← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 14

Khi ba nằm trên giường trong phòng làm việc ở dưới lầu của ông – hay nói cách khác là khi ông sắp chết, nhưng chúng tôi không bao giờ nhắc tới chữ N (là chữ viết tắt của Ngủm) – thì tôi thường tìm tới thăm lũ sói mỗi ngày. Ra khỏi trường, leo lên xe buýt xuống đường Camden High rồi đi dọc theo bờ con kênh tới công viên. Lẩn quẩn chơi với lũ sói một lúc rồi đi bộ về nhà, tim tôi đập nhanh dần khi tôi tới gần nhà và tự hỏi chuyện gì đã xảy ra trong ngày hôm đó. Bởi vì luôn luôn có chuyện xảy ra. Ống dẫn chất thải của ba bị rò, hay người y tá khu vực phải gọi bác sĩ tới vì huyết áp của ba xuống thấp quá, hoặc có lần ông nhìn thấy một khuôn mặt trên trần nhà và nó không chịu biến đi.

Những chuyện xảy ra không bao giờ là điều tốt cả, tất nhiên là thế rồi, bởi vì mỗi ngày ông càng tệ hơn, ông đang chết thêm một tí. Trừ có một lần thôi. Lần đó có một điều kỳ diệu xảy ra.

Hôm đó trời rất lạnh, lạnh đến nỗi bờ kênh bị đóng băng. Mấy con vịt không thể nào xoay xở được. Trong khi đi dọc theo con đường trên bờ kênh tôi ngắm chúng cố gắng bước lạch bạch trên lớp băng rồi té nhào. Lũ sói thì chịu lạnh rất giỏi vì chúng tới từ miền băng giá phía Bắc. Có thể nhìn thấy cả thảy tám con, nhiều hơn mọi lần khác mà tôi được thấy chúng cùng một lúc ở ngoài hang. Tám hơi thở bốc khói trong khí lạnh hoang dã. Có một vài con đứng, mũi nghểnh lên, những con khác xoay người, chạy chậm chậm và ngừng lại. Rồi chạy chậm chậm. Tất cả đều hít hà không khí và ngửi mùi giá rét Bắc cực đang thổi về phía chúng. Vài con trong bọn chúng nhìn tôi ra vẻ dịu dàng.

Có điều gì đó khác lạ, có điều gì đó đang thay đổi. Đó là điều chúng nói với tôi. Tôi nhìn hơi thở mình toả khói và cũng cảm nhận điều đó.

Thả bộ trở về dọc theo Gloucester Crescent, một cảm giác gần như hào hứng trào lên. Đèn đường rọi lên những cái yên xe đạp. Một mùi lửa đốt rác, đèn thắng xe nơi con đường dốc lên về phía giao lộ chữ T, một con mèo nằm bẹp trên một bức tường, ngó tôi đi qua.

Ba tạm ổn, bạn hẳn khó biết được có điều gì tệ (trừ chuyện ông đang nằm trên giường dưới nhà, và trông giống như một kẻ biếng ăn, và đang bị dính chặt vào cái bọc nhỏ chứa nước tiểu).

Ông đặt quyển sách đang đọc xuống. Đó là cuốn thơ mà ông đọc trước đây. Nó có cái bìa màu cam và vàng trông giống như một bức ảnh cận cảnh của một ngọn lửa. “Có chuyện gì xảy ra vậy, hả cưng?”. Ông hỏi. Mặt ba hướng lên trần nhà khi ông nói, nhưng đôi mắt thì lại đang nhìn tôi.

“Elvis vẫn sống nhăn. Không có gì nhiều đâu ba.”

“Nghe vậy cũng mừng. Con mới ở đâu vậy?”

“Ở ngoài công viên một lát.”

“Công viên Regent’s hả?”

Tôi gật đầu. Trước đây tôi chưa kể cho ông nghe về việc đi thăm lũ sói. Tôi bối rối vì ông có thể nghi ngờ rằng việc tôi muốn gặp lũ sói hoài là do ông đang bịnh và điều đó làm tôi buồn bực xiết bao. Nhưng bây giờ tôi đã cho ông biết, bởi vì điều đó thấy cũng đúng thôi, tôi vẫn cảm được vẻ đẹp của bọn chúng trong giá lạnh, ánh sáng nhập nhòa. “Xem lũ sói.” tôi nói.

