một điều tốt đẹp nho nhỏ
CHIỀU thứ Bảy chị lái xe đến tiệm bánh trong khu mua sắm. Sau khi xem qua cuốn danh mục có những ảnh chụp bánh ngọt dán bằng băng dính trên các trang, chị đặt bánh sô cô la, món ưa thích của thằng bé. Chiếc bánh chị chọn được trang trí một con tàu vũ trụ kèm bệ phóng bên dưới lác đác sao màu trắng, cùng một hành tinh làm bằng kem đường màu đỏ ở đầu kia. Tên nó, SCOTTY, sẽ là những chữ cái màu xanh lá cây bên dưới hành tinh đó. Lão hàng bánh, một lão già cổ to gồ, lắng nghe và không nói một lời nào khi chị bảo với lão rằng thứ Hai tuần sau thằng bé sẽ lên tám. Lão hàng bánh đeo một cái tạp dề trắng trông như áo bảo hộ lao động. Dây buộc bắt đầu từ dưới cánh tay, đi vòng qua lưng và trở lại đằng trước, nơi chúng được thắt cẩn thận bên dưới cái eo nặng nề của lão. Lão vừa lau tay lên chiếc tạp dề vừa lắng nghe chị nói. Lão cứ nhìn xuống các bức ảnh và để cho chị nói. Lão để chị được thong thả. Lão chỉ vừa mới đến chỗ làm và sẽ ở đó cả đêm để nướng bánh, nên lão chẳng việc gì phải vội vàng.
Chị cho lão hàng bánh biết tên, Ann Weiss, và số điện thoại của chị. Chiếc bánh sẽ sẵn sàng vào sáng thứ Hai, mới ra lò, và còn kịp thoải mái thời gian cho tới bữa tiệc của thằng bé chiều hôm ấy. Lão hàng bánh chẳng hào hứng gì. Chẳng có chuyện trò hỏi han thân thiện nào giữa hai người, chỉ có những trao đổi tối thiểu, những thông tin cần thiết. Lão khiến chị thấy không thoải mái, và chị không thích thế. Khi lão cúi xuống quầy với cây bút chì trong tay, chị nhìn kỹ dáng người thô kệch của lão mà tự hỏi không biết lão đã từng làm bất kỳ việc gì trong đời mình ngoài việc làm một ông hàng bánh hay chưa. Chị là một người mẹ và đã ba mươi ba tuổi, và có vẻ như đối với chị tất cả mọi người, đặc biệt là một người tầm tuổi lão hàng bánh - một người đàn ông đủ già để làm cha chị - hẳn đều đã có con cái, những đứa con từng đi qua cái thời khắc đặc biệt của bánh ngọt và tiệc sinh nhật này. Chắc chắn phải có điểm chung đó giữa hai người, chị nghĩ. Nhưng lão lại cộc lốc với chị - không thô lỗ, chỉ cộc lốc thôi. Chị bỏ cuộc, không gắng làm thân với lão nữa. Chị nhìn về phía sau hàng bánh và thấy một cái bàn gỗ dài, nặng nề với chồng khay bánh nướng bằng nhôm ở một đầu; bên cạnh là một khung giá bằng kim loại còn toàn những tầng trống không. Một lò nướng to khủng khiếp. Một chiếc đài đang phát nhạc đồng quê miền Tây.
Lão hàng bánh đã ghi xong thông tin lên tấm thẻ đặt hàng đặc biệt và đóng cuốn danh mục lại. Lão nhìn chị và nói, “Sáng thứ Hai.” Chị cám ơn lão rồi lái xe về nhà.
SÁNG thứ Hai, thằng bé chủ nhân buổi sinh nhật đi bộ tới trường với một thằng bé khác. Hai đứa đang chuyền tay một túi khoai tây chiên và chủ nhân buổi sinh nhật đang cố tìm hiểu xem bạn mình định tặng gì cho sinh nhật của mình chiều hôm ấy. Không nhìn gì cả, thằng bé bước xuống khỏi vỉa hè đoạn đường giao nhau và ngay lập tức bị một chiếc ô tô húc ngã. Nó ngã sang một bên, đầu chúc xuống rãnh nước và chân xoãi ra ngoài đường. Mắt nó nhắm nghiền, nhưng hai chân nó vẫn cử động ra trước rồi ra sau như thể đang cố trèo qua cái gì đó. Bạn nó buông rơi túi khoai tây chiên mà òa khóc. Chiếc ô tô đã đi quá chừng ba chục mét và dừng lại ngay giữa đường. Người đàn ông ngồi trên ghế lái ngoái lại nhìn. Ông ta chờ đến khi thằng bé lảo đảo đứng dậy lại. Nó loạng choạng một chút. Nó trông có vẻ còn choáng váng, nhưng ổn. Người đàn ông vào số và phóng đi.
Thằng bé chủ nhân buổi sinh nhật không khóc, nhưng nó cũng chẳng nói năng gì. Nó không trả lời khi người bạn hỏi nó xem bị xe đâm cảm giác ra sao. Nó đi về nhà, còn người bạn thì tiếp tục đến trường. Nhưng sau khi thằng bé chủ nhân buổi sinh nhật đã ở trong nhà và đang kể với mẹ về chuyện ấy - chị ngồi bên con trên ghế xô pha, giữ lấy đôi tay nó trong lòng mình, nói, “Scotty, con yêu, con có chắc là thấy ổn không, con?” và nghĩ dù sao chị cũng phải gọi bác sĩ - thì nó bất ngờ nằm ngả xuống ghế, nhắm mắt lại, mềm rũ người ra. Khi không thể gọi thằng bé dậy được nữa, chị vội vàng lấy điện thoại gọi cho chồng ở chỗ làm. Howard nói chị phải giữ bình tĩnh, giữ bình tĩnh, đoạn anh gọi xe cứu thương cho thằng bé, đoạn cũng đến thẳng bệnh viện.
Tất nhiên, bữa tiệc sinh nhật phải hủy. Thằng bé nhập viện với một chấn thương não nhẹ và bị sốc. Trước đó nó đã nôn mửa suốt, đến chiều lại phải hút dịch tràn màng phổi. Giờ thì nó chỉ như đang ngủ rất sâu - chứ không phải hôn mê, bác sĩ Francis đã nhấn mạnh, không phải hôn mê, khi ông nhìn thấy nỗi hốt hoảng trong mắt cha mẹ nó. Mười một giờ đêm hôm ấy, khi thằng bé có vẻ như đã nghỉ ngơi dễ chịu sau những lần chụp X quang và lấy mẫu xét nghiệm, và việc nó tỉnh táo hoàn toàn trở lại chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi, Howard mới rời bệnh viện. Anh và Ann đã ở trong viện với thằng bé suốt từ chiều, nên anh phải về nhà một chút để tắm rửa thay quần áo. “Nửa tiếng nữa anh sẽ quay lại,” anh nói. Chị gật đầu. “Được mà,” chị nói. “Em sẽ ở ngay đây thôi.” Anh hôn lên trán chị, và họ chạm vào tay nhau. Chị ngồi ở chiếc ghế cạnh giường nhìn thằng bé. Chị đang chờ nó tỉnh dậy và khỏe lại. Chỉ khi ấy chị mới có thể được nghỉ ngơi.
