← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 11

Tôi bỏ mấy viên thuốc lên mặt bàn bếp trong khi rót nước. Tôi nhìn mấy viên thuốc, nhặt một viên lên, bỏ vào miệng. Có lẽ nó sẽ làm tôi cảm thấy khá hơn. Biết đâu nó làm cho Vern và Barry thích tôi trở lại. Tay tôi run run, cổ họng tôi khô khốc. Tôi lo là Vern có thể theo tôi xuống đây, đứng canh để biết chắc là tôi đã nuốt mấy viên thuốc. Tôi lắng tai nhưng không nghe gì khác ngoài tiếng dội nhẹ mơ hồ của máy CD trong phòng ngủ của tôi. Tôi bỏ viên thuốc lại cạnh hai viên kia và uống một ngụm nước. Tôi làm thật lẹ, trước khi có cơ hội để đổi ý.

Gạt mấy viên thuốc khỏi mặt bàn bếp vào lòng bàn tay, tôi biểu diễn một chiêu cầu thủ Thierry Henry xoay người vọt ngang qua căn bếp, đạp chân xuống cái bàn đạp của thùng rác, rồi vứt mấy viên thuốc vào giữa mấy miếng vỏ bánh mì nướng bỏ đi sau bữa ăn sáng. Rồi lấy một ly nước trở lên phòng ngủ, tôi tự hỏi Barry có ngu đến nỗi chịu nuốt mấy viên thuốc phần hắn hay không.

Barry đang ngồi trên cạnh giường, mặt không vui vẻ gì, tay duỗi ra cầm mấy viên thuốc. Vern gật đầu ra hiệu cho tôi đưa Barry ly nước, rồi nhướng mày nói: “Tao hy vọng Mungo đã không tệ tới nỗi lén vứt đi mấy viên thuốc của hắn khi ở dưới nhà.”

“Hổng có chuyện đó đâu.” tôi đáp ngay, nhưng cảm thấy mặt đỏ bừng.

Vern và tôi ngó Barry nuốt ực mấy viên thuốc của hắn.

Vern cũng tự nuốt bốn viên. Trong lúc thuốc trôi xuống, hắn nói: “Một - không, hai - không, ba -không, bốn - không. Wowww, đã đời rồi.”

Không đứa nào nói năng gì trong một lúc khá lâu. Chỉ có tiếng nhạc. Một ban nhạc có tên là Piltdown Git mà ba tôi đã thực hiện việc sản xuất. Tiếng nhạc của họ nghe giống như tiếng cưa máy và tiếng xe tải thùng đang de lui. Tất cả mọi thứ - căn phòng, Vern và Barry, tiếng nhạc - chợt như vừa xa tít lại vừa thật gần. Tôi thấy như là mình đã chơi thuốc, mặc dù tôi đã liệng chúng vào thùng rác rồi. Tôi băn khoăn không biết có khi nào tác dụng của mấy viên thuốc có thể thấm qua làn da tay rồi vào trong mạch máu mình không.

Vern cười khúc khích, phá vỡ sự im lặng. “Nè Mungo,” hắn nói, “có nhớ khi cái thằng nhóc khùng đó nhổ phẹt trúng mày ở con kênh không?”

“Ừ, nhớ chứ mậy.” Đó là lần đầu tiên chúng tôi nói về thằng Khạc Đờm. Trong khoảnh khắc đó tất cả mọi chuyện hiện về thật rõ. Cái mùi của thân thể hắn khi tôi đang bị khóa đầu. Đôi giày thể thao rẻ tiền của hắn. Cái cách hắn chịu đòn khi tôi đánh, cái cảm giác tay tôi chạm vào mặt hắn, mềm và cứng, trên khớp ngón tay tôi. Nắm tay tôi đã đau cả mấy ngày sau như thế nào. Má đã nghĩ tôi là một thằng nhóc hồn nhiên hiền lành như thế nào. Cái cảm giác tôi không biết chắc rằng mình chưa giết thằng Khạc Đờm chết và suốt đời tôi sẽ trong trạng thái chờ đợi tiếng chuông cửa reo lên và đó là mấy tay cớm:

Anh là Mungo McFall? Anh đã cư ngụ ở đại lộ Gloucester, Camden Town trong năm 2006? Chúng tôi phát minh ra một cách điều tra tội phạm mới và giờ đây chúng tôi khám phá ra rằng anh là kẻ đã giết thằng bé bị bịnh suyễn ở Kênh Regent’s nhiều năm trước.

