CHƯƠNG 15
Mười ngày nữa là ngày khai giảng học kỳ ở trường mới của tôi. Má và tôi đang là những người mà ba hay gọi là những người sáng ngời hạnh phúc. Chúng tôi không nói gì về chuyện ba chết, hay Mungo, hay chuyện tôi bỏ nhà đi bụi, chúng tôi chỉ bàn về chuyện tương lai. Má dắt tôi tới Basingstoke để mua đồng phục mới (đừng hỏi vì sao). Bà nói mọi chuyện sẽ là một khởi đầu mới nguyên, rằng khi tôi đi học được một tuần thì những chuyện đã xảy ra trong năm nay sẽ như là một cơn ác mộng mà thôi.
Một tuần nữa thì học kỳ bắt đầu – và Bickleigh lại nằm trên đường đi của cơn bão lớn đầu tiên của nước Anh.
Trong nhiều ngày một cơn áp thấp sâu từ biển Đại Tây Dương tiến vào nội địa. Tin tức trên tivi cho thấy những hình ảnh của nó cuộn lên về phía chúng tôi được chụp từ vệ tinh và đưa ra những cảnh báo về vùng nào sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nó tiến vào qua bờ biển vào ban đêm và cuốn xuyên qua trung tâm của miền Nam nước Anh, đụng Bickleigh vào khoảng ba giờ sáng.
Cả buổi tối hôm trước gió đã dấy lên và các bản tin ngắn trên tivi cắt ngang những chương trình thông thường để cập nhật tình hình. Má và tôi mặc đồ ngủ, ở dưới tầng trệt, xem tivi trong một tâm trạng khác thường, nửa sợ hãi nửa hồi hộp nao nức. Vào giữa đêm, tivi đổi qua một chương trình tin tức thường trực và đó là lúc lần đầu tiên người ta thông báo rằng cơn giông đã chính thức nâng cấp lên thành thành cơn bão rất lớn.
Gió mạnh đã giật tới một trăm ba mươi dặm một giờ. Phần trên của những khán đài sân bóng St Mary ở Southampton đã bị giật bay mất. Cửa sổ và một số biển quảng cáo bị thổi bay khỏi tháp Spinnaker ở Portsmouth và làm chết ba người dưới đất. Mọi người được khuyến cáo nên ở trong nhà và làm những gì có thể để gia cố bảo vệ nhà của mình. Má ôm tôi và tôi dụi đầu vào vai của bà như thể tôi đã trở thành con cừu dở sống dở chết. “Mình sẽ bình an.” Má nói rồi nói thêm: “Má nghĩ vậy.” như thể bà cũng không tin vào lời của mình. “Mình đang hơi bị kẹt một chút. Nó có thể bay ngang qua đầu mình. Mình có nên hé hé nhìn ra ngoài không nhỉ?”
Chúng tôi cùng tiến tới cái cửa mở ra vườn và má phải gắng sức để mở nó ra. Bên ngoài, không khí cuộn thổi ù ù quanh khu vườn, đè gập mấy lùm cây và ném tung mấy chậu cây cảnh. Nó đánh bật chúng tôi trở lại, làm chúng tôi nghẹt thở, làm chúng tôi bật cười và cũng sợ muốn chết. Trong bóng tối, gió ù ù trong đám cây cối xung quanh nhà. Nghe như bản ghi âm những cơn sóng vỡ, chậm hẳn xuống. Tôi giúp má kéo cánh cửa lại.
“Phào,” má nói. “Má chưa từng thấy cái gì giống như vầy. Vụ thay đổi thời tiết này là có thật rồi. Má nghĩ mình ở dưới này tối nay, để phòng ngừa. Con nghĩ sao nào?”
“Phòng ngừa cái gì má?”
“À, má chắc là nó không xảy ra nhưng...”
“Nhưng sao má?”
“À, mình đâu thể biết được. Cây cối có thể đổ trên đầu mình. Cho nên tốt nhất là ở nơi an toàn, phải không nào?”
Chúng tôi để tivi mở suốt, vặn nhỏ âm thanh lại và làm một cái ổ trên ghế sô-pha bằng thảm và gối dựa với một khay trà và bánh bích quy. Sau đó, khoảng một giờ sáng, điện cúp, đèn và tivi tắt ngúm. “Ô, thôi rồi,” má thốt lên. Chúng tôi nhìn sững vào cái màn hình tivi trống không, nhìn đốm sáng tắt dần đi. Sau khoảng một phút thì đèn và tivi lại loé lên, mở-tắt, mở-tắt, rồi sáng trở lại bình thường. “Tạ ơn Chúa.” Má nói.