Howard lái xe từ bệnh viện về nhà. Anh phóng rất nhanh trên những con phố tối tăm ẩm ướt, rồi giật mình nhận ra và giảm tốc độ lại. Cho tới lúc này, cuộc đời anh đã trôi đi thật êm dịu và đầy thỏa mãn - đại học, hôn nhân, thêm một năm học để lấy bằng cao học kinh doanh, một vị trí cấp thấp trong một hãng đầu tư. Làm cha. Anh hạnh phúc và, cho tới lúc này, may mắn - anh biết thế. Cha mẹ anh vẫn còn, các anh chị em của anh đã ổn định cuộc sống, bạn bè anh từ thời đại học đã ra ngoài và tạo được chỗ đứng của mình trong đời. Cho tới lúc này, anh đã tránh xa được mọi mối nguy hại thực sự, tránh khỏi những thế lực mà anh biết là có tồn tại, chúng có thể hạ gục và làm lụn bại một người nếu gặp phải điềm không may, và nếu mọi sự bất ngờ đổi thay. Anh cho xe vào lối đi rồi đỗ lại. Chân trái anh bắt đầu run rẩy. Anh ngồi trong xe mất một phút, cố gắng đối phó với tình huống trước mắt một cách thật lý trí. Scotty bị xe đâm và đang trong bệnh viện, nhưng nó rồi sẽ ổn thôi. Howard nhắm mắt lại và đưa tay vuốt mặt. Anh ra khỏi xe và bước lên cửa trước. Con chó đang sủa trong nhà. Điện thoại bắt đầu reo và reo mãi trong khi anh mở khóa cửa và lần tìm công tắc đèn. Lẽ ra anh không nên rời bệnh viện, lẽ ra là không nên. “Chết tiệt!” anh kêu. Anh nhấc máy mà nói, “Tôi vừa mới vào nhà đây!”
“Ở đây có một cái bánh ngọt không có ai đến nhận,” giọng một người ở đầu dây bên kia nói.
“Anh đang nói cái gì cơ?” Howard hỏi.
“Một cái bánh ngọt,” giọng người kia nói. “Một cái bánh ngọt mười sáu đô.”
Howard giữ ống nghe bên tai mình, cố gắng hiểu. “Tôi không biết gì về cái bánh nào cả,” anh nói. “Chúa ơi, anh đang nói cái gì thế?”
“Đừng có hỏi lại tôi chứ,” giọng người kia nói.
Howard gác máy. Anh vào bếp rót cho mình chút uýt ki. Anh gọi đến bệnh viện. Nhưng tình hình thằng bé vẫn như vậy; nó vẫn đang ngủ và không có gì thay đổi cả. Khi nước đang xả trong bồn tắm, Howard xoa xà phòng lên mặt và cạo râu. Anh chỉ vừa mới duỗi người trong bồn tắm và nhắm mắt lại thì điện thoại lại reo. Anh bò dậy, tóm vội chiếc khăn tắm, lao qua nhà, vừa chạy vừa kêu, “Thật ngu ngốc, ngu ngốc,” vì đã rời bệnh viện. Nhưng khi anh nhấc ống nghe và hét lên, “A lô!” thì chẳng có tiếng động nào trên đầu dây bên kia cả. Rồi người gọi gác máy.
ANH quay lại bệnh viện lúc quá nửa đêm một chút. Ann vẫn ngồi trên chiếc ghế bên giường bệnh. Chị ngẩng lên nhìn Howard, rồi quay lại nhìn thằng bé. Đôi mắt thằng bé vẫn nhắm nghiền, cái đầu vẫn quấn đầy băng. Hơi thở nó vẫn khẽ khàng và đều đặn. Trên một thiết bị phía trên giường treo một chai glucose gắn ống chạy xuống cánh tay thằng bé.
“Nó thế nào rồi?” Howard hỏi. “Cái gì đây?” anh chỉ chai glucose và cái ống.
“Yêu cầu của bác sĩ Francis,” chị nói. “Nó cần dinh dưỡng. Nó cần duy trì sức khỏe nữa. Sao nó chưa dậy, Howard? Em không hiểu, nếu như nó vẫn ổn.”
Howard đưa tay lên gáy chị. Anh luồn ngón tay qua tóc chị. “Nó sẽ ổn thôi. Lát nữa thôi nó sẽ tỉnh dậy. Bác sĩ Francis biết rõ cái gì vào với cái gì chứ.”
Sau một lát, anh nói, “Có lẽ em nên về nhà nghỉ ngơi chút đi. Anh sẽ ở đây. Và đừng có khổ sở vì cái đồ quái gở nào đấy cứ gọi điện đến. Cứ gác máy ngay lập tức nhé.”
“Ai gọi đấy?” chị hỏi.
“Anh không biết ai, chỉ là kẻ nào đó chẳng có việc gì hay hơn là đi gọi điện cho người khác. Em về luôn đi thôi.”
Chị lắc đầu. “Không,” chị nói, “Em ổn.”
“Thật đấy,” anh nói. “Về nhà một chút đi, sáng mai quay lại thay ca cho anh. Mọi thứ sẽ ổn thôi. Bác sĩ Francis bảo gì nào? Ông ấy bảo Scotty sẽ ổn cả thôi. Mình không phải lo đâu. Nó chỉ đang ngủ thôi, chỉ thế thôi.”
Một y tá đẩy cánh cửa mở ra. Cô gật đầu với họ khi đi đến bên giường. Cô nhấc cánh tay trái của thằng bé ra khỏi lớp chăn và đặt mấy ngón tay lên cổ tay, tìm mạch, rồi so với đồng hồ đeo tay của mình. Một lát sau, cô đặt cánh tay trở xuống dưới lớp chăn và bước về phía chân giường, đoạn cô viết gì đó lên chiếc bảng theo dõi gắn vào giường.
“Nó thế nào rồi?” Ann hỏi. Bàn tay Howard nặng như cục tạ trên vai chị. Chị cảm nhận được áp lực từ những ngón tay anh.