Tôi lại đỏ mặt, chợt cảm thấy nóng rần lên. Cảm thấy rất bực Vern, vì hắn đã chọc ngoáy vào tất cả những chỗ yếu nhược và đau đớn của tôi.

“Cái vẻ mặt mày bị đờm dãi chảy bê bết từ mái tóc.” Vern nói tiếp. “Mày nhớ không hả, Quái thú?”.

Barry nói: “Ừ, nhớ. Tao gặp thằng ngố đó mấy lần quanh khu Lock. Hắn vẫn phát tờ rơi cho cái tiệm xăm mình. Hắn có thấy tao nhưng hắn không biết tao là ai đâu.”

“Mày chưa kể chuyện đó với tao.” tôi nói với Barry. “Mày có gặp thằng Khạc Đờm sau hôm đó hả? Đúng vậy không, hả Quái thú?”

“Ừ, đúng.”

Tôi chưa giết hắn! Thằng Khạc Đờm vẫn còn sống! Cảm thấy thật nhẹ nhõm và mừng quá, tôi nói: “Tụi mày có còn tới coi mấy con sói ở công viên không?”

Barry nói: “Không.”

Vern nói: “Tụi tao chẳng bao giờ tới coi mấy con sói đó ngoại trừ những lúc mày muốn thôi. Đó là cái thói nhảm nhí quái đản của mày.”

“Tụi mày nên tới coi. Nhìn vào mắt tụi nó. Những đôi mắt màu vàng của chúng thiệt là ác liệt. Chúng giống như mấy viên đá cẩm thạch cũ mà người ta bán ở khu Lock.”

Vern khặc khặc, nói: “Mày đang lảm nhảm cái giống gì vậy hả, thằng nhà quê? Tao nghĩ mấy viên thuốc có ép-phê rồi, bồ tèo ơi. Mày có thấy phê không?”

“Phê chứ.” Tôi nói, giọng giả bộ nhừa nhựa như đang buồn ngủ. “Ê, tụi mày có còn nhớ đôi giày của ba tao không?”

“Ừ, nhớ chứ mậy.” Vern đáp. “Đôi giày đó lúc nào cũng thiệt là chiến.”

“Tụi mày muốn coi không?”

Tôi đi qua phòng của má, cảm thấy vui hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi hai tiếng đồng hồ trước khi chúng tôi trở về sau cuộc tìm kiếm không thành Ngôi Nhà Thung Lũng Hạnh Phúc. Tôi đang định đem đôi giày nổi tiếng của ba ra khoe với tụi nó. Nhưng tôi không tìm ra. Quỳ xuống, một tay để trên giường, tôi ngó xuống bên dưới, quét cây đèn pin vòng quanh. Trong bóng tối, bụi phủ đầy khoảng trống, tôi thấy mấy cái khăn giấy nhàu nhò, một ống thuốc xịt mũi, một quyển sách, và một cái hộp nhựa mỏng, nhưng không có đôi giày da báo đế kếp, cỡ số 10 của Anh, ba mua ở tiệm Doc Marten gần góc phố từ trạm tàu điện ngầm Camden và ông đã mang hoài hoài luôn cho tới khi ông phải vào bệnh viện và má mua cho ông đôi dép kẻ sọc xấu thấy ghê, đôi dép mà ba dùng để lê vào trong nhà vệ sinh. Chính ba tôi dùng nó, kẻ đã quá cố thuộc dòng họ Gerald, tên là Gerry, Mc Fall.

Cánh cửa phòng ngủ của má mở ra, rồi Vern bước vào. “Ổn mà,” tôi nói. “Tao sẽ trở lại ngay.” Tôi thấy không thích hắn vào phòng má và muốn đuổi hắn ra ngay.