“Con đang đùa với ba mà.”

“Không đâu ba.”

Ông có vẻ rất hứng khởi. Ông cố gắng ngồi lên. “Ê, Clare ơi,” Ông gọi lớn. “Clare.”

Má đi tới cửa. Bà đang cầm một củ tỏi tây như thể nó là một thanh kiếm.

Ba nói: “Đoán xem Davy Crockett đã đi đâu nào?”

Má nói: “Nào, làm cho em ngạc nhiên đi.”

Ba nói: “Chỉ để nhìn lũ sói ở công viên Regent’s, vậy thôi.”

Má nhướng mày, không hiểu ra ý của ba. Tôi cũng không hiểu.

“Và anh đã đọc cái gì chiều nay, đúng ngay lúc cậu nhóc đang đứng ngoài chuồng sói? Là một bài thơ về lũ sói trong vườn thú của công viên Regent’s, vậy đó. Nè, nghe nè.” Và ba nhặt cuốn sách có cái bìa hình ngọn lửa lên rồi đọc một vài câu nói về những vầng trăng của tháng Hai và tháng Ba và tiếng tru của sói an ủi lòng ta.

Dải băng nhựa màu đỏ cho tôi biết điều gì đã xảy ra. Tôi thấy nó từ trên cao gần cửa vào công viên. Tôi đang bước nhanh, tưởng tượng ra sự giao tiếp theo kiểu của sói mà tôi sắp thực hiện. Đôi lúc khi tôi đến chuồng sói, thì không có bóng dáng một con sói nào cả. Chúng ở dưới đất, trong hang của chúng. Có khi mất cả bốn chục phút để có con chui ra, nhưng tôi không quan tâm. Tôi chỉ đứng đó, cạnh bên hàng rào, chờ chúng. Đó là một kiểu chờ đợi rất thú vị, như chờ món cà-ri Thái ở cái nhà hàng Thái nhỏ xíu ở Kentish Town khi ba cho phép tôi uống hai ngụm bia lạnh của ông.

Khi tới gần hơn, tôi thấy một chiếc xe ủi đất màu vàng rất lớn với những vết bánh xích trong chuồng sói. Tôi chạy những mét đường cuối để tới hàng rào. Bây giờ tôi hiểu cái dải băng nhựa màu đỏ. Nó là loại băng mà người ta rào xung quanh những địa điểm xây dựng. Chuồng sói là một địa điểm xây dựng. Người ta đang phá hủy nó. Thật ra nó không còn là cái chuồng sói nữa. Tay tài xế xe ủi đã về nhà, bỏ chiếc xe nghiêng nửa chừng trên ụ đất vốn là cái hang sói. Phân nửa ụ đất đã biến mất. Những cây xà gỗ để làm cái hang đang nằm trên mặt đất, gãy nát hết.

Tôi chạy vòng lại cửa sở thú. Mưa phùn bắt đầu rơi và có khoảng ba trăm khách du lịch người Nhật đang mặc áo ngoài có mũ trùm cùng một lúc. Tôi tìm thấy một tay mặc áo cộc tay màu trắng và hỏi: “Ông làm ở sở thú này phải không?” và hắn trả lời đúng.

“Chuyện gì đã xảy ra với lũ sói vậy?”

“Chúng đi mất rồi.”

“Tôi biết. Khi nào thì chúng trở lại?”

“Chúng không trở lại đâu. Chúng đã được dời đến công viên Whipsnade Wildlife rồi.”

“Không bao giờ trở lại à?”

“Không, mấy con đà điểu sẽ ở chỗ lũ sói đã từng ở.”

“Đà điểu à?”

“Đúng rồi, xin lỗi nghen.” Một bà Nhật đang cầm một cái bản đồ tiến tới gã.