“Nó vẫn ổn định,” cô y tá đáp. Rồi cô nói, “Chút nữa bác sĩ sẽ qua. Bác sĩ đã trở lại bệnh viện. Giờ ông ấy đang đi thăm bệnh nhân rồi.”
“Tôi đang bảo có lẽ cô ấy nên về nhà nghỉ ngơi một chút,” Howard nói. “Sau khi bác sĩ đến,” anh nói.
“Cô ấy nên làm thế,” cô y tá nói. “Tôi nghĩ cả hai cứ nên thoải mái làm vậy thôi, nếu muốn.” Cô y tá là một phụ nữ vùng Scandinavi tóc vàng. Có dấu vết địa phương trong giọng nói của cô.
“Chúng tôi sẽ chờ xem bác sĩ nói gì,” Ann nói. “Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ. Tôi không nghĩ là nó lại cứ ngủ mãi thế này. Tôi không cho đấy là dấu hiệu tốt.” Chị đưa tay lên mắt mình và dịch đầu về phía trước một chút. Cái nắm của Howard khép chặt lại trên vai chị, và bàn tay anh lần lên cổ chị, những ngón tay anh xoa bóp các cơ ở đó.
“Vài phút nữa bác sĩ Francis sẽ đến thôi,” cô y tá nói. Rồi cô rời phòng.
Howard đăm đăm nhìn con trai một lúc lâu, khuôn ngực bé nhỏ khẽ khàng nâng lên hạ xuống dưới lớp chăn. Lần đầu tiên kể từ cái giây phút khủng khiếp sau cú điện thoại Ann gọi cho anh ở cơ quan, anh cảm nhận một nỗi sợ hãi thật sự đang lớn dần khắp người mình. Anh bắt đầu lắc đầu. Scotty ổn thôi, nhưng thay vì ngủ ở nhà trên giường mình, nó lại ở trong bệnh viện với băng quấn quanh đầu và một cái ống trên cánh tay. Nhưng giờ sự giúp đỡ này là thứ nó cần.
Bác sĩ Francis bước vào và bắt tay Howard, mặc dù họ vừa mới gặp nhau chỉ vài giờ trước. Ann đứng dậy. “Bác sĩ?”
“Ann,” ông nói và gật đầu. “Để xem thằng bé thế nào nhé,” bác sĩ nói. Ông đi về phía cạnh giường bắt mạch cho thằng bé. Ông lật mí mắt này rồi đến mí mắt kia. Howard và Ann đứng cạnh bác sĩ nhìn theo. Rồi bác sĩ lật chăn ra lấy ống nghe nghe tim và phổi thằng bé. Ông ấn ngón tay lên chỗ nọ chỗ kia trên bụng nó. Khi đã xong, ông bước về cuối giưòng và đọc kỹ tấm bảng theo dõi. Ông ghi lại thời gian, nguệch ngoạc gì đó lên bảng, rồi nhìn Howard và Ann.
“Bác sĩ, thằng bé thế nào?” Howard hỏi. “Chính xác là có chuyện gì với nó thế?”
“Tại sao nó chưa tỉnh dậy?” Ann hỏi.
Bác sĩ là một người đàn ông đẹp trai, với đôi vai rộng và khuôn mặt rám nắng. Ông mặc một bộ com lê có áo gi lê, đeo cà vạt sọc và cài khuy măng sét bằng ngà. Mái tóc muối tiêu của ông được chải gọn sang hai bên, và trông như thể ông vừa nghe hòa nhạc xong là đến thẳng đây ngay. “Nó ổn,” bác sĩ nói. “Không việc gì phải lo lắng cả, thằng bé lẽ ra phải khá hơn, tôi nghĩ thế. Nhưng nó hoàn toàn ổn. Dù vậy, tôi vẫn mong cháu tỉnh dậy. Có lẽ nó sẽ sớm tỉnh thôi.” Bác sĩ nhìn thằng bé lần nữa. “Chúng ta sẽ biết thêm chút nữa trong vòng hai tiếng tới, sau khi có kết quả vài xét nghiệm nữa. Nhưng nó hoàn toàn ổn, hãy tin tôi, trừ việc hộp sọ có một đường nứt nhỏ như sợi tóc. Đúng là nó có cái đó.”
“Ôi, không,” Ann nói.
“Và một chấn thương rất nhẹ, như tôi đã nói. Tất nhiên, hai người cũng biết là nó đang bị sốc,” bác sĩ nói. “Đôi khi người ta thấy hiện tượng này trong các trường hợp bị sốc. Hiện tượng ngủ ấy.”
“Nhưng nó không còn bị nguy hiểm gì nhiều nữa chứ?” Howard hỏi. “Ông đã nói là nó không hôn mê. Vậy ông không gọi đây là hôn mê - phải không, bác sĩ?” Howard chờ đợi. Anh nhìn bác sĩ.
“Không, tôi không muốn gọi đó là hôn mê,” bác sĩ nói và đưa mắt về phía thằng bé lần nữa. “Nó chỉ đang ngủ rất sâu thôi. Đấy là một biện pháp hồi phục mà cơ thể nó đang tự thực hiện. Nó không bị mối nguy hiểm lớn nào đe dọa nữa, tôi nói điều này là chắc chắn, phải. Nhưng chúng ta sẽ biết thêm nữa khi cháu tỉnh dậy và có các kết quả xét nghiệm kia,” bác sĩ nói.
“Đấy là hôn mê,” Ann nói. “Kiểu như thế.”
“Đấy chưa phải là hôn mê, không hoàn toàn là thế,” bác sĩ nói. “Tôi không muốn gọi đó là hôn mê. Dù sao thì cũng chưa muốn nói thế. Thằng bé đang trải qua một cơn sốc. Trong các trường hợp bị sốc, kiểu phản ứng này tương đối phổ biến; đó là phản ứng tạm thời đối với chấn thương trong cơ thể. Còn hôn mê. Thế này, hôn mê là sự bất tỉnh kéo dài và sâu, là thứ có thể diễn ra nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần. Scotty không thuộc khu vực ấy, dựa trên các thông tin chúng ta có được lúc này. Tôi chắc chắn là đến sáng tình trạng của nó sẽ tiến triển hơn. Tôi dám cá là sẽ như thế. Chúng ta sẽ biết thêm khi nó tỉnh dậy, cũng không lâu lắm nữa đâu. Tất nhiên, hai người cứ làm những gì mình thích, ở đây hoặc về nhà một chút. Nhưng dù thế nào thì cũng cứ tự nhiên rời bệnh viện chốc lát nếu hai người muốn. Chuyện này thật chẳng dễ dàng gì, tôi hiểu.” Bác sĩ lại chăm chú nhìn thằng bé, theo dõi nó, rồi ông quay sang Ann nói, “Chị gắng đừng lo lắng, bà mẹ trẻ ạ. Hãy tin tôi, chúng ta đang làm tất cả những gì có thể. Lúc này chỉ cần chờ đợi thêm một chút nữa thôi.” Ông gật đầu với chị, bắt tay Howard lần nữa, rồi ông rời phòng.