Một cái áo ngực của má nằm trên sàn nhà. Vern lấy chân phải móc nó lên rồi làm điệu sút một cú vô-lê vào vách tường phía xa. “Fabregas [19] nè. Một- không.” Chiếc áo ngực mắc lại ở chân hắn. Hắn lắc chân, cố hất nó ra, rồi cúi xuống và gỡ nó ra khỏi ngón chân. Hắn ướm nó lên ngực và bắt đầu nhảy cà tưng lăng quăng như một con rối.

Barry hiện ra ở cửa. “Caaaái khỉ gì mà dzuiiii dzậyyyyy bây?”

Vern đáp: “Mung là thằng lại cái khoái mặc đồ đàn bà, mày hổng biết hả?”

“Còn mày?”

“Tao cũng vậy.”

“Thiệt vậy à?”

“Tất nhiên là không rồi, thằng ngốc như bò ạ.”

“Thôi dẹp đi tụi mày,” tôi nói, “về phòng tao đi rồi tao sẽ đem đôi giày qua.”

“Tụi tao muốn xem ở đây,” Vern nói, “Có phải không, Quái thú?”

“Ừ, xem ở đây,” Barry nói.

Chiến cuộc đã dời qua phòng má và tôi chẳng thể làm cách nào để mang nó trở lại phòng mình. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay. Má có thể trở về bất cứ lúc nào, tùy vào việc bà định về nhà ăn trưa hay ăn ở Bickleigh. “Ê, tụi bây,” tôi nói, “má tao sẽ về nhà liền bây giờ đó, và lúc này bả đang phát xít lắm đó.”

“Thì sao chứ?” Vern nói, “Mình sẽ nghe tiếng bả, phải hông nào?”

Vern biết rằng điều đó quậy tôi, vì thế hắn muốn làm tới. Đó là kiểu của Vern. Tôi quyết định không nhắc nhở tới chuyện này nữa và hy vọng tụi nó sẽ chán rồi trở về phòng tôi nghe nhạc. Trong lúc đó, tôi tiếp tục tìm đôi giày. Sau khi quét thêm một lần nữa dưới gầm giường, tôi để ý tới cái tủ ngăn, lôi ra mớ quần lót và áo ngực, áo len đan và quần lửng và kẹp tóc. Nhưng không có đôi giày đâu cả.

Tôi chợt có cảm giác thật kinh khủng là má đã vất chúng rồi. Hoảng quá, nhưng tôi cố gắng không để lộ ra. Có lẽ, khi má nói bà sẽ trang hoàng lại ngôi nhà vì bà không chịu được việc sống với những hồn ma, là má có ý nói hồn ma của ba cũng như của ông bà ngoại. Tôi trở lại giường. Tôi biết rằng vô vọng nhưng một phần trong tôi nghĩ rằng có thể, một cách huyền hoặc nào đó, biết đâu đôi giày lại hiện ra ở đó. Tôi lơ đễnh không thấy bây giờ Vern đang đội cái quần lót của má trên đầu. Lần này tôi với tay xuống gầm giường và lôi ra từng món một để không bỏ sót thứ gì - khăn giấy cũ, chai thuốc xịt mũi, quyển sách có tựa đề là Đương Đầu Với Sự Mất Mát, cái hộp nhựa mỏng. Kết quả vẫn như cũ.

Vẫn với cái quần lót trên đầu, Vern đang nhảy múa lăng quăng, cánh tay dang ra như một cô tiên. Hắn nghĩ mình đang làm trò khỉ tếu lắm, nhưng hắn chỉ có vẻ rất thảm hại. Điều làm tôi bực mình là hắn đội cái quần lót của má như đội cái mũ, nhưng tôi biết hắn đang làm điều đó để chọc tức tôi bởi tôi chẳng chịu lên tiếng. Tôi tự hỏi không biết mấy viên thuốc có tác động lên hắn không hay hắn chỉ giả bộ bị say thuốc.