Tôi đi lại phía nơi đã từng là chuồng sói. Bây giờ trời mưa lớn hơn. Tôi vòng vào trong công viên và cố đi dưới mấy hàng cây để chúng che mưa cho. Rồi mưa quá lớn khiến tôi ngừng lại và đứng gần một gốc cây, cố được che bớt mưa càng nhiều càng tốt. Không có cảm giác như CHẲNG CÓ GÌ QUAN TRỌNG. Khi cơn mưa hơi nhẹ hạt, tôi chạy trở lại lối vào sở thú, cố tìm tay mặc áo trắng nhưng gã không còn ở đó. Thay vì vậy tôi gặp một bà mặc áo cộc tay màu trắng và nói với bà: “Xin lỗi, công viên Whipsnade Wildlife ở đâu vậy?”

“Whipsnade? Nó ở vùng Bedfordshire.”

“Là ở đâu vậy? Làm sao mình có thể tới đó? Mấy giờ thì họ đóng cửa?”

“Ô ô, từ từ thôi. Cậu nói má hay ba lái xe đưa cậu đi, vậy là tốt nhất.”

“Tôi không có ba.”

“Ô, tôi xin lỗi. À. Nhờ má cậu đưa tới đó.”

Tôi không hiểu lý do vì sao, nhưng tôi nói: “Bả đang ở trong nhà vệ sinh.” Rồi tôi hỏi: “Mấy giờ thì Whipsnade đóng cửa?”

“Tôi nghĩ vào mùa hè là sáu giờ.” Tôi nhìn đồng hồ. Bây giờ là năm giờ mười lăm. Người đàn bà bật cười lớn: “Hôm nay cậu không tới đó kịp đâu.”

* * *

Tôi ngồi trên một băng ghế trong công viên. Tôi ăn thêm một thanh lương khô, một ít phô-mai trong cái gói đã mở, và một bao khoai tây chiên giòn rồi uống hộp Ribena [27] . Tôi lấy cái điện thoại di động ra và tự hỏi có nên mở máy không. Má biết tôi đang mất tích chưa nhỉ? Chắc là chưa đâu. Ngay cả nếu má điện thoại về nhà và tôi không trả lời, thì má sẽ nghĩ là tôi cỡi xe đạp đi chơi đâu đó. Đã năm giờ bốn mươi. Má chắc sẽ về nhà trong vòng nửa tiếng nữa. Cho thêm sau đó một giờ nữa, cho là bảy giờ mười lăm đi, thì má sẽ bắt đầu hoảng.

Và điều đầu tiên má sẽ làm là gì? Gọi cho Cá Chua.

Trời đã ngừng mưa nhưng vẫn còn lạnh. Công viên gần như vắng tanh.

Đã tám giờ bốn mươi lăm, trời tối dần. Một tay mặc đồng phục màu xanh đi tới. Ông ngừng lại. “Mày có ổn không, hả nhóc? Mày đang ở đây một mình à?”

“Tôi đi với má tôi nhưng bả đang đi kiếm nhà vệ sinh.”

Người đàn ông có vẻ hơi bối rối. Ổng nhìn quanh, ngần ngại: “OK, à, cổng sắp đóng trong vòng mười phút nữa cho nên bả không có nhiều thời gian đâu. Bả đi đâu rồi?”

“Lối kia kìa.” Tôi chỉ hướng Camden của công viên. “Tôi đi tìm bả đây.”

“Bảo trọng nghen,” người đàn ông nói. Nhưng ổng không bỏ đi, đứng đó nhìn tôi trong khi tôi nhét đồ vào ba-lô và bỏ đi. Đi được khoảng năm mét, tôi ngoái nhìn lại, ổng vẫn còn đứng nhìn theo. Ổng vẫy vẫy tay và tôi vẫy lại. Lần sau đó khi tôi nhìn lại thì ổng đã đi mất.

Tôi đổi hướng ra khỏi lối đi và tiến tới mấy lùm cây. Tôi bò vào trong đó. Ở giữa có một chỗ trũng vừa với thân người ngập trong xác lá rụng. Tôi thử nằm xuống. Thật là thoải mái. Bỗng nhiên tôi thấy mệt kinh người. Tôi mà nhắm mắt lại là ngủ liền nhưng tôi buộc mình phải ngồi dậy. Tôi lấy con dao Swiss Army của ông ngoại trong ba-lô ra mân mê cầm chơi, chờ đến thời điểm không thể quay về. Thời điểm không thể quay về là khi người ta khóa cổng. Tôi kéo cái lò xo xoắn để mở nắp chai trên con dao nhíp ra rồi xoắn nó xuống mặt đất. Tôi ngó lên xuyên qua cành lá.

