôi: cái cảm giác cha Cá Chua là ba của tôi và tôi thấy bất lực với nó. Tôi nghĩ, có thể má đã ngoại tình trong nhiều năm nay, trước khi tôi ra đời và sau này nữa. Có thể, như một kết quả, Cá Chua đúng là cha tôi – đó là cơn sóng thần số một.

Và giờ là cơn sóng thần số hai, theo nhanh ngay sau: có thể tôi có một thằng anh em khốn kiếp bí mật nào đó, và thằng anh em khốn kiếp này có một cái tên: Mungo, ví dụ vậy. Rõ ràng, thật sự vậy - hắn có cái đầu cá trê giống tôi, và không phải thế thì làm sao mà hắn biết tất cả mọi chuyện về ông cố ngoại tôi?

Thôi đừng nghĩ tới chuyện đó nữa. Hay là, cứ tiếp tục, bắn vỡ sọ tôi đi.

Khi mà cơn sóng thần đôi này đập mạnh vào bờ thì nỗi thôi thúc đầu tiên của tôi là thực hiện Kế hoạch A ngay lập tức. Ngay tại đó vào thời điểm đó, mặc kệ là mấy giờ, nghĩa là lúc bốn giờ sáng. Nhưng rồi tôi tưởng tượng con sói bước ra đường trước mặt tôi và đôi mắt vàng lóe lên một lời cảnh báo, bảo tôi phải bình tĩnh, để nghĩ cho kỹ lưỡng. Tôi không có xu nào. Chỉ trong vòng vài giờ là tôi sẽ bị phát hiện và phải trở về nhà mà không còn manh giáp. Vả lại, số phận của tôi là thế, cha Cá Chua sẽ là người tìm thấy tôi, điều đó sẽ làm cho hắn càng trở nên một vị anh hùng trong mắt má.

Không, tôi phải làm theo cách bình tĩnh và khôn ngoan của loài sói. Tôi phải chơi trò chơi của má, có nghĩa là làm theo kiểu hành xử quê mùa kỳ cục. Tôi phải cười nói với má, và xung phong giúp bà cạo sơn ra khỏi các vách tường, và khen, ô kìa màu sơn cho căn phòng nghỉ hè khốn kiếp mới đẹp chứ. Và khi đã sẵn sàng thì tôi phải hành động. Nhanh và êm thắm, như loài sói.

Đây là quyết định của sói, cái quyết định rốt cuộc đã làm những con sóng êm lắng lại, trở thành một mặt biển lặng, biển Caribbean, trên đó tôi trôi bồng bềnh và ngủ khò.

Khi tôi thức giấc vào buổi sáng thì cơn sóng thần đôi lại đập vào tôi. Cha Cá Chua là cha ruột của tôi và cái thằng quỷ cũng có tên Mungo là thằng anh em khốn kiếp bí mật đã đóng vai tôi suốt thời gian qua. Má nữa. Bà cũng là một phần của sự lừa dối, rõ ràng quá mà. Thậm chí tôi không thể buộc mình nhìn bà, nhưng khi bà làm cho tôi một cái săng-uých kẹp thịt heo muối thì tôi cố giữ bình tĩnh. Khi tôi ăn xong thì bà là người mở lời đầu tiên kể từ năm giờ chiều hôm trước. “Ông cảnh sát Strickland đang tới đây để nói chuyện vào mười hai giờ mười lăm; ổng nhiệt tình bỏ cả buổi nghỉ trưa. Má sẽ về vào lúc mười hai giờ. Làm ơn dọn gọn lại phòng của con nghen.”

Thế giới đang quay vòng vòng. Bản mặt cha cảnh sát nhà quê xoay vòng vòng quanh tôi. Bộ mặt ấy có màu vàng và đỏ với một bộ ria mép củ gừng. Dưới bộ ria, đôi môi rất đỏ và bóng, giống như những món nội tạng không nên mang bày ra. Những lời nói tuôn ra từ miệng ổng. Nếu những lời ổng nói có thể nhìn thấy được, thì chúng sẽ trông giống như cái cục đờm của thằng Khạc Đờm được trộn với bựa kẽ chân của Lão Khắm.

Tôi ngắm khuôn mặt ổng như ngắm trò cưỡi ngựa gỗ quay vòng ở hội chợ. Có lần ba đưa tôi tới hội chợ ở Hampstead Heath. Ông vui hớn hở vì thằng cha điều khiển mấy cái vòng quay đang mang đôi giày da báo.

Tôi tưởng tượng cha nội cảnh sát nhà quê chải bộ ria mỗi sáng trước cái gương trong phòng tắm. Ổng đưa cái mặt bự đỏ-và-vàng thật gần cái gương để có thể chải nó thật gọn gàng.