Barry ngó vào cái tủ ngăn mà tôi đã xem trong đó rồi. Hắn lôi ra một tấm hình của ba, chụp từ trước khi tôi ra đời. Ông đang ở trên bờ biển vào mùa đông, mặc một cái áo khoác dài, loại áo khoác mà người ta gọi là hàng Afghan, ông đang mỉm cười và đang hút thuốc. “Ai đây?” Barry hỏi.

“Mày nghĩ là ai chứ?” tôi đáp, “Cất nó lại đi. Tao đã tìm trong đó rồi.”

Barry nhún vai, bỏ tấm hình trở lại vào ngăn kéo và nhìn đồng hồ đeo tay. Nếu có hòn đá nào trong phòng má, thì hắn đã sút bay tưng rồi.

Cái tủ áo là cơ hội cuối cùng của tôi. Để bước tới đó tôi phải lội qua những thứ từ trong tủ ngăn mà tôi đã lấy ra rồi vất đầy trên sàn nhà. Tôi sẽ xếp dọn chúng lại sau. Tôi quỳ xuống và lôi ra thêm một số món khác: một cái mền dồn lông vịt, một cái bệ đặt máy tính, một cái chụp đèn, một cái máy sấy tóc, một con gấu nhồi bông cũ của má khi bà còn cột tóc đuôi sam, một đôi dép kẹp, một chai kem chống nắng màu xanh da trời đã bị chảy ra, dính bầy nhầy, cái túi xách tay mà má đã mang trong ngày chúng tôi rải tro của ba, đôi giày của ba...

Đôi giày của ba nằm dưới cái túi xách.

“Kiếm được rồi,” tôi reo lên, nhưng khi nói điều đó tôi liền cảm thấy giận dữ và buồn về chuyện đã xảy ra cho một trong hai chiếc kể từ khi tôi thấy chúng lần sau cùng. Tôi tiếp tục đứng đó, lưng quay về phía phòng.

“Nào, ngó cái coi.” Barry nói.

“Blu- blu, giày da báo.” Vern hát nghêu ngao, nhảy cà tưng xung quanh.

“Quên nó đi,” tôi nói, “dù sao cũng là một ý tưởng ngu xuẩn.”

“Kìa, thôi mà,” Barry nói, hắn đứng ngay cạnh tôi và ngó xuống đáy tủ. “Đưa cho tao coi, thằng khỉ.”

Tôi nhún vai rồi đưa cho Barry đôi giày. Hắn dọn dẹp một khoảng trống ở giữa phòng, lấy chân hất mớ quần áo và những thứ khác qua một bên, và đặt đôi giày xuống đó. Vern cũng quỳ xuống và chiêm ngưỡng đôi giày, vẫy vẫy tay với chúng như tụi tôi đã làm với Thierry Henry. Tôi không nói một lời. Tôi không thể hiểu được rằng hắn đang giả bộ làm trò khỉ hay thật sự nghĩ rằng đôi giày quá chiến.

Hơn nữa, có vẻ như cả Vern lẫn Barry đều không nhận ra sự hiển nhiên, điều đã nện ngay vào giữa trán tôi và làm cho bụng tôi đau quặn thắt: một chiếc giày đã bị hư. Sau lần cuối cùng tôi nhìn thấy đôi giày, bốn ngày trước, kem chống nắng đã chảy lên chiếc giày bên trái và làm ố da báo, một vết bẩn gớm ghiếc màu xám xịt.

Tôi cố gắng chùi nó bằng khăn giấy nhưng chỉ làm nó tệ hơn, làm cho những vệt xám loang rộng ra thêm và những đốm nhỏ tí bằng khăn giấy rách bám trên màu vàng và đen. Tôi bỗng chú ý đến một cái vé tàu điện cũ mà tôi đã tìm được trong chiếc giày bên phải. Nó đã được mua ở vườn Covent vào ngày 7 tháng Tư 2004 và giá là 1,30 bảng Anh, vậy là má đã chưa được đi xa. Hay có thể nó là của ba và ông đã mua cái vé khi đang mang đôi giày này. Tôi tưởng tượng ra ông đứng ở máy bán vé, đang lục tìm tiền, trong khi người qua đường bước nghiêng qua ngó vào đôi chân hào nhoáng, hết sức bảnh của ông.

Nếu tôi ở trong cái thế giới bé nhỏ của chính mình vào lúc đó, thì Vern cùng Barry cũng vậy. Tụi nó nhanh chóng mất hứng với đôi giày và bây giờ đang ở cạnh giường của má, cười khúc khích và thì thầm với nhau. Tôi chỉ mong tụi nó chán và trở về phòng tôi để tôi có thể ở một mình với chiếc giày bị hỏng, nhưng tôi biết là chẳng bao giờ chúng làm điều đó nếu tôi đề nghị chúng.

Cho nên tôi chỉ tiếp tục việc đang làm. Tôi bỏ cái vé vào trong túi, lấy cái lược chải tóc của má từ trên mặt cái tủ ngăn và cố gắng chải đi cái chỗ bị hư hai lần trên chiếc giày do kem chống nắng và bị tôi chà xát hồi nãy. Nhưng cũng không có hiệu quả gì cả, mà chỉ làm các vệt xám loang ra thêm thôi. Tôi chải tay mạnh hơn. Bây giờ các vệt xám nhập vào nhau. Mạnh hơn, mạnh hơn nữa. Mấy cái sọc xám hòa vào nhau. Tôi ngừng chải. Ngay ở mũi giày, lớp da báo biến mất. Chỗ đó nhìn giống như da chuột hơn.

Tôi đã làm cái việc bạn sẽ làm với một con chuột. Tôi quăng mạnh chiếc giày vào vách tường. Nó chạm phải cái góc của bức tranh màu nước được đóng khung mà ông ngoại đã vẽ, một cảnh quê mùa tiêu biểu về một căn nhà tranh và dòng suối. Bức tranh rơi xuống, kính bể nát.

Tôi nằm vật xuống, úp mặt trên giường má.

Yên lặng, rồi có tiếng cười khúc khích đang được nén lại. Vern và Barry đang cười tôi. Vern nói giữa những tiếng khúc khích: “Ê, Mung, bình tĩnh nào? Chỉ là do mấy viên thuốc thôi. Chỉ là, giống như, mấy chiếc giày, hiểu tao nói gì không?”

Tôi xoay người lại và ngồi lên. Vern vẫn còn đội cái quần lót trên đầu. Hắn còn mang cả cái áo ngực ra ngoài áo thun. Cái chụp ngực rỗng, nhăn nhúm nhìn thật là lố bịch. “Mày không còn trò gì cả à, phải không?” tôi hỏi.

“Cái gì?” Vern nói, nó cầu cứu Barry. “Tao chỉ cố gắng làm cho mọi chuyện êm đẹp thôi, đúng không?”

“Vậy thì tốt,” tôi nói, tôi đã cảm thấy mắc cỡ vì việc chịu thua và ném chiếc giày vào tường. Tôi tưởng tượng cảnh Vern và Barry bàn với nhau về sự việc này trên chuyến tàu trở về London và dùng nó như một bằng chứng rằng tôi đã thay đổi. Tôi có thể trở thành một thằng nhà quê loạn trí, kẻ mà tụi nó không bao giờ muốn gặp lại. Chắc là tụi nó đúng. Tôi chỉ muốn cái ngày đau khổ này chấm dứt. Nhưng nó sắp trở nên tệ hại hơn.

Tệ hại hơn nhiều.

Vern nói: “Ê, Mung, đoán xem tụi tao mới tìm được cái gì?” Vern đang cố làm tôi vui lên, hắn có cái giọng đó trong tiếng nói của hắn.Tôi không trả lời và hắn nói: “Được rồi, khi nào chữ F trong UFO [20] không có nghĩa là 'Flying (bay)'”

Tôi vẫn không trả lời. Rồi hắn quất mạnh vào tai tôi bằng một thứ gì đó lạnh và đàn hồi.

“Ui da,” tôi la lên.