Ann đặt tay lên trán thằng bé. “Ít nhất thì nó cũng không bị sốt,” chị nói. Rồi chị thốt lên, “Trời ạ, nó lại có vẻ lạnh quá. Howard? Liệu thế này có bình thường không? Sờ trán con xem.”
Howard chạm vào hai thái dương thằng bé. Hơi thở của chính anh chậm lại. “Anh nghĩ đúng ra là nó phải thế này,” anh nói. “Nó bị sốc mà, nhớ không? Đấy là điều bác sĩ bảo. Bác sĩ vừa mới ở đây. Nếu Scotty không ổn thì ông ấy sẽ nói ngay.”
Ann đứng đó thêm một lúc, cắn môi. Rồi chị đi về chỗ cái ghế và ngồi xuống.
Howard ngồi trên chiếc ghế ngay cạnh chị. Họ nhìn nhau. Anh muốn nói thêm gì đó để làm chị yên tâm, nhưng anh cũng lo sợ. Anh cầm tay chị đặt vào lòng mình, và anh thấy dễ chịu khi bàn tay chị nằm ở đó. Anh cầm tay chị lên siết chặt. Rồi anh cứ giữ lấy tay chị. Họ ngồi như thế một lúc lâu, theo dõi thằng bé và không nói năng gì. Thỉnh thoảng, anh lại siết tay chị. Cuối cùng, chị rút tay ra.
“Nãy giờ em cầu nguyện suốt đấy,” chị nói.
Anh gật đầu.
Chị nói, “Em tưởng mình đã quên mất phải làm thế nào, nhưng rồi điều đó đã trở lại với em. Tất cả những gì em phải làm là nhắm mắt lại và nói, 'Xin Chúa trời, hãy giúp chúng con – giúp Scotty,' rồi thì phần còn lại thật dễ dàng. Từ ngữ lời lẽ luôn sẵn đấy. Có lẽ anh cũng cầu nguyện đi,” chị nói với anh.
“Anh đã cầu nguyện rồi,” anh nói. “Anh đã cầu nguyện lúc chiều nay - ý anh là chiều hôm qua - sau khi em gọi, khi anh đang lái xe đến bệnh viện. Anh vẫn đang cầu nguyện,” anh nói.
“Thế thì tốt,” chị nói. Lần đầu tiên, chị cảm thấy họ đang cùng nhau trong cái hoàn cảnh đó, cái sự không may này. Chị chợt nhận ra rằng, cho tới tận lúc này, nó mới chỉ xảy ra với chị và Scotty mà thôi. Chị chưa để cho Howard được nhập cuộc, dù anh vẫn ở đó và vẫn luôn được cần đến. Chị thấy mừng vì mình là vợ anh.
Cô y tá nọ lại vào bắt mạch cho thằng bé rồi kiểm tra dòng chảy từ cái chai treo phía trên giường.
Một tiếng đồng hồ sau, một bác sĩ khác bước vào. Ông ta xưng tên là Parsons, từ khoa X quang. Ông ta có bộ ria rậm. Ông ta đi đôi giày lười không dây, mặc áo sơ mi kiểu miền Tây và quần bò.
“Chúng tôi sẽ đưa cháu xuống tầng dưới để chụp thêm,” ông ta nói với hai người. “Chúng tôi cần chụp thêm một số hình, và chúng tôi muốn tiến hành chụp cắt lớp.”
“Đấy là cái gì?” Ann hỏi. “Chụp cắt lớp?” Chị đứng giữa ông bác sĩ mới và chiếc giường. “Tôi tưởng các ông đã chụp X quang đủ rồi.”
“Tôi e là chúng tôi cần thêm vài tấm nữa,” ông ta nói. “Không có gì đáng lo cả. Chúng tôi chỉ cần thêm vài hình ảnh nữa, và chúng tôi muốn tiến hành chụp cắt lớp não cho cháu.”
“Trời ơi,” Ann kêu lên.
“Đó là quy trình hoàn toàn bình thường trong những ca như thế này,” ông bác sĩ mới nói. “Chúng tôi chỉ cần biết chắc vì sao cháu chưa tỉnh dậy. Đó là quy trình điều trị bình thường, không có gì đáng lo cả. Vài phút nữa chúng tôi sẽ đưa cháu xuống,” ông bác sĩ này nói.
Một lát sau, hai hộ lý đẩy xe cáng vào phòng. Đó là hai người đàn ông da màu, tóc đen mặc bộ đồng phục trắng, và họ nói vài câu với nhau bằng một thứ tiếng nước ngoài khi tách thằng bé khỏi cái ống rồi đưa nó từ giường sang xe cáng. Rồi họ đẩy nó ra khỏi phòng. Howard và Ann cùng lên thang máy. Ann chăm chú nhìn thằng bé. Chị nhắm mắt lại khi thang bắt đầu đi xuống. Hai hộ lý lặng thinh đứng ở hai đầu xe cáng, chỉ có một lần một người nói gì đó với người kia bằng tiếng của họ, và người kia khẽ gật đầu đáp lại.
Sau đó cũng trong buổi sáng ấy, khi mặt trời vừa bắt đầu rọi sáng các cửa sổ trong phòng chờ bên ngoài khoa X quang, họ mang thằng bé ra đưa nó trở lên phòng bệnh. Howard và Ann đi cùng nó lên một lần nữa, và một lần nữa họ lại đứng ở bên giường.
HỌ chờ đợi cả ngày hôm ấy, nhưng thằng bé vẫn không tỉnh dậy. Đôi lúc, một trong hai người rời phòng xuống căng tin uống cà phê và rồi, như thể chợt nhớ ra và cảm thấy mình có lỗi, lại đứng dậy vội vã trở lại phòng. Đến chiều bác sĩ Francis trở lại kiểm tra thằng bé một lần nữa rồi đi sau khi bảo họ rằng nó đang ổn dần và có thể sẽ tỉnh dậy bất cứ lúc nào. Y tá, không phải các y tá đêm qua, lúc lúc lại đến. Rồi một phụ nữ trẻ của phòng xét nghiệm gõ cửa và bước vào. Cô mặc quần âu trắng, áo blu trắng, mang theo một cái khay nhỏ đựng mấy thứ đặt lên cái giá bên giường. Chẳng nói một lời với họ, cô lấy máu từ cánh tay thằng bé. Howard nhắm mắt lại khi người phụ nữ tìm đúng chỗ trên cánh tay nó và ấn kim vào.