Sau đầu của tay cảnh sát nhà quê, cái bếp cũng đang quay vòng. Tôi cứ thấy cái chậu cây bay qua, đám cây ngoài cửa sổ. Má đang ở trên lầu trong phòng của bà. Tôi nghe tiếng bà bước trên đó. Có thể má đang kiểm tra coi con sứa đang ở đâu. Đầu cầu thang kêu cót két. Má đã vào trong phòng tắm. Má đã để cho chúng tôi có đủ thời gian để làm quen nhau. Ông cảnh sát nhà quê sẽ giảng cho tôi một bài về cuộc sống mà ta phải sống ở Bickleigh trên trần gian này, và tôi hẳn sẽ rất là biết ơn và thay đổi trong khoảng thời gian hai mươi lăm phút từ một đứa bướng bĩnh và gian giảo thành một chàng trai đứng đắn có quan điểm chín chắn lạ lùng về cuộc đời và một khát vọng làm bạn với Talullah Boland.

Không đời nào.

Đây là một số từ ngữ tuôn ra từ miệng tay nhà quê và hẳn giống như một dấu thập nằm giữa cục đờm và bựa kẽ chân nếu ta nhìn thấy chúng khi chúng kêu lộp độp xung quanh căn bếp: ý thức về quyền sở hữu, cách cư xử cẩn trọng phải phép ngắm chim, nói đúng ra là về sự đa dạng sắc màu lông chim mà tôi có thể thêm vào hì hì, tình nguyện vào đội tuần tra chống xả rác trong làng rơi xuống bạn như một TẤN GẠCH, cuộc đời không phải là một cuộc diễn tập, bạn có thể làm điều tệ hại nếu không xét đến việc tham gia một đội hướng đạo năng nổ mà chúng ta có trong làng.

Khi ông Củ Chuối ngậm miệng lại và những lời nói ngừng nôn ra, tôi mỉm cười nói: “Cám ơn ông nhiều lắm, ông cảnh sát Strickland ạ. Tôi sẽ ghi nhớ điều đó. Cám ơn đã bỏ thời gian tới gặp tôi.” Giọng tôi nghe như thể đến từ cuối một đường hầm dài hun hút tối mịt.

Sau khi ông Củ Chuối cút đi, tôi cũng mỉm cười với má và nói rằng ông Củ Chuối - tôi gọi ông là Ông cảnh sát Strickland- đã nói nhiều điều rất là thú vị mà tôi chắc chắn sẽ đón nhận và cám ơn bà đã mời ông ta tới. Rồi tôi nói tôi muốn mang những tấm hình xuống căn phòng nghỉ hè, và chồng đồ đạc bàn ghế lại, và chà sạch các vách tường để chuẩn bị sơn. Má cau mày, đột nhiên đánh-hơi-ra-chuột, nghi có điều gì khuất tất đây, và tôi biết mình đã ba hoa quá. Nên tôi cười lớn, nói: Thôi được rồi, con chạy xe đạp lang thang chơi vậy, và má vò tóc tôi mỉm cười đáp lại rằng bà sẽ đi làm ở cửa hàng từ thiện vào buổi chiều. Tôi nghĩ, con băn khoăn không biết đó có thật là nơi má sẽ đi không. Khi bà ôm tôi để từ giã, tôi phải thật cố lắm mới ôm lấy bà thân thiết, bởi vì tôi đang nghĩ đến chuyện bà ôm cha Cá Chua.

Má nghĩ là cuộc chiến tranh đã kết thúc nhưng thật ra thì nó vẫn chưa hề bắt đầu.

Khi bà đi rồi tôi chờ thêm khoảng mười phút để phòng hờ bà trở lại vì quên cái gì đó. Rồi tôi lên phòng ngủ của bà để xem bà có đem con sứa theo không. Con sứa vẫn còn ở dưới giường. Tôi ngập ngừng nhưng quyết định để yên nó ở đó. Tôi mở cửa tủ áo kiểm tra túi của các áo khoác và áo lạnh của bà. Tôi tìm thấy một đồng xu hai-pao, hai đồng xu một-pao, và thêm vài đồng khác tổng cộng là năm pao bảy mươi mốt xu. Nhưng món tiền nhiều là ở dưới nhà, trong cái lọ dán nhãn BÁNH QUY là hai tờ hai mươi pao. Tôi lấy tiền. Tôi cũng lấy một bọc sáu thanh lương khô ngũ cốc còn nguyên, một gói phô-mai đã mở, hai bọc phô-mai và hành củ chiên giòn, và một hộp nước trái cây. Bỏ tất cả các món này vào ba-lô cùng với cái áo ấm, cái ống nhòm của ông ngoại và cây dao gấp Swiss Army mà tôi đã bỏ vào đó tối hôm qua. Tôi đeo ba-lô lên rồi đạp xe đến ga Bickleigh. Kế hoạch A đang được tiến hành.