CHƯƠNG 16
Đằng xa, cái trụ cổng màu trắng của Ngôi Nhà Trái Thơm hiện ra. Ban đầu tôi không nghĩ gì về nó cả. Tôi bận đạp xe và tránh chướng ngại vật nằm trên đường: một cái lò nướng thịt xách tay, một cái hồ bơi bơm hơi dành cho trẻ em bị xì hết hơi, mấy chiếc ủng hiệu Wellington, và lớp bùn đóng váng nhìn rằn ri da rắn... và thỉnh thoảng núp tránh xe tình cờ đi ngang. Một lần, cha Cá Chua lại lái xe ngang qua, lần này không có má, nhưng có xe cảnh sát ba lần chạy qua, thật chậm, bật đèn pha sáng choang và chớp đèn xanh nhưng không mở còi hụ. Tôi thật sự không tưởng tượng bị cha cảnh sát Ba-Hoa-BựaKẽ-Chân hay các đồng nghiệp của ổng tóm cổ, ngay cả trong tình huống khác thường là Manuresville vừa mới bị san bằng bởi cơn bão lớn đầu tiên của nước Anh, cơn bão theo định nghĩa trong tự điển.
Tới khi tôi tới gần hơn cái trụ cổng trái thơm thì tôi nghe một tiếng vỡ lớn như ngói trượt từ mái căn nhà gỗ – hoặc cái mà tôi vẫn cho là căn nhà gỗ. Nhưng khi tôi nhìn xuyên qua những cánh cổng về phía ngôi nhà thì căn nhà gỗ đã biến mất. Không còn chiếc xe sét gỉ, không còn ông già Noel bằng đèn neon. Thay vào chỗ của chúng, là một ngôi nhà sơn màu trắng có nhiều lỗ châu mai dọc theo phần trên cùng, ngay lập tức tôi thấy chúng thật quen thuộc, cho dù tôi biết chắc rằng mình chưa từng thấy nó trước đây. Tôi ngừng lại nhìn, cố hiểu cho ra. Có thể có hai ngôi nhà có các trái thơm trên trụ cổng và cho tới bây giờ thì tôi chưa từng để ý có ngôi nhà này. Tôi nhìn từ đầu tới cuối con đường Bickleigh. Rõ ràng chỉ có một đôi trụ cổng có hình trái thơm gắn trên đó.
Trong tim tôi, lũ sói đang rộn lên và đánh hơi. Đúng là trước đây tôi chưa từng thấy ngôi nhà này, nhưng tôi vẫn biết nó. Tôi đã từng ở trong đó. Đúng ngay chóc rồi.
Trong cơn ác mộng mà tôi có dưới cái giếng.
Tôi ngó sững ngôi nhà màu trắng có lỗ châu mai, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi tự nhủ vụ này hẳn là một cú ảo giác loạn thần. Nhưng dường như không có gì thật hơn. Đây không phải là một sự vật do tưởng tượng đang diễn ra trong bộ phim trong đầu tôi. Đây là đoạn đường mà cha Cá Chua đã lái chiếc Land Rover của chả vào, cái cửa trước mà chả đã bước qua trong đôi giày ủng. Cái cửa sổ lớn ở tầng một - chắc là cửa sổ phòng ngủ của tôi, nơi tôi đã đứng nhìn cha nội Cá Chua đang tới.
Mái nhà đã bị hư hỏng rất nặng, những viên ngói vẫn còn đang rơi xuống đất kêu lanh canh. Trên đường vào nhà có một chiếc Jag mang biển số cá nhân: BOL A1. BOL là viết tắt của Boland. Brian Boland. Đây là nhà của Cá Chua. Nhưng làm sao có thể như thế được? Gia đình Cá Chua đang sống ở Hedge End Hall mà. Tôi tiến tới cánh cửa trước, một cái bảng thông báo được gắn ở đó:
Cảnh sát thông báo
Công Trình Nguy hiểm
CẤM VÀO!
Tôi rung chuông cửa để phòng hờ. Không có ai trả lời. Tôi gõ bằng cái gõ cửa hình đầu con sư tử khá nặng. Không có tiếng động nào ngoại trừ tiếng gió gào rú trên ngọn cây xung quanh và, từ bên trong, những tiếng đổ vỡ và rạn nứt khe khẽ, như thể ngôi nhà đang từ từ sụp đổ.