Một phút sau thì điện lại cúp, và lần này thì mất hẳn luôn. Tiếng gió thổi ù ù trong đám cây vang lên thật lớn trong bóng tối.
Sau khi chúng tôi ngồi đó im lặng được năm phút, chỉ lắng nghe tiếng gió và tưởng tượng dòng xoáy của không khí giận dữ tiến về phía mình, băng qua những ngọn đồi và những cánh đồng, má nói, nửa cho riêng bà và nửa cho tôi: “Hãy nghĩ xem, cố nghĩ xem. Ngoại cất nến ở đâu ta?”
“Có trong cái tủ chén dưới chậu rửa bát không?”
“Con giỏi lắm. Má cá là chúng ở đó. Bây giờ vấn đề là làm sao lần tới đó trong bóng tối đen kịt này.”
“Má nè,” tôi nói: “có nhớ cái hang mà mình xuống ở Barbados không? Đó mới là tối thui. Con vẫn thấy bóng mờ mờ của mọi vật ở đây mà.” Chúng tôi sắp sửa bị một cơn bão tệ hại nhất từ hồi nào giờ tấn công nước Anh đánh vào, và tôi đang co ro trên ghế sô-pha với trà và bánh bích quy, lạnh cóng.
“Má mừng là con có thể nhìn thấy được. Má thì không thấy gì hết. Con đi tìm mấy cây nến nghen? Hy vọng là ở đó có cả diêm quẹt nữa, nếu không có thì má không biết mình sẽ xoay xở sao đây.”
“Dạ, để con đi.”
Tôi lần mò về phía nhà bếp, cố gắng nhớ cách sắp đặt của căn phòng. Khi tới cửa tôi không tìm thấy cái nắm cửa ở đâu. Tôi mò khắp trên cánh cửa mà không thấy cái nắm cửa ở trên đó. Tôi bật cười lớn.
“Cái gì vui vậy con?”
“Khi cúp điện hình như có ai đó lẻn vào nhà và lặng lẽ chôm mất cái nắm cửa, vì nó không còn ở đây nữa. Ô, chờ chút. Nó đây rồi.”
Tôi tìm thấy nến, và một ít diêm, và tôi đem luôn ba cái đĩa nhỏ để cắm nến. Chúng tôi ngồi trong ánh nến lắng nghe tiếng gió, rồi tôi bắt đầu ngủ gục, đầu dựa vào vai má. Má vuốt tóc tôi vài lần, tôi không thích lắm, nhưng tôi cũng không ngăn bà, chẳng bao lâu cả hai má con đều lơ mơ ngủ.
Một dây tiếng động lộp độp đã đánh thức cả hai. “Cái gì vậy?” Má hỏi.
Tôi biết đó là cái gì. “Mưa, con cũng nghe cái tiếng này trên lò sưởi trong phòng của con nữa, khi mưa lớn.”
Chúng tôi lắng nghe. Bên ngoài tiếng lộp độp trong lò sưởi, bên trên tiếng gió thổi ù ù trong đám cây cối, là tiếng rít lớn của mưa nặng hạt. Suốt một giờ sau đó, tiếng ù ù và tiếng rít càng lớn dần, các cửa sổ và cửa lớn rung lạch cạch, và ngay cả các bức vách của ngôi nhà hình như cũng rung chuyển. Chốc chốc lại có một tiếng trượt và nghiến từ phía trên, sau đó là tiếng đập rầm rầm lên mấy phiến đá bên ngoài. Những miếng ngói đang rơi xuống. Chúng tôi không còn ngủ gà gật được nữa. Chúng tôi ôm cứng lấy nhau, những cánh tay của chúng tôi cứng lại vì thế, nhưng chúng tôi vẫn xiết lấy nhau, như thể gió đã thổi tung vào phòng và chúng tôi đang cố hết sức để không bị cuốn bay đi.
Đôi mắt của má trông thật to dưới ánh nến. Má nảy ra một ý: “Lấy cái ra-đi-ô đi, có thể nó vẫn bắt sóng được. Có lẽ quân đội sẽ tới cứu mình.”