Mặc dù gần như đã tối mịt, bầu trời trông vẫn sáng hơn so với các tán cây. Rồi tôi thấy mặt trăng. Tôi lôi cái ống nhòm của ông ngoại ra và ngắm mặt trăng. Thật là kỳ diệu. Nó màu bạc và hơi bị vẹt đi, giống như cái khóa dây lưng mà ba mua ở hiệu Keith Richards mà má đã trầm trồ.

Chín giờ mười lăm. Vào giờ này, tôi biết các cổng công viên đã khóa và chắc má đang lo hoảng lắm. Tôi gối đầu lên chiếc gối bằng lá cây rồi nhắm mắt lại.

Má ứng xử rất khôn ngoan, như mãi lâu về sau này bà kể lại với tôi khi mọi chuyện đã êm xuôi. Bà cố suy nghĩ. Mungo có thể đi đâu đây? Đến nhà của Vern? (không rồi). Nhà của Barry? (không luôn). Gloucester Crescent. Camden Lock. Con kênh. Chúa ơi, con kênh. Hampstead Heath.

Tất nhiên cha nội Cá Chua có dính vô vụ này. Ông tới nhà ngay và gọi điện cho tay cảnh sát Strickland. Cái cha nội nôn ra phô-mai bông cải trắng thay vì lời nói đã báo cáo với cảnh sát vùng Camden Town và họ gởi nhiều cớm tới Health, đặc biệt là ở vùng đồi Parly, mà tôi không có mặt ở đó. Suy nghĩ, suy nghĩ nữa. Còn chỗ nào khác không ta?

“Có thể là công viên Regent’s lắm.” Má nói. “Nó từng thích tới đó để xem lũ sói.”

Cảnh sát Camden Town bàn với cảnh sát công viên, rồi cái ông nhóc mà hẳn đã bị một tên ấu dâm làm hại và bỏ chết mặc xác ở công viên Regent’s được hồi sinh.

Bà cảnh sát ở công viên bỏ tôi lên ghế sau, kéo mền dưới đôi ủng và quấn xung quanh người tôi. Bà nói với người cảnh sát công viên: “Nổ máy xe đi và vặn máy sưởi lên.”

Người cảnh sát công viên nổ máy xe và cái máy sưởi được vặn tối đa, chỉ có điều lúc đầu nó thổi ra khí lạnh chứ không phải hơi ấm. Ông ta nhặt cái máy điện đàm trên bảng đồng hồ và nói: “Vâng, chúng tôi tìm được nó rồi. Ở công viên Regent’s. Trong lùm cây. Đúng rồi. Lạnh, ướt nhẹp và tội nghiệp lắm nhưng mặt khác... Tất nhiên rồi.” Ông ta ngoái ra sau đưa cái điện đàm cho tôi. “Nè, con trai. Nói chuyện với má mày đi.”

Tôi áp cái điện đàm lên tai. Má nói: “Ôi, cưng ơi. Ôi, cám ơn Chúa. Má sẽ tới đó liền nghen. Con có làm sao không? Chuyện gì xảy ra vậy? Mà dù cho có chuyện gì đi nữa, quan trọng nhất là con bình an. Con có làm sao không?”

Và rồi tôi đã nhớ ra. “Người ta đem lũ sói đi mất rồi,” tôi nói.

* * *

Bà cảnh sát giảng cho tôi một bài về việc tôi may mắn lắm, vì có thể một thằng ấu dâm hay một thằng khùng nào đó tóm được tôi lắm chứ. Rồi bà ta hỏi tôi xem có gì không ổn ở nhà không, và tôi có muốn nói về điều đó không, nhưng không đời nào tôi lại nói về đời sống tình dục riêng tư của má và thằng anh em con hoang của tôi với một bà cảnh sát coi công viên, cho nên tôi chỉ nói: “Ba tôi đã chết rồi.”