Bickleigh là một thị xã nhỏ có nhiều căn nhà rất cũ, cũ đến độ mái ngói của chúng đã sụt xuống thành những đường sóng gợn. Chúng là mồi ngon cho cơn bão. Nó đã mần thịt chúng, từng ngôi nhà một. Đập vỡ mái, thổi bay các cửa sổ, bốc mấy chiếc xe hơi lên và nhét chúng vào các hộp thư, như một tay sát thủ mafia để lại danh thiếp. Từng mảng nhỏ của tòa nhà vẫn đang đổ hay trượt xuống. Tôi thận trọng đạp xe giữa lòng đường, từ từ tiến lên giữa đống đổ nát.
Âm thanh văng vẳng của đám đông đang trò chuyện. Con đường rẽ một góc ngoặt vào phố chính. Hội trường của làng ở bên phải, một tòa nhà vuông vắn lớn có bảng thông báo kế bên lối vào quảng cáo chuyện nhảm nhí về những cái giếng vùng Old Wessex của Bà PlunkettStrawberry. Cơn bão đã xé tơi tả lá cờ nước Anh trên cái cột cờ bên trên lối vào và thổi bay gần hết các cửa sổ. Tôi thấy những cái đầu nhúc nhích đằng sau kính vỡ. Trông họ rời rạc, như một mớ đồ vật hổ lốn bị kẹt chặt lắc lư trong một cái thùng. Có nhiều người nữa, có lẽ đến cả trăm người, ở trước hai lần cửa mở rộng của hội trường, trên những bậc thềm dẫn tới cửa và cả trên đường, và chính là những tiếng trao đổi làu bàu của họ tôi đã nghe được trước khi rẽ qua góc đường.
Tôi đi xuyên qua đám đông, ngó những khuôn mặt, tìm má và cố nhớ là không được thô lỗ với Cá Chua nếu ổng đang ở đó với má. Và khi tôi tìm được má thì tôi sẽ đưa bà về Căn Nhà Trái Thơm ngay lập tức, trước khi nó có cơ hội để thay đổi. Tôi sẽ chứng minh cho má thấy là tôi không bị khùng, trái lại thế giới này đang khùng.
Nhưng đó không phải là vấn đề của tôi.
Trông thiên hạ như đang bị bàng hoàng, ngây ra như những pho tượng. Một đôi ông bà già đứng bên nhau, không nói năng gì. Một gã đang cầm cây dù che cho họ. Khi tôi tiến về phía gã thì gã hoàn toàn không đoái hoài gì đến tôi, cứ nhìn thẳng về phía trước và nghịch cái cà vạt của hắn với bàn tay còn rảnh. Người đàn bà cũng vẫn nhìn thẳng về phía trước.
“Xin lỗi,” tôi hỏi, “bà có thấy bà McFall ở đâu không? Bà ta làm việc ở cửa hàng từ thiện ấy.”
Người đàn bà nói: “Tôi ước gì chúng ta có thể về nhà.”
Tôi tưởng bả đang nói chuyện với tôi và tôi đáp lại: “Ồ đúng rồi, tôi chắc rằng...”
Nhưng cái gã thanh niên nói lướt trước tôi: “Có hai cái giường dã chiến rất tốt đang chờ chúng ta trong kia.”
Và tôi nhận ra rằng họ không hề để ý tới tôi. Nhưng đến lúc đó tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tôi chỉ nghĩ là bởi vì họ là đám nhà quê Bickleigh lãng tai thông thường. Và bạn không thể trách cứ sao họ ngờ nghệch ngớ ngẩn vậy khi chuyện kinh dị nhất tính từ thời bọn khủng long còn sống ở đây đã vừa mới xảy ra.
Những người khác đang nổi nóng. Một người đàn bà cầm một tờ báo trên đầu để che mưa đứng dậm chân khi tôi đi ngang và la to: “Chuyện này không thể chấp nhận được, tuyệt đối không thể chấp nhận được. Sao không có ai hành động gì đi?”
Một người đàn ông trả lời: “Xin giữ bình tĩnh, kiên nhẫn và ủng hộ các đội cấp cứu của chúng ta, họ đang làm công việc tuyệt vời thông thường của họ, tôi biết chắc vậy, và điều cuối cùng họ cần là bị mọi người chê trách.” Vài người cười lớn. Vài người khác vỗ tay hoan hô ông ta. Rồi không khí lại yên lắng và căng thẳng.
“Xin lỗi...” tôi nói, nhưng không một ai thèm nhìn về phía tôi.
Một mùi thối quen quen thoảng qua đám đông: Lão Khắm. Ban đầu tôi không thấy lão bởi vì lão đang ngồi. Lão mặc cái áo len không tay và cầm một điếu thuốc đang cháy, một bàn tay che trên nó, và lão đang ngó lên gã đàn ông đang đứng kế bên, tay này mặc đồng phục cảnh sát và cầm một cái loa. Đó là ông cảnh sát Ba-Hoa-Bựa-Kẽ-Chân, quý danh là ông cảnh sát Strickland. Bà Bựa-Kẽ-Chân - cô Strickland - đang ở ngay sau lưng họ. Tôi định đi tới bà và hỏi bằng giọng London: “Mới đây bà có thấy căn nhà gỗ của mình chưa? Nó tiêu rồi. Tôi nghĩ rằng bà muốn biết về điều đó.”
Rồi Lão Khắm ngó tôi trừng trừng làm tôi cóng cả người lại, ngó quanh để tìm đường lủi cho nhanh. Nhưng tôi không phải ớn nữa. Lão chỉ lắc mạnh đầu và chuyển ánh mắt chằm chằm về ông cảnh sát Strickland, ông này đưa cái loa lên miệng.
“Thưa quý bà, quý ông...” Ông cảnh sát Ba-Hoa-Bựa-Kẽ-Chân nói vào loa làm thành một loạt âm thanh rọt rẹt.
“Thưa quý bà và...” ông ta ho lên sù sụ. “Cám ơn sự kiên nhẫn của quý vị và... của quý vị - tôi nghĩ rằng chúng ta có thể yên tâm gọi nó là tinh thần Dunkirt, ha! ha! Tóm lại là... Cái hội trường làng đã được kiểm tra an toàn nên hãy cứ yên tâm chờ trong này hay loanh quanh gần đây. Còn những nhà cửa khác thì hầu như rất nguy hiểm cho nên làm ơn phải cẩn thận, tôi sẽ truyền đạt lại thông tin khi tôi nhận được điều gì mới. Trong lúc này tôi kêu gọi mọi người ở đâu hãy ở yên đó và... e hèm... chờ thông tin mới. Xin cám ơn.” Mọi người vỗ tay rần rần.
Tôi suýt chết điếng khi ngó thấy người tiếp theo đó - nhưng không đến nỗi tệ đến vậy. Tôi đã biết rồi, tận trong sâu thẳm, sự thật nằm ở đâu. Điều này chỉ xác nhận thêm rằng tôi đã đúng và má và ông bác sĩ Cousin đã sai.
Tôi thấy Mungo.
Hắn không thấy tôi. Hắn bận quần soọc ny-lông, vớ đen và đôi giày thể thao rẻ tiền, đang đi qua đám đông dưới mưa, đầu ngẩng cao như không hề có mưa gió gì cả, bộ dạng như lần đầu tiên tôi thấy hắn vậy. Trước khi kịp nhận ra mình đang làm gì thì tôi đã giơ tay lên gọi lớn: “Mung...” Tôi nuốt nghẹn lời gọi trong cổ họng mình và bỏ tay xuống. Hắn tiếp tục bước đi – hắn chưa thấy hay nghe tiếng tôi gọi – và tôi bắt đầu bám đuôi theo hắn.
Mungo tới hội trường làng và bước từng hai bậc một. Tôi thấy một cặp ngồi trên băng ghế ở phía trái cửa hội trường, ngay dưới cái bảng áp-phích Plunkett Strawberry. Ban đầu tôi không nhận ra họ. Thật khó mà nhìn cho rõ trong cơn mưa nặng hạt, nhưng không phải là chỉ vì cơn mưa đã làm người ta nhìn ra nhau khó khăn hơn. Cặp đó trông khác lắm, giống như những bản sao không được hoàn hảo của chính họ.
Hai người đó là má và cha Cá Chua.
Cá Chua hói và gầy hơn, như thể ổng là người anh em sinh đôi của chính mình vậy, trong khi má thì mập hơn. Bà mặc thứ trang phục mà thông thường thì hẳn là chết đến nơi bà cũng không mặc, một bộ gồm có chiếc váy xếp nếp, áo cổ cao có diềm xếp nếp, và một vòng đeo cổ chuỗi hạt trai, loại trang phục của dân quê mùa hết cỡ. Nhưng đầu tóc của bà mới quái đản nhất. Vì sáng nay, trong cái ngày mà cơn bão đầu tiên của nước Anh đã huỷ hoại phân nửa miền Nam nước Anh, làm cho các đài truyền hình ngưng hoạt động, làm hỏng dây điện và cột điện thoại, thì một tay thợ làm tóc đã làm sao đó vẫn mở được cửa tiệm như thường ngày: Má đã cắt tóc mình thành một mái tóc rèm ngang trán trông thật kinh dị và nhuộm vàng đi.
Rồi Mungo nói ra cái điều chứng tỏ rằng tôi đã đúng về một chuyện trên trần gian này mà tôi ước gì tôi đã sai. Hắn nói với má – má của tôi – “Chào má.”
Tôi đứng ở bậc thang cuối, cảm thấy mình chết cứng tại chỗ. Tôi có thể nghe và thấy được mọi chuyện nhưng có rất nhiều người đứng che khuất nên má, Cá Chua và Mungo không nhận ra tôi. Má nhìn thẳng vào mắt Mungo và nói: “Ôi, chào cưng. Ba má đang băn khoăn rằng con đi đâu. Lại đây, ngồi xuống đi.” Cha Cá Chua nhích ra, và má vỗ trên băng ghế vào khoảng trống giữa hai người, bà nói: “Ba có mánh xoay được ba cái giường dã chiến trong hội trường để mình có thể ngủ nghê cho đàng hoàng. Con có tìm được bình nước uống nào không?”
Mungo lắc đầu và ngồi xuống giữa má và Cá Chua. Họ vòng tay ra sau lưng hắn, nắm lấy tay nhau, xiết chặt lại, khiến ba người họ thành một cái bánh mì kẹp thịt kiểu gia đình nhão nhẹt thấy mà ghê. Má đặt tay lên mái tóc kinh tởm, ướt nhẹp, man rợ của Mungo. Ngón tay của má vuốt lên vuốt xuống cái đường ngôi giữa của hắn. Cá Chua vỗ đầu gối của Mungo và nói: “Ba đang tính đưa con đi cắm trại.” Rồi ổng cười phá lên.
Má nói: “Hôm nay ba con gặp đủ thứ chuyện rồi. Nhà của mình có lẽ mới bị cơn bão kinh khủng san bằng rồi...”
Mungo nói: “Con cho là sức gió hơn bảy mươi lăm dặm một giờ, cho nên nó đúng là một cơn bão lớn.”
“... nhưng mọi chuyện mà ổng có thể nghĩ tới là làm sao để lại thành một Hướng đạo sinh thôi.”
Ba có hiểu nổi không ba, tại sao con lại lọt vào cái tình trạng này? Trong hai hay ba giây bị phản bội, tim tôi rơi chạm đất cái rầm như một cái thang máy bị hỏng. Cái thang máy hóa thành một cái hang sói và từ trong hang một con sói nhảy ra, nhảy từng ba bậc một lên bậc thang của hội trường làng. Lông con sói có xoáy màu cà phê sữa và trông như thể nó đang cười, nhưng nó không cười, những chiếc răng sắc lẻm của nó nhe ra và đang tìm kiếm một cái cổ họng nào đó. Tôi nhảy ào tới má. Đôi tay tôi vươn tới bờ vai bà và tôi gào vào mặt bà: “MÁ ĐANG LÀM GÌ VẬY? MÁ ĐANG LÀM GÌ VẬY? MÁ NÓI DỐI CON, MÁ NÓI DỐI, MÁ LÀ ĐỒ DỐI TRÁ.” Đôi tay tôi xuyên suốt qua người bà.
Giống như nhúng tay vào thứ nước được nhuốm-màu-loài-người. Chỉ nhột chút thôi khi hai tay biến mất vào trong đôi vai của má. Tôi kéo chúng ra và chúng lại trở lại nguyên vẹn. Tôi nhìn trân trối vào hai bàn tay mình. Tôi nhìn má trân trối. Tôi đã gào lên hết sức, cách mặt má mười cen-ti-mét, mà bà không hề phản ứng gì cả.
Bà vẫn tiếp tục vuốt tóc Mungo.
Đôi môi tôi đang cong theo âm M của chữ má khi bà quay về phía khác, kéo Mungo vào lòng và ôm xiết hắn thật chặt. Hắn xoay đầu để nhìn tôi trong khi má làm vậy. Tôi biết ngay lập tức là hắn thấy tôi bởi vì hắn cố nói với tôi bằng ánh mắt, làm cho chúng to lên và thật buồn.
“Ôi cưng ơi,” má nói từ phía sau đầu của Mungo. “Con là vật quý giá nhất đối với má trên cả thế gian này, con biết điều đó mà, phải không con?” Và khi Mungo không trả lời thì bà hỏi tiếp, “Con biết điều đó không nào? Nói cho má nghe là con biết đi.”
Mungo nhè nhẹ lắc đầu, nhẹ đến nỗi như một cái rung nhẹ hơn là một cái lắc, như thể đang nói với tôi: “Tao biết nói gì bây giờ?”
Rồi hắn nói với má: “Dạ, tất nhiên là con biết, má à.”