Tôi mang cái ra-đi-ô từ trong bếp ra, mở lên nhưng chỉ có tiếng rọt rẹt. Má xoay nhẹ cái núm vặn dò sóng, rồi chịu thua. “Chào thua. Má không biết điện thoại còn hoạt động hay không.”
Tôi trở vô bếp và thử điện thoại. “Tiêu luôn, im ru bà rù rồi.” Tôi nói.
“Mungo à!” má gọi.
Tôi trở lại ghế sô-pha và chúng tôi im lặng một lúc lâu, chỉ ôm níu lấy nhau và lắng nghe tiếng giông bão đang trở nên lớn dần và cuồng nộ hơn. Rồi má thì thầm: “Thật là kỳ dị hết sức.”
“Sao má?” tôi cũng thì thầm.
“Bị cắt lìa ra như thế này. Không điện, không điện thoại, không ra-đi-ô, không tivi. Không thông tin. Ra ngoài thì quá nguy hiểm. Nó làm cho mình cảm thấy giống như... má không biết. Một cái chấm nhỏ nhoi vô nghĩa.”
Trong một lúc, không ai nói gì thêm nữa, rồi tôi nói: “Má à...” và ngừng lời.
“Gì con?”
“Có bao giờ má thắc mắc tại sao má lại là má không?”
“Ý con là sao đây?”
“Con muốn nói là, như phân biệt với ai khác. Như là, bà Plunkett-Strawberry chẳng hạn. Nếu tất cả sự hiện hữu của má là một vết hư vô, thì má có thể là bà Plunket-Strawberry lắm chứ. Vậy tại sao má là má mà không là bả?”
“À...”
Tôi biết má không hiểu mốc xì gì. “Hay là” tôi nói, “tại sao con là con mà không phải là cả triệu đứa trẻ khác? Ví dụ nghen, nếu má không cưới ba mà lại cưới ai khác, và má có một đứa con, thì thằng nhóc đó có vẫn là con không? Hay nó là một nửa con thôi?”
“Ồ không, Mungo à, đừng bàn về vụ đó nữa. Lúc này mình đã có đủ thứ chuyện rồi. Con biết không, má nghĩ là mưa đang càng lúc càng lớn hơn. Kìa, thêm một miếng ngói rớt nữa kìa. Mình phải làm gì bây giờ đây? Có lẽ mình nên đi xuống hầm rượu thôi.”
“Nếu má có một đứa con, nhưng với một người chồng khác. Má sẽ đặt tên cho nó là gì?”
“Má đã nói với con điều đó từ trước rồi. Con trai đầu lòng của má sẽ được đặt tên là Mungo. Con có nghĩ là mình nên xuống hầm rượu không?”
“Vậy nếu má không có mặt trong phòng ghi âm ở Marylebone vào cùng ngày với ba, thì con không có mặt trên đời rồi. Và rồi má hẳn sẽ gặp một cha nội nào khác, có thể một tay đua xe hay một tay phóng viên ngoại quốc, và có một đứa nhóc và đứa nhóc đó sẽ là Mungo, nhưng nó sẽ không là con, phải không? Hay hắn cũng lại là con?”
Má vuốt tóc tôi. “Thôi đi, cưng. Mình đang kẹt lắm ở đây rồi, và má không biết phải làm gì nè.”
Chợt tôi hiểu ngay, khi cơn bão đang điên cuồng ngoài kia, đây là lúc để hỏi câu hỏi sinh tử đó. “Má nè, tại sao má có một...?”
Tôi đang định nói “cái ‘áo mưa’ dưới giường.” - nhưng ngay lúc đó thì cái cây đổ ầm lên ngôi nhà.
Cái cây chém đòn karate xuống mái nhà làm ngôi nhà rung chuyển dữ dội khiến chúng tôi nghĩ là nó sắp sập, giống như căn nhà rơm bị con sói thổi sập. Má thét lên và ôm chầm lấy tôi. Tôi nhắm nghiền mắt, chờ bị chôn vùi và đè nát như cám. Ngôi nhà có vẻ như nghiêng đi. Tôi nghe các khung hình trượt khỏi vách. Chúng tôi như đang ở trong phòng tiệc của con tàu Titanic, nửa giờ trước khi nó chìm. Cả hai mẹ con chúng tôi cùng ho. Khi tôi mở mắt ra thì mọi vật tối thui, mấy ngọn nến đã bị ngã và tắt ngúm. Tôi nếm thấy bụi đất trên lưỡi và vô ý hít một mớ bụi vào trong cuống họng nên tôi ho sặc sụa, không thể nào ngừng để lấy hơi lại bình thường.