Trên đường trở về Manuresville với má, tôi cố không nói gì. Tôi có thể cảm thấy là má đang giận, rồi cố gắng kiềm chế lại. Má biết bà không nên giận tôi. Tôi chỉ mới ngủ bụi có một đêm ở London và tôi mới có mười lăm tuổi. Tôi có thể bị một thằng khùng nào đó thịt rồi. “Làm ơn đi Mungo,” má nói. “Làm ơn cho má biết chuyện gì đang xảy ra vậy. Má sẽ không giận đâu, má hứa. Nhưng má cần phải biết chuyện gì không ổn để mình có thể giải quyết nó chứ.”

“Con nói với má rồi. Người ta đem lũ sói đi mất rồi.”

“Điều đó có ý nghĩa gì đây? Nói cho má biết điều đó có nghĩa là gì đi, Mungo. Giúp má để má có thể giúp con. Để chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau.”

“Họ dẹp cái chuồng sói ở sở thú đi rồi. Điều đó có nghĩa là vậy đó. Ở sở thú con hỏi họ và họ nói lũ sói đã tới Whipsnade. Chỉ có vậy thôi.” Tôi nhìn ra cửa sổ đến khu ổ chuột của London. Biển quảng cáo và những cầu treo và các cánh đồng đầu tiên. Vùng đất quê mùa sắp đến rồi.

“Ôi, cưng ơi.” Má đặt tay trái lên vai phải của tôi.

Tôi nhấc vai và hất tay má ra. Đó là một cách khác mà má và tôi có thể chuyện trò trao đổi, chỉ cần đụng và không đụng vào nhau.

“Con ngủ trong cái vũng đầy nước. Thật là một việc làm rất cô đơn đối với một chàng trai. Tại sao con làm vậy? Con phải nói cho má nghe.”

“Chỗ đó khô ráo khi con tới ngủ,” tôi đáp. “Con đâu có tính ngủ trong cái vũng ướt mèm đâu. Con đâu có ngu.”

Má không đáp lại. Tôi nhìn chăm chú về phía trước, chỗ cái bề mặt màu xám và những bảng hiệu màu xanh của xa lộ, và những cánh đồng và cây cối ở cả hai bên đường. Bây giờ chúng tôi đang ở giữa khu Manuresville phát triển. Không có nhiều xe chọn con đường vui vẻ tới Vùng Nhà Quê với chúng tôi vào lúc bảy giờ sáng. Tôi tưởng tượng xa lộ là đường thẳng đứng, không phải đường nằm ngang. Chúng tôi đang chạy với vận tốc 77 dặm giờ trên chiếc Skoda, càng lúc càng sâu dần xuống dưới đất. Vụ này khùng quá, chúng tôi nôn nóng tự chôn sống mình đến vậy sao?

Thường xuyên, khi má vượt qua mặt một chiếc xe khác thì cái đồng hồ báo tốc độ rung lên như một con côn trùng trong bờ rào.

Má hít một hơi thật sâu, như thể bà sắp sửa nói điều gì, rồi thở ra mà không nói gì cả. Thêm một hơi thở sâu nữa – và lần này bà nói. “Mungo nè, tin má đi, má chưa đánh giá sai về việc chuyện gì đáng cho một chàng trai đánh mất...”

“Nhảm nhí.”

Má giữ thật bình tĩnh. Bà đang chồm tới trước và nhìn chăm chú xuyên kính chắn gió như thể bà đang tập trung vào những đường kẻ sơn trắng đứt gãy trên tuyến đường. “Con sẽ nghe má nói rõ về chuyện này. Con không phải nói điều gì cả nhưng con sẽ lắng nghe những điều má của con... bởi vì đó chính là má, má của con, với tất cả những trách nhiệm ràng buộc - con sẽ phải bày tỏ sự tôn trọng bằng cách lắng nghe những điều má nói. Đồng ý không?”

“Không.” Tôi đáp. “Không đồng ý. Con không cần biết cái khỉ gì về điều má phải nói bởi vì trước đây con đã nghe tất cả những điều đó rồi, và nó thật là nhảm nhí, và con biết về đứa anh em con hoang của con và ai là cha thật của con, nên má không phải nói dối nữa.”

Tôi nhìn ra ngoài cửa kính xe, nơi hàng chữ lớn sơn bên hông một chiếc xe tải đổ hàng trên cánh đồng: HÃY TỰ HÁI DÂU CHO MÌNH, RẼ LỐI KẾ.

Im lặng. Đồng hồ báo lại kêu lên. Rồi má hỏi: “Cái gì, má nghe không rõ?”

“Má nghe rồi mà,” tôi đáp. “Hèn gì má dọn lên Manuresville sau khi ba chết. Má muốn gần cả hai bọn họ.”

“Con đang nói cái giống gì vậy?”

Nhưng tôi im lặng. Tôi không chơi trò chơi này của bà cũng như tôi sẽ không chơi những trò của Mungo.

“Lối rẽ của mình đây rồi,” má nói. “Chờ chút nghe và mình sẽ nói cho ra lẽ chuyện này.”

Đồng hồ báo lại tích tắc, chiếc Skola chậm lại và quẹo qua lối bên trái của xa lộ. Đèn giao thông chuyển màu xanh khi chúng tôi chạy đến. Có một chỗ đậu xe. Chúng tôi chạy chậm lại rồi dừng. Trước mặt chúng tôi có một gã đang dỡ hoa từ đằng sau chiếc xe tải nhẹ và sắp xếp chúng lên một cái quầy.

Má tắt máy quay qua tôi, định vuốt tóc tôi. Tôi quay đầu đi, nện mạnh gáy vào cửa sổ xe phía bên hành khách. Má thở dài đặt tay lên đùi. “Giờ con định nói gì với má đây?” Má hỏi, “Có phải má nghe con nói con nghĩ là con có một thằng em?”

“Con biết con có,” tôi nói. “Con gặp hắn rồi. Cho nên đừng nói dối con nữa.”

“Được rồi, được rồi. Vậy tên nó là gì, cái thằng anh em gì đó của con?”

“Má biết tên nó là gì mà.”

“Nhắc cho má đi.”

“Thật là lố bịch. Má không thể tránh né được đâu.”

“Thì cứ nói tên của nó cho má xem nào.”

“MUNGO!” Tôi gào lên. “Má vừa lòng chưa?”

Má ôm lấy đầu. “Ôi, cưng ơi.” Má nói, “Con là Mungo.” Má lại với tay qua tôi và lần này tôi không còn đủ sức để cản bà. Và trong khi bà vuốt tóc tôi, tôi kể cho bà nghe phần còn lại của bí mật, rằng cha Cá Chua chính là cha ruột của tôi.

Má xiết tôi thật chặt làm tôi nghĩ tôi nghẹt thở. Má nói: “Ôi, cưng ơi. Thật là một điều khủng khiếp. Làm sao con có thể tin vào điều đó chứ, dù chỉ một giây thôi? Con rất giống ba con, không đúng sao. Còn đôi mắt xanh của con thì sao, giống ba không? Tóc con xoăn, giống ba không? Cánh mũi thật đẹp của con, còn... còn cái tật to mồm của con nữa, vì Chúa lòng lành? Chỉ có một người duy nhất có những thứ đó thôi. Sao hả?”

Mắt tôi khóc làm ướt áo má. Sau một lúc má nhẹ nhàng nhấc đầu tôi ra, và nói. “Tốt rồi. Điều này rất tốt. Con biết mà, trước đây con chưa thật sự khóc cho ba con. Con có khóc một chút ngày ổng chết nhưng từ đó tới giờ con giữ hết ở trong lòng, đúng không nào? Ngay cả trong ngày đưa tang. Con đã thật là tuyệt, má rất hãnh diện về con. Nhưng cũng có khi con người ta có thể trở nên quá tuyệt. Cả con cũng vậy.”

Hai ngày sau chúng tôi trở lại London, tại phòng tư vấn khi có người thân qua đời ở công viên Belsize, nơi mà tôi đã tới sau khi ba mất. Tôi có ba buổi học ở đó sau khi ba mất. Tay chuyên viên tư vấn có một cái cằm màu xanh thật lạ vì cạo râu nhiều quá, nhẵn thín và xanh như quả mận có một kẽ nứt trên đó. Ổng không phải là một tay dở nhưng ổng không hiểu nhiều về trẻ con, điều này là một hạn chế khi ông là chuyên gia trong việc nói chuyện với chúng. Ý tôi muốn nói là bạn có thể qua mặt ổng dễ dàng. Ổng nói về sự giận dữ và việc tống nó ra khỏi con người mình là rất quan trọng, và vào cuối buổi học thứ ba, ổng mời má tôi vào phòng và nói rằng tôi tỏ ra trưởng thành đáng kể đối với một đứa mười lăm tuổi có cha mới qua đời.

Một tuần sau đó tôi đục thằng Khạc Đờm gần chết. Nhưng ê nè, tôi đã tống cơn giận dữ của mình ra ngoài vậy thì còn vấn đề gì nữa đây?

Lần này trở lại, chúng tôi nói về cái mùa hè đầy khó khăn của tôi. “Mungo đã có một mùa hè thật tồi tệ,” má kể với ông ta, và má nói hết những chuyện khác nhau về việc dời nhà tới một môi trường hoàn toàn mới và không quen biết ai cả, và cái ngày khó khăn tôi đã trải qua khi những đứa bạn ở London xuống chơi và vụ bỏ nhà đi, và rồi (tôi để ý thấy không hề nhắc gì tới Cá Chua) bà nói đến việc thật sự làm bà phiền lòng – làm phiền lòng cả hai chúng tôi. “Tôi nghĩ là,” má gần như nói thì thầm: “có một chút gì đó lộn xộn giữa thực tại và huyễn tưởng ở trong đầu Mungo. Nó luôn có một óc tưởng tượng phong phú. Ba nó từng nói...” “Làm ơn thôi đi,” tôi nói.

“Thế nào đi nữa,” má nói tiếp, “thì nó đang sống một mình lâu quá rồi, tới mức mà... này, kể với bác sĩ Cousin đi, Mungo, những gì con nói với má đó.”

“Tôi gặp một đứa con trai kia mà tôi nghĩ nó là anh em của tôi.” Tôi nói. “Và nó nói với tôi là... à, nó không thật sự nói với tôi, nhưng gần như cho tôi biết... rằng cha tôi không phải là cha ruột của tôi, mà lại là cha của nó, cái ông có tên là Brian Boland đó.”

Má nhìn ông bác sĩ và nói. “Thật là rắc rối, tôi biết mà.”

“Và điều này không đúng phải không nào?” Ông bác sĩ hỏi má.

Má lắc đầu mạnh hết cỡ có thể mà không bị chảy máu mũi. “Nói cho bác sĩ Cousin nghe con nghĩ rằng thằng đó tên là gì đi.” bà nói.

Tôi nhún vai. “Mungo. Dù sao đó là cái tên mà nó đã nói.”

Ông bác sĩ thọc ngón tay vào cái lỗ trên cằm và nói với tôi: “Có ai khác ở đó khi cháu gặp thằng nhóc đó không, hả Mungo?”

Đó là một câu hỏi thật hay. “Không.” Tôi phải thừa nhận.

“Nhưng cháu đã biết chắc sự tồn tại của nó? Nó có bằng xương bằng thịt giống như tôi đang ngồi đây không?” Tôi lại nhún vai. Tôi thật sự không biết gì nữa.

Thế là ông bác sĩ nói, thật ra ở một giai đoạn nào đó những đứa trẻ băn khoăn rằng có phải người này hay người khác là cha mẹ ruột của chúng không là chuyện tương đối thông thường. Trong trường hợp của tôi có lẽ sự chấn thương trong chuyện mất người thân đã khiến điều này xảy ra. Ông nói rằng ông không muốn dấn sâu vào các thuật ngữ y học nhưng những gì tôi đã trải qua thì chắc chắn là đủ nghiêm trọng để dẫn tới một sự phân hoá về mặt cảm xúc, điều này lại có thể dẫn tới – ông ta ho khan vào lúc đó và lấy tay che miệng, cố nói với má mà không để cho tôi hiểu (dởm thiệt!) – có thể dẫn tới (ho) “những ảo giác loạn thần”.

Một cái đầu cá trê, một thằng quê mùa, và giờ là một thằng loạn trí!

Tay bác sĩ tổng quát đến nhà cho tôi vài viên thuốc và tôi nằm bẹp trên giường hai ngày, xem chương trình tivi ban ngày bằng một cái tivi xách tay chắc do cha Cá Chua đem tới và chắc là đồ mà Tally vất đi nhưng tôi cũng không buồn hỏi.

Tôi nói với má: “Vậy má hứa rằng ba của con là ba của con, và con không có thằng anh em nào cả, rằng thằng Mungo chưa bao giờ tồn tại?”

“Má hứa.” Má nói. “Chỉ có duy nhất một Mungo và nó đang ngồi ngay trước mặt má, có vẻ như nó cần phải tắm một phát và thay quần áo ngủ đi.”

Tôi lắc đầu, nghĩ về cái khoảnh khắc mà tôi đã mất và đục thằng Khạc Đờm te tua. Rồi tôi bật khóc. “Nhưng điều đó có nghĩa là con khùng,” tôi nói, “con là một thằng tâm thần mang chứng ảo giác loạn thần, bịa ra người ta và mọi thứ và... và...” Tôi sắp nói thêm: “suýt giết những đứa trẻ tàn tật,” nhưng tôi đã tự ngừng lại.

“Sụyt, sụyt...” má nói và đặt bàn tay mát lạnh của bà lên cái trán nóng hổi của tôi. “Đây không phải là việc của bất cứ ai cả, mà là của má con mình. Và nó hoàn toàn có thể hiểu được, bác sĩ Cousin nói vậy đó, qua những điều mà con đã từng trải và con quả là một chàng trai phi thường. Ba con luôn nói rằng con có một bộ óc như cỗ máy đa năng vậy.”

Tôi không chắc, vả lại, tôi thật sự tin rằng những gì má và bác sĩ Cousin nói là đúng, rằng tôi đã bịa ra tất cả mọi chuyện. Nhưng nhiều khi tin theo những gì người khác nghĩ và lờ đi những điều bạn biết và nghĩ thì dễ dàng cho mình hơn, nhất là khi bạn sợ những điều mình biết và nghĩ.

Tôi không quên con sứa, tất nhiên tôi không quên. Tôi biết tôi hẳn không thể cũng cũng bịa ra điều đó. Và bất cứ lúc nào muốn thì tôi có thể kiểm tra lại sự tồn tại của nó: tôi chỉ cần vô phòng má khi bà không có mặt ở đó. Con sứa là thật, nhưng những giây phút đó đã qua rồi. Tôi không muốn hỏi thêm gì nữa.

Hơn nữa, chính lũ sói đã gợi hứng cho tôi tranh đấu và giờ thì chúng đã biến mất, và tôi lại nghĩ rằng có lẽ tranh đấu là không đúng, tranh đấu chống lại những thứ vớ vẩn mà cuộc đời đổ lên tôi. Tốt nhất là đứng yên đó và hứng hết thứ rác rưởi đổ lên đầu mình bởi vì tôi có gì đặc biệt đâu? Ai cũng có thể nghĩ tôi là đứa duy nhất phải nhận lấy điều đó. Nhưng cuộc đời là thế, lịch sử là thế - cả triệu tỉ người, mỗi người có con bọ chét vườn riêng của mình đong đưa trên đầu mình, nhỏ xuống những khối lượng phân bón công nghiệp lên mình ngày đêm. Bạn không thể chống lại phân bón, bạn không thể đấm nó và nếu bạn la thét nó, thì nó sẽ rơi vào miệng bạn (và rồi bạn sẽ là một thằng ăn phân bón thôi – haha).

Việc nhận ra được điều này được gọi là sự trưởng thành.

Tôi kéo cái mền dồn lông vịt lên phủ quanh đầu và cười khinh một chương trình quảng cáo trên tivi dành cho các loại thang nâng tự động.