Thoạt đầu tôi đã không hiểu gì cả. Một tay Vern đang cầm cái hộp nhựa mỏng mà tôi đã thấy dưới giường má. Cái hộp mở ra và trống rỗng và thứ nó đựng nằm trong tay bên kia của Vern: một cái đĩa cao su có cái vành dầy. Vern huơ nó trước mặt tôi. Nó giống như là một phi thuyền, một cái đĩa nhựa đồ chơi, một con sứa. Nó có cái màu trắng nhàn nhạt giống bao tay của mấy ông bác sĩ khi họ dùng để khám mông đít bạn. Và nó cũng có mùi giống như vậy (không phải mùi mông đít nhưng mùi bệnh viện và thuốc khử trùng).

Tôi cầm lấy một bên vành của nó và lắc lắc, nhìn ngắm nó. Tôi hết sức ngu, tôi đã không hiểu được ngay lúc đó, tôi chỉ cảm nhận về nó. Cái cảm nhận y hệt hồi tôi với ba, khi tôi chừng sáu tuổi, và ông dắt tôi tới tiệm cắt tóc đàn ông kiểu lỗi thời ở khu Tufnell Park.

Ông thợ cắt tóc bơm cái ghế lên cao cho tới khi tôi nhìn được tất cả đồ nghề của ông ta đang được bày biện xung quanh cái gương trước mặt tôi. Một bức hình của đội bóng Arsenal từ trước khi tôi ra đời. Những bưu thiếp có in hình đàn bà để ngực trần. Những hộp nhỏ xíu đựng thứ gọi là Durex. Durex! Cách nào đó tôi biết rằng bất kể nó là cái gì, Durex là thứ bậy bạ, và tôi không nên hỏi về nó. Nhưng tôi vẫn cứ hỏi. Người thợ cắt tóc cười lớn nói, “Trả lời đi, ông bố ơi.”

Ba nói bằng giọng chế giễu kiểu cũ rích. “Durex, con trai ơi, nó là một món rất hữu ích để thêm vui những sinh hoạt cuối tuần. Có đúng vậy không, ông thợ cạo?”

Người thợ cắt tóc tham gia vào câu chuyện đùa. “Đúng quá đi chứ, quí ngài.” Và ông ta nháy mắt với tôi trong gương.

Ra bên ngoài tiệm, tôi hỏi, “Nhưng Durex là cái gì vậy?”

“Nó là mấy cái áo mưa bằng cao su. Biết là cái gì chưa?”

Và tôi đáp, “Dạ, biết.” vì tôi đã loáng thoáng nghe qua về chúng.

Ba xoa cái đầu tóc lởm chởm của tôi và cười lớn, “Chàng trai chịu chơi.”

Cái đĩa bay/con sứa là để làm “chuyện đó”.

Vern và Barry đang cười khúc khích. Vern xoi ngón trỏ vào chính giữa cái đĩa cao su và nói, “You EFF oh, [21] hiểu chưa nào?”

Rồi tôi nhớ ra mấy món được chuyền tay quanh lớp học mà chúng tôi đã có một trận cười đã đời về chúng. Mấy cái bao cao su, được bao bì lại hoặc để trần, cái vỉ bạc của thuốc viên ngừa thai, cái đĩa cao su mà chúng tôi chuyền quanh cho nhau và bịa những chuyện đùa về đĩa bay được gọi là 'áo mưa'. Giờ thì nó không có vẻ gì là buồn cười cả. Cách ngừa thai của má. Uiiiii. Tôi đưa nó lại cho Vern và nói, “Bỏ nó lại chỗ cũ đi.”

“Nó ở ngay dưới gầm giường để tiện lấy ra,” Barry ranh mãnh cười khúc khích.

“Mày đần quá, Quái thú ạ.” tôi nói.

“Thôi đi mà.” Vern nói, rồi hắn bỏ con sứa vào lại trong hộp, đóng nắp lại và chuồi nó xuống dưới giường.

(Đầu óc tôi quay cuồng với những ngụ ý và khả năng của con sứa của má.)