Má ôm tôi chặt hơn nữa. “Ôi, Chúa ơi, Chúa ơi, thôi rồi. Mình phải cố xuống hầm rượu thôi, con thấy sao?”
Lối dẫn xuống hầm rượu là một cái cửa sập đằng sau cái sô-pha mà trên đó chúng tôi đang ngồi co ro. Tôi nói: “Nhưng nếu có cái gì đó rớt đè lên cánh cửa sập thì mình sẽ bị kẹt cứng.”
“Đúng vậy. Mấy cây nến đâu mất rồi, con tìm coi?”
Tôi mò quanh mặt bàn cho tới khi tìm được một cây nến, tôi cắm nó lại trên cái đĩa và thắp lên. Chúng tôi nhìn quanh phòng. Có những khoảng trống nơi những khung hình đã treo ở đó. Bụi bặm bay ra như khói từ những chỗ nứt giữa trần nhà và các bức vách. Chúng tôi đập tay ra trước mặt, cố quạt bụi đi, và má nói giữa cơn ho: “Hay mình chui xuống dưới cái bàn kia? Nó chắc chắn lắm đó.”
Thế là chúng tôi bò xuống dưới cái bàn trong phòng khách và ở yên đó, quấn thảm quanh người, lắng nghe tiếng ngôi nhà kẽo kẹt rền rĩ, lắng nghe tiếng gió thổi ù ù và tiếng mưa rít, lắng nghe chờ tiếng gãy và vỡ tan của một cái cây khác đổ xuống.
Cuối cùng dường như mưa gió cũng giảm đi chút ít. Ngôi nhà không còn rên rĩ nhiều nữa, bụi bặm lắng xuống. Tôi mạo hiểm chui ra khỏi gầm bàn để vén rèm cửa. Đằng sau rèm, khung cửa hình chữ nhật đang nhợt nhạt với ngày mới bắt đầu. Tôi bò trở lại gầm bàn, má thì thầm: “Má không muốn liều lĩnh nhưng má nghĩ điều tồi tệ nhất đã qua rồi. Con thật là tuyệt, cưng à. Uống một ly trà nghen? Má sẽ đặt một cái nồi lên để nấu nước.”
* * *
Lúc đó chúng tôi không hề biết, nhưng chúng tôi đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Chỉ ở Bickleigh thôi, bốn mươi bảy ngôi nhà đã hoàn toàn bị phá huỷ và một người bị chết. Đó là nơi tập trung tổn hại tồi tệ nhất trong nội địa, chỉ kém ngoài bờ biển thôi. Lần đầu tiên từ trước tới giờ, cái Thị Trấn Của Người Chết đã sống lại, không kể tay nhà quê đáng thương đang dắt con chó đi dạo thì bị một cái cột đèn đè cho xẹp lép.
Nhưng buổi sáng hôm đó chúng tôi không có cách nào để liên lạc với bất cứ ai hay tìm được cái gì. Chúng tôi ăn một ít ngũ cốc và thay quần áo, và tới lúc đó thì gió đã bớt nhiều, còn mưa thì giảm lại thành cơn mưa phùn. Chúng tôi nghĩ là an toàn để đi ra ngoài, tuy nhiên má tìm thấy vài cái mũ bảo hiểm và bắt đội lên để phòng ngừa những mảnh vỡ rơi xuống. Chúng tôi mở cửa nhà.
Cái cây gãy sà xuống trên đầu chúng tôi như một đoàn máy bay diễu hành. Chúng tôi đi phía dưới nó rồi đứng lại giữa vườn nhìn lại ngôi nhà. Cái cây đã chém một vết hình chữ V trên mái ngói. Tôi nhìn má, má rùng mình và ôm lấy tôi, cả hai cùng nghĩ một điều: nếu chúng tôi vẫn nằm trên giường, thì một hay cả hai mẹ con tôi chắc đã bị đè chết. Các thanh gỗ của mái nhà bị vỡ nát từng mảnh như những que diêm bị bẻ vụn, và ngói vỡ nằm ngổn ngang đầy mặt đất quanh ngôi nhà.