“Tôi không hiểu chuyện này,” Ann nói với người phụ nữ.
“Yêu cầu của bác sĩ,” người phụ nữ nói. “Tôi làm những việc người ta bảo làm. Họ bảo lấy máu chỗ nào thì tôi lấy máu chỗ ấy. Mà thằng bé sao thế?” cô hỏi. “Nó trông đáng yêu quá.”
“Nó bị xe đâm,” Howard nói. “Một vụ đâm xe rồi bỏ chạy.”
Người phụ nữ trẻ lắc đầu và nhìn lại thằng bé. Rồi cô bưng khay đi ra.
“Tại sao nó không tỉnh dậy?” Ann hỏi. “Hả Howard? Em cần câu trả lời từ những người này.”
Howard không nói gì cả. Anh lại ngồi xuống ghế và bắt chân nọ lên chân kia. Anh xoa mặt. Anh nhìn con trai rồi ngả người ra ghế, nhắm mắt lại, thiếp đi.
Ann bước tới bên cửa sổ nhìn xuống bãi đỗ xe. Đã lại đêm, và những chiếc xe đang ra vào bãi bật đèn sáng trưng. Chị đứng bên cửa sổ, hai tay bấu chặt vào bệ cửa, và sâu thẳm trong tim mình chị biết rằng lúc này họ đang đối mặt với một điều gì đó rồi, một điều gì đó thật nghiêm trọng. Chị sợ hãi, và răng chị bắt đầu đập lập cập cho tới khi chị phải nghiến chặt hai hàm. Chị thấy một chiếc xe to dừng trước cửa bệnh viện và ai đó, một phụ nữ mặc áo khoác dài, bước lên xe. Chị ước gì mình là người phụ nữ ấy và có ai đó, bất kỳ ai, đưa chị đi xa khỏi nơi này tới một nơi nào khác, nơi chị được thấy Scotty đang chờ sẵn khi chị bước xuống xe, chỉ chực kêu lên Mẹ và để cho chị ôm choàng lấy nó trong vòng tay.
Chỉ sau chốc lát, Howard tỉnh dậy. Anh lại nhìn thằng bé. Rồi anh đứng dậy, vươn vai, đi tới đứng cạnh chị bên cửa sổ. Hai người chăm chú nhìn xuống bãi đỗ xe. Họ không nói một lời. Nhưng họ dường như đều cảm nhận được nỗi lòng nhau lúc này, như thể nỗi lo sợ đã khiến họ trở nên trong suốt một cách hoàn toàn tự nhiên.
Cửa mở ra và bác sĩ Francis bước vào. Lần này ông mặc một bộ com lê khác và đeo một cái cà vạt khác. Mái tóc muối tiêu của ông vẫn chải sang hai bên đầu, và ông trông như mới cạo râu. Ông đến thẳng bên giường kiểm tra thằng bé. “Lúc này lẽ ra thằng bé phải khá hơn rồi mới phải. Không có căn nguyên nào hợp lý cho hiện tượng này cả,” ông nói. “Nhưng tôi có thể nói với anh chị rằng chúng tôi đều tin chắc cháu không còn bị nguy hiểm gì nữa. Khi nào cháu dậy thì chúng ta sẽ cảm thấy khá hơn thôi. Chẳng có lý do gì để cháu nó chưa tỉnh lại, hoàn toàn không. Sẽ sớm thôi. À, khi dậy có thể thằng bé sẽ thấy đau đầu khủng khiếp đấy, anh chị có thể chắc như thế. Nhưng mọi biểu hiện của cháu đều tốt. Tất cả đều bình thường hết sức.”
“Vậy đó có phải hôn mê không?” Ann hỏi.
Bác sĩ xoa xoa cái cằm nhẵn nhụi. “Từ lúc này thì chúng ta sẽ gọi như thế, cho tới khi cháu tỉnh dậy. Nhưng anh chị chắc đã mệt lắm rồi. Chuyện này thật khó khăn. Tôi biết là chuyện này thật khó khăn. Cứ tự nhiên ra ngoài ăn uống gì đó một chút,” ông nói. “Như thế sẽ tốt cho anh chị. Nếu anh chị cảm thấy muốn ra ngoài thì tôi sẽ cử y tá vào đây. Đi ăn chút gì đi.”
“Tôi không ăn gì nổi,” Ann nói.
“Tất nhiên cứ làm gì anh chị cần làm thôi,” bác sĩ nói. “Dù sao, tôi muốn nói với anh chị là các biểu hiện đều tốt, các xét nghiệm đều âm tính, không có gì bất thường cả, và ngay khi tỉnh dậy cháu sẽ hoàn toàn khỏe mạnh.”
“Cảm ơn bác sĩ,” Howard nói. Anh lại bắt tay bác sĩ. Bác sĩ vỗ vai Howard rồi đi ra.
“Anh nghĩ một trong hai chúng mình nên về xem nhà cửa thế nào,” Howard nói. “ít nhất có một việc là cho Slug ăn.”
“Gọi nhờ hàng xóm đi,” Ann nói. “Gọi nhà Morgan ấy. Bất kỳ ai cũng sẽ cho chó ăn nếu mình nhờ.”
“Thôi được,” Howard nói. Một lát sau, anh nói, “Em yêu, sao em không làm việc ấy nhỉ? Sao em không về nhà xem xét nhà cửa, rồi quay lại? Như thế sẽ tốt hơn cho em. Anh sẽ ở ngay đây với con. Anh nói nghiêm túc đấy,” anh nói. “Mình cần phải giữ sức khỏe trước chuyện này. Mình sẽ còn cần ở lại đây một thời gian thậm chí sau khi con tỉnh dậy cơ mà.”
“Sao anh không về?” chị nói. “Cho Slug ăn. Rồi ăn chút gì đi nữa.”
“Anh về rồi,” anh nói. “Anh về chính xác là một tiếng mười lăm phút. Em cứ về nhà một tiếng đồng hồ tắm rửa ăn uống cho tỉnh táo. Rồi quay lại.”
Chị gắng nghĩ về điều đó, nhưng chị mệt quá. Chị nhắm mắt lại cố nghĩ về điều đó. Lát sau, chị nói, “Có lẽ em sẽ về nhà vài phút. Có lẽ nếu em không cứ ngồi đây mãi mà nhìn con từng giây một thì nó sẽ tỉnh lại và sẽ khỏe. Anh nhỉ? Có lẽ con sẽ tỉnh lại nếu em không ở đây. Em sẽ về nhà tắm và thay đồ. Em sẽ cho Slug ăn. Rồi em sẽ quay lại.”