Bây giờ Vern trở thành sứ giả hòa bình và tôi nhận ra rằng đôi khi tôi rất thích hắn, rằng tôi sẽ nhớ hắn lắm nếu tôi không gặp hắn nữa. Ý nghĩ đó càng làm tôi buồn hơn bởi vì sau ngày hôm nay chắc chắn hắn sẽ không muốn gặp lại tôi nữa. Hắn nói với Barry, “Mung đang bị phê thuốc. Đôi khi thuốc vật như vậy đó. Nó sẽ bình thường lại thôi. Mày thì sao rồi? Có phiêu không?”

(Tôi không hiểu được. Tôi biết chắc là lần cuối khi tôi nhìn dưới giường, bốn hôm trước, cái hộp nhựa mỏng không có ở đó. Có nghĩa là...)

“Hơi phê phê,” Barry nói, nhưng giọng hắn không thuyết phục lắm.

Vern lấy trong túi ra chai thuốc rồi lắc lắc trước mặt Barry: shuh shuh shuh. “Chơi thêm đi.” hắn nói.

“Thôi,” Barry thối lui nói.

“Ok ok.” Vern đặt chai thuốc trên giường, cởi cái quần lót ra khỏi đầu rồi tròng nó lên đầu Barry. “Vậy thì tròng cái quần lót đi. Xu-cheng nữa. Đây nè. Mặc vào cho ngay ngắn coi. Có nhạc của Elvis không Mung? Có bài Đôi Giày Da Màu Xanh [22] không mậy?”

(Có phải con sứa đó còn mới không? Má mới mua nó à? Không thể tin được rằng bạn có thể mua những thứ như vậy ở Bickleigh, nhưng cũng có thể lắm chứ. Cà tím Thái à? Giỡn chơi hoài. Đồ ngừa thai à? Đầy cả kho.)

“Cái gì?” tôi đáp, “tao nghĩ có. Trong một đĩa.”

“Hay lắm. Mày mang đôi giày của ông già mày vô đi Mung, tao đi mở nhạc Elvis trong phòng mày rồi mình nhảy một một bản nha?”

Điều này nhắc thêm một lý do nữa làm tôi sẽ nhớ Vern: là hắn khiến bạn làm những điều hết sức ngu xuẩn để cười chơi. Tôi chỉ Vern chỗ để tìm CD của Elvis, hắn đi từ phòng má qua phòng tôi bằng lối phòng tắm nằm ở giữa để mấy cái cửa mở toang trên đường đi.

Tôi nhặt đôi giày của ba lên và để chúng trên sàn nhà ở cạnh giường. Chiếc bị hư trông không quá tệ, giờ chỗ tôi phun vào đã khô. Tôi thòng chân trên đôi giày, nhận ra rằng hồi nào tới giờ tôi chưa từng xỏ chân mang chúng. Có phải mang chúng là phạm thượng, hay ba cũng sẽ nghĩ đó là một trò cười? Chẳng còn nghi ngờ gì nữa: đúng là một trò cười.

Tôi xỏ chân vào giày. Chúng to quá xá, rộng rinh. Chân tôi trượt quanh trong giày. Lớp da bên trong mát và khô. Mềm ghê. Tôi nhắm mắt lại. Mang đôi giày của ba làm tôi nhớ lúc được bơi ở Caribbean.

Tôi cột giây giày. Trong phòng tôi, giọng Elvis cất lên.

It’s one for the money

Two for the show

Three to get ready

Now go cat go. [23]

Tôi nhặt chai thuốc lên lắc theo nhịp nhạc, rồi ném nó qua Barry. “Quậy tưng lên coi,” tôi nói, và Barry vừa nhảy gượng gạo vừa lắc lắc cái chai.

Do anything that you want to do, but uh-uh

Honey lay off my shoes. [24]

Tôi vẫn nhắm mắt khi nhảy và hát. Tôi không nhảy và hát vì đang vui, mà làm thế để khỏi phải suy nghĩ nữa.

Rồi tôi mở mắt ra, má đang đứng đó.