Má nói: “Đây là việc mà mình sẽ làm nè. Con ở lại đây phòng khi có ai đó như cảnh sát hay quân đội tới, và con phải luôn đội mũ bảo hiểm – nè, không nhưng nhị gì hết, Mungo à. Con phải luôn luôn đội cái mũ đó. Không ai ngó thấy con đâu, Chúa ơi! Và má sẽ ra xem chiếc Skoda, xem xăng cộ đi được bao xa, và má có thể tìm ra được điều gì không. Đồng ý nghen cưng?”
Tôi đáp: “Đồng ý.” Một điều tôi rất hài lòng là: Má đã không quyết định chỉ ngồi đó chờ cha nội Cá Chua hiện ra như Đội Hiệp Sĩ Cứu Khốn Phò Nguy.
Tất nhiên tôi bỏ cái mũ xuống ngay. Tôi chờ mười lăm phút. Bên trong tôi những con sói đã trở lại, được cơn bão tiếp sinh lực cho. Tôi lên cầu thang, thật thận trọng phòng khi mái ngói đổ sụp xuống đầu, rồi vào phòng của má. Tôi tìm con sứa. Dưới gầm giường, trong tủ, trong mấy ngăn kéo. Không có con sứa nào. Chắc má giữ nó trong người. Tại sao má lại giữ nó trong người?
Có lẽ vì má nghi ngờ tôi sẽ lục lạo rình mò. Hay có lẽ để tiện có để dùng ngay, mọi nơi mọi lúc.
Con đường nhỏ bên ngoài ngôi nhà đang thật tệ. Cơn mưa đã biến một bên của nó thành con sông cuộn nước. Tôi phải giảm tốc độ chiếc xe đạp chạy đường núi đến gần như đứng yên để tránh những cành gãy và các tảng đá và những thân cây thỉnh thoảng nằm ngay giữa đường. Tôi không nghĩ làm cách nào mà má có thể lái chiếc Skoda cà tàng theo lối này được. Rồi tôi rẽ qua góc phố và có câu trả lời. Chiếc Skoda đã đậu lại bên đường; hay không hẳn là đậu lại, mà chỉ dừng lại đó, phân nửa trên mặt đường, phân nửa trên bờ sình. Tôi đạp nhanh hết sức, miệng la to: “Má, má ơi!” Trong chiếc Skoda trống trơn.
Tôi cố mở mấy cái cửa xe. Chúng đều khóa. Tôi không hiểu được chuyện gì. Rồi tôi hiểu. Đây là trò của Cá Chua, phải là như thế. Má chắc đã mất chừng mười lăm phút để vượt qua hai trăm mét xuống con đường này. Sau đó chắc bà đã gặp cha Cá Chua trờ tới từ con đường khác trong chiếc 4WD của hắn, đóng vai Đội Hiệp Sĩ Cứu Khốn Phò Nguy, và bà đã leo lên xe hắn và lái đi sâu vào vùng đổ nát của Manuresville.
Tôi ngập ngừng, tự hỏi nên quay trở lại hay đi tiếp về hướng Bickleigh. Rồi tôi nghe tiếng xe đang lái tới chầm chậm leo lên con đồi, và tôi có đủ thời gian để núp xuống cùng chiếc xe đạp đằng sau chiếc xe của má.
Đúng như tôi nghĩ, đó là chiếc xe Cá Chua, và má đang ngồi bên cạnh hắn. Cá Chua đang rồ máy xe và hào hứng lái băng qua các chướng ngại vật. Tôi ở cạnh chiếc Skoda, chờ cho chiếc Cá Chua trở lại. Mười phút sau tôi nghe nó tới và núp xuống tránh ngoài tầm mắt. Má vẫn ngồi bên ghế hành khách. Thử suy xét xem sự vụ đó thế nào.
Tôi đạp xe về nhà. Có một lá thư ngắn chữ của má được đính vào cửa chính:
Mungo ơi, con đi đâu mất tiêu rồi? Đừng vào nhà nghen. Người ta nói với má là chắc chắn bây giờ nó rất nguy hiểm. Con hãy đạp xe tới hội trường làng Bickleigh và gặp má ở đó. Con không cần đem theo gì cả (trừ cái nón bảo hiểm!) Đã có quần áo, mền gối và thực phẩm ở Bickleigh. Cho nên, má lặp lại, đừng đi vào nhà vì bất cứ lý do gì.
Ráng tới càng sớm càng tốt, con yêu. Bảo trọng nghen.
Má XXXX