“Anh sẽ ở ngay đây,” anh nói. “Em cứ về đi, em yêu. Anh sẽ để ý mọi thứ ở đây.” Đôi mắt anh vằn tia đỏ và nhỏ lại, cứ như anh đã uống rượu suốt bao lâu. Quần áo anh nhàu nhĩ. Râu cằm anh lại đã đâm ra rồi. Chị chạm tay vào mặt anh rồi rút tay lại. Chị hiểu rằng anh muốn được ở một mình một lúc, không phải nói năng hay chia sẻ với ai về nỗi lo lắng của anh. Chị cầm lấy xắc tay của mình đang để trên tủ nhỏ cạnh giường, và anh giúp chị mặc áo khoác.
“Em đi không lâu đâu,” chị nói.
“Về đến nhà thì cứ ngồi nghỉ một lát đã nhé,” anh nói. “Ăn gì đó nữa. Tắm. Sau khi ra khỏi bồn, cứ ngồi một lúc mà nghỉ ngơi. Như thế là cực tốt đấy, rồi em sẽ thấy. Rồi hẵng quay lại đây,” anh nói. “Mình gắng đừng có lo lắng. Em nghe bác sĩ Francis nói gì rồi đấy.”
Chị khoác áo đứng đó suốt một phút, gắng nhớ lại chính xác lời bác sĩ nói, tìm kiếm bất kỳ một ẩn ý nào, bất kỳ một dấu hiệu nào của điều gì đó đằng sau những lời ông đã nói, ngoài những gì ông đã nói. Chị gắng nhớ xem vẻ mặt ông có thay đổi chút nào không khi ông cúi xuống kiểm tra thằng bé. Chị nhớ lại xem từng nét trên mặt ông kết hợp với nhau ra sao khi ông lật mí mắt thằng bé rồi thì lắng nghe hơi thở của nó.
Chị đi ra đến cửa, đoạn dừng lại ngoái nhìn. Chị nhìn thằng bé, rồi nhìn cha thằng bé. Howard gật đầu. Chị bước ra khỏi phòng và kéo cửa lại đằng sau.
Chị đi qua bàn y tá trực tới cuối hành lang để tìm thang máy. Cuối hành lang, chị rẽ phải vào một phòng chờ nhỏ nơi có một gia đình người da đen ngồi trên những chiếc ghế mây đan. Một người đàn ông trung niên mặc quần áo vải ka ki, mũ bóng chày đội ngược. Một người đàn bà to lớn mặc váy trong nhà đi dép lê ngồi sụp trên ghế. Một đứa con gái tuổi teen mặc đồ bò, tóc tết thành vô số bím nhỏ, nằm dài hút thuốc trên một chiếc ghế khác, hai chân duỗi thẳng gác lên nhau. Cả gia đình ấy đưa mắt về phía Ann khi chị bước vào phòng. Cái bàn nhỏ bừa bộn những vỏ gói hamburger và cốc xốp.
“Franklin,” người đàn bà to lớn bật tỉnh dậy nói. “Có phải tin của Franklin không?” Đôi mắt bà ta mở to. “Nói cho tôi biết đi, thưa bà,” người đàn bà nói. “Có phải là về Franklin không?” Bà ta cố đứng dậy, nhưng người đàn ông nắm lấy cánh tay bà ta.
“Nào, nào,” ông ta nói. “Evelyn.”
“Tôi xin lỗi,” Ann nói. “Tôi đang tìm thang máy. Con trai tôi đang nằm viện, và giờ thì tôi không tìm thấy cái thang máy đâu cả.”
“Thang máy thì đi thẳng lối đó, rẽ trái,” người đàn ông vừa nói vừa chỉ.
Cô con gái nhả khói thuốc và nhìn Ann chằm chằm. Đôi mắt con bé nheo lại thành hai cái khe nhỏ, và đôi môi dày của nó hé mở chầm chậm khi nó thả cho ngọn khói bay ra. Người đàn bà da đen gục đầu xuống và rời mắt khỏi Ann, không để ý đến chị nữa.
“Con trai tôi bị xe ô tô đâm,” Ann nói với người đàn ông. Chị cảm thấy mình cần phải giải thích. “Nó bị một chấn thương ở não và một vết nứt nhỏ trên sọ, nhưng nó rồi sẽ ổn cả. Giờ nó đang trong cơn sốc, nhưng đó cũng có thể là hôn mê. Đấy là điều thật sự làm chúng tôi lo lắng, chuyện hôn mê ấy. Tôi phải đi ra ngoài một chút, nhưng chồng tôi thì đang ở với cháu. Có thể cháu sẽ tỉnh dậy khi tôi đi.”
“Thật tệ,” người đàn ông nói và cựa mình trên ghế. Ông ta lắc đầu. Ông ta nhìn xuống bàn, rồi nhìn lại phía Ann. Chị vẫn đang đứng đó. Ông ta nói, “Franklin nhà tôi, nó đang trên bàn mổ. Kẻ nào đó đã chém nó. Định giết nó. Có một trận ẩu đả ở chỗ nó đến. Cái bữa tiệc ấy. Người ta bảo nó chỉ đứng xem. Chẳng phiền đến một ai. Nhưng điều đó chả có ý nghĩa gì vào cái thời này. Giờ nó đang nằm trên bàn mổ. Chúng tôi chỉ biết hy vọng và cầu nguyện, đấy là tất cả những gì chúng tôi có thể làm lúc này. “ Ông ta trân trối nhìn chị.
Ann nhìn lại cô con gái, nó vẫn quan sát chị nãy giờ, và cả người đàn bà lớn tuổi, đầu gục xuống, nhưng mắt lúc này đã nhắm lại. Ann nhìn thấy đôi môi bà ta mấp máy chậm chạp, như đang nói. Chị có cảm giác thôi thúc muốn hỏi xem những lời ấy là gì. Chị muốn nói chuyện thêm với những người đang cùng chịu chung cái nỗi đợi chờ này như chị. Chị lo sợ, và họ lo sợ. Họ có chung điều ấy. Chị có thể đã muốn nói thêm điều gì đó về vụ tai nạn, kể thêm với họ về Scotty, rằng chuyện xảy ra vào đúng ngày sinh nhật của nó, thứ Hai, và rằng nó vẫn còn đang bất tỉnh. Nhưng chị không biết bắt đầu ra sao. Chị đứng nhìn họ mà chẳng nói thêm một lời.
Chị đi hết cái hành lang người đàn ông đã chỉ và tìm thấy thang máy. Chị chờ một phút trước những cánh cửa đóng chặt, vẫn băn khoăn liệu việc chị đang làm có phải hay không. Rồi chị đưa ngón tay chạm vào cái nút.
CHỊ lái xe vào lối đi và tắt động cơ. Chị nhắm mắt lại và tựa đầu lên vô lăng một phút. Chị lắng nghe tiếng lích tích của động cơ đang dần bớt nóng. Rồi chị ra khỏi xe. Chị nghe thấy tiếng con chó đang sủa trong nhà. Chị tới cửa trước, cửa không khóa. Chị vào bên trong và bật đèn rồi đặt một ấm nước lên bếp để pha trà. Chị mở túi thức ăn cho chó và cho Slug ăn ở hiên sau. Con chó ngấu nghiến ăn. Chốc chốc nó lại chạy vào bếp xem chị có ở lại hay không. Lúc chị vừa ngồi xuống ghế xô pha với cốc trà thì điện thoại reo.
“Tôi nghe đây!” chị nói ngay khi nghe máy. “A lô!”
“Bà Weiss,” một giọng đàn ông lên tiếng. Lúc ấy là năm giờ sáng, và hình như chị nghe thấy được tiếng dụng cụ máy móc gì đó vọng vào từ đầu dây bên kia.
“Phải, phải! Có chuyện gì thế?” chị hỏi. “Đây là bà Weiss đây. Bà ấy đây. Xin ông, có chuyện gì vậy?” Chị lắng nghe tiếng động vọng vào đó, dù nó có là tiếng gì. “Lạy Chúa tôi, có phải là tin về Scotty không?”
“Scotty,” giọng đàn ông nói. “Về Scotty, đứng vậy. Chuyện về Scotty, chuyện ấy đấy. Bà đã quên Scotty rồi ư?” người đàn ông nói. Rồi ông ta gác máy.
Chị quay số bệnh viện yêu cầu gọi lên tầng ba. Chị hỏi y tá trực điện thoại thông tin về con trai. Rồi chị đòi được nói chuyện với chồng. Vì, chị nói, có chuyện khẩn cấp.
Chị chờ đợi, quấn quấn dây điện thoại vào mấy ngón tay. Chị nhắm mắt lại và nghe bụng dạ nôn nao. Chị sẽ phải buộc mình ăn thôi. Slug từ hiên sau đi vào nằm xuống cạnh chân chị. Nó ve vẩy cái đuôi. Chị kéo khẽ tai nó trong khi nó liếm mấy ngón tay chị. Howard đã đến nhận điện.
“Ai đó vừa gọi đến nhà,” chị nói. Chị quấn chặt dây điện thoại. “Ông ta nói là có chuyện với Scotty,” chị khóc.
“Scotty ổn,” Howard nói với chị. “Ý anh là, nó vẫn đang ngủ. Không có gì thay đổi cả. Y tá vào được hai lần từ lúc em đi. Y tá hay là bác sĩ gì đó. Nó ổn cả.”
“Người đàn ông ấy gọi. Ông ta bảo có chuyện với Scotty,” chị nói với anh.
“Em yêu, em nghỉ đi một chút, em cần được nghỉ ngơi. Chắc đấy là cái kẻ đã gọi cho anh. Quên chuyện ấy đi. Nghỉ ngơi xong thì quay lại đây. Rồi mình sẽ ăn sáng hoặc gì đó.”
“Ăn sáng,” chị nói. “Em không muốn ăn sáng gì cả.”
“Em hiểu ý anh mà,” anh nói. “Nước hoa quả, thứ gì đó. Anh không biết. Anh chẳng biết gì cả. Ann. Chúa ơi, anh cũng chẳng đói tí nào. Ann, giờ khó nói chuyện lắm. Anh đang đứng ở quầy. Tám giờ bác sĩ Francis sẽ đến. Ông ấy sẽ có thêm điều gì đó để nói cho chúng mình biết, điều gì đó chắc chắn hơn. Một y tá bảo thế. Cô ấy không biết gì thêm ngoài việc đó. Ann? Em yêu, có lẽ đến lúc ấy mình sẽ biết thêm chút gì khác. Lúc tám giờ. Trở lại đây trước tám giờ nhé. Trong lúc ấy, anh sẽ luôn ở đây và Scotty thì ổn cả. Nó vẫn như thế,”, anh nói thêm.
“Em đang uống trà thì điện thoại kêu,” chị nói. “Họ nói có chuyện với Scotty. Có tiếng ồn ở đằng sau. Có tiếng ồn nào trong cú điện thoại mà anh nhận không, Howard?”
“Anh không nhớ,” anh nói. “Có lẽ chính là tên lái cái xe ô tô ấy, có lẽ hắn bị tâm thần và bằng cách nào đó đã biết chuyện về Scotty. Nhưng anh ở đây với con. Cứ nghỉ ngơi như em đã định nhé. Tắm đi rồi khoảng bảy giờ quay lại đây, rồi khi nào bác sĩ tới mình sẽ cùng nói chuyện với ông ấy. Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi, em yêu. Anh ở đây, rồi có các bác sĩ và y tá ở quanh nữa. Họ nói tình trạng của con ổn định.”
“Em sợ muốn chết,” chị nói.
Chị mở vòi nước, cởi đồ, rồi bước vào bồn. Chị tắm rồi lau nhanh chóng, chẳng gội đầu. Chị mặc đồ lót mới, quần sợi len rộng, áo len. Chị vào phòng khách, con chó đang ngước lên nhìn chị và đập đuôi một phát xuống sàn nhà. Lúc chị ra khỏi nhà trời chỉ vừa hửng sáng.
Chị lái xe vào khu đỗ xe của bệnh viện và tìm được một chỗ đậu gần cửa vào phía trước. Chị cảm giác mình có trách nhiệm gì đó rất mơ hồ về chuyện đã xảy ra với thằng bé. Chị lan man nghĩ về gia đình da đen nọ. Chị nhớ lại cái tên Franklin và cái bàn phủ đầy giấy gói bánh, và con bé tuổi teen cứ vừa nhả khói thuốc vừa nhìn chị chằm chằm. “Đừng có sinh con,” chị vừa nói với hình ảnh con bé vừa bước vào cửa trước. “Vì Chúa, đừng.”.
CHỊ đi thang máy lên tầng ba cùng hai y tá đến ca trực. Hôm ấy là sáng thứ Tư, chỉ vài phút nữa là bảy giờ. Có tiếng loa gọi bác sĩ Madison nào đó khi cửa thang máy mở ra ở tầng ba. Chị đi ra sau hai cô y tá, hai người rẽ sang hướng khác và tiếp tục câu chuyện đã bị chị làm ngắt quãng khi chị bước vào thang máy. Chị đi hết hành lang tới căn phòng khuất phía trong nơi gia đình da đen nọ đã ngồi chờ. Giờ họ đã đi, song những chiếc ghế nằm lung tung như thể cách đây chỉ một phút người ta vừa nhảy dựng lên. Mặt bàn bừa bộn những cốc xốp và giấy gói vẫn như lúc trước, gạt tàn đầy đầu thuốc lá.
Chị dừng lại bàn trực của y tá. Một y tá đang đứng sau quầy, chải đầu và ngáp.
“Có một cậu bé da đen vừa phẫu thuật đêm qua,” Ann nói. “Franklin là tên cậu ấy. Gia đình cậu ấy đã ở trong phòng chờ. Tôi muốn biết tình hình của cậu ấy.”
Một y tá khác đang ngồi ở bàn sau quầy ngẩng lên khỏi tấm bảng trước mặt. Điện thoại reo và cô nhấc ống nghe, nhưng cô vẫn để ý nhìn Ann.
“Cậu ấy qua đời rồi,” cô y tá đang đứng sau quầy nói. Cô giữ nguyên chiếc lược và cứ nhìn chị. “Cô là bạn của gia đình hay là gì?”
“Tôi gặp gia đình họ đêm qua,” Ann nói. “Con trai tôi cũng đang nằm viện. Tôi đoán nó bị sốc. Chúng tôi không biết chắc có chuyện gì không ổn. Tôi chỉ muốn biết về Franklin, vậy thôi. Cảm ơn.” Chị đi dọc hành lang. Cửa thang máy cùng màu với tường hé mở và một người đàn ông hốc hác hói đầu, mặc quần trắng đi giầy vải trắng kéo một chiếc xe đẩy từ thang máy ra. Đêm qua chị đã không phát hiện ra những cánh cửa này. Người đàn ông đẩy chiếc xe ra hành lang và dừng lại trước một căn phòng gần thang máy nhất mà xem một tấm bảng. Rồi ông ta cúi xuống rút một cái khay ra khỏi chiếc xe đẩy. Ông ta gõ nhẹ lên cánh cửa và bước vào. Chị ngửi thấy những mùi không mấy dễ chịu của thức ăn còn ấm khi đi ngang qua. Không nhìn lại các y tá, chị vội vã đi và đẩy cánh cửa vào phòng con trai.
Howard đang đứng bên cửa sổ tay chắp sau lưng. Anh quay lại khi chị vào.
“Con thế nào rồi?” chị hỏi. Chị đến bên giường. Chị thả túi xuống sàn bên cạnh tủ đầu giường. Dường như chị đã đi rất lâu. Chị chạm vào khuôn mặt thằng bé. “Howard?”
“Bác sĩ Francis vừa mới ở đây,” Howard nói. Chị nhìn anh thật kỹ và nghĩ hai vai anh có hơi so lại một chút.
“Em tưởng phải tám giờ sáng ông ấy mới tới cơ mà,” chị nói nhanh.
“Có một bác sĩ khác đến cùng ông ấy. Một bác sĩ khoa thần kinh.”
“Bác sĩ khoa thần kinh,” chị nhắc lại.
Howard gật đầu. Hai vai anh so lại, chị nhìn thấy vậy. “Họ nói sao, Howard? Vì Chúa, họ đã nói gì? Có chuyện gì?”
“Họ nói họ sẽ đưa con xuống làm thêm xét nghiệm nữa, Ann. Họ nghĩ họ sẽ tiến hành phẫu thuật, em yêu. Em yêu, họ sẽ phẫu thuật. Họ không thể hiểu được tại sao con vẫn chưa tỉnh dậy. Nó không đơn giản là sốc hay chấn động não, giờ thì họ đã biết được chừng ấy. Vấn đề nằm ở hộp sọ thằng bé, cái vết nứt ấy, hẳn phải có gì đó, có gì đó liên quan đến vết nứt, họ nghĩ vậy. Vậy nên họ sẽ phẫu thuật. Anh đã cố gọi cho em, nhưng anh đoán lúc ấy em đã ra khỏi nhà rồi.”
“Ôi, Chúa ơi!”, chị nói. “Ôi, xin anh, Howard, xin anh,” chị nói, nắm lấy hai cánh tay anh.
“Kìa!” Howard kêu lên. “Scotty! Nhìn kìa, Ann!” Anh xoay chị về phía chiếc giường.
Thằng bé đã mở mắt, rồi nhắm lại. Giờ nó lại mở mắt ra. Đôi mắt nhìn chăm chú về phía trước một phút, rồi đưa chầm chậm cho tới khi dừng lại ở Howard và Ann, rồi lại đưa tiếp đi chỗ khác.
“Scotty,” mẹ thằng bé nói, đi tới bên giường.
“Này, Scott,”, cha thằng bé nói. “Này con.”
Họ nghiêng xuống giường. Howard cầm lấy bàn tay con trai rồi bắt đầu vỗ về và siết nhẹ. Ann cúi xuống với thằng bé và cứ hôn lên trán nó mãi. Chị đặt tay lên hai bên đầu con. “Scotty, con yêu, bố mẹ đây,”,chị nói. “Scotty ơi!”
Thằng bé nhìn họ, nhưng không có vẻ gì là nhận ra họ cả. Rồi miệng nó mở ra, đôi mắt nó rúm ró nhắm nghiền lại, và nó tru lên cho tới khi không còn chút không khí nào trong phổi nữa. Sau đó khuôn mặt nó có vẻ thư giãn và dịu lại. Đôi môi nó khẽ mở khi hơi thở cuối cùng thoát ra khỏi cổ họng và thả ra nhẹ nhàng qua hàm răng cắn chặt.
CÁC bác sĩ gọi đó là sự tắc ẩn và nói rằng chuyện này chỉ xảy ra với tỉ lệ một trên một triệu ca. Có lẽ nếu bằng cách nào đó phát hiện ra sớm và phẫu thuật ngay lập tức thì họ đã có thể cứu được thằng bé. Nhưng nhiều khả năng là không thể. Dù thế nào thì họ có thể chờ đợi chuyện gì chứ? Chẳng có gì bất thường trong các xét nghiệm và phim chụp X-Quang.
Bác sĩ Francis xúc động. “Tôi không thể nói hết với anh chị tôi đau lòng đến thế nào. Tôi rất lấy làm tiếc, tôi không thể nói hết được,”, ông nói khi dẫn họ vào phòng nghỉ của các bác sĩ. Có một bác sĩ đang ngồi trên ghế đút chân vòng qua lưng một chiếc ghế khác, xem một chương trình ti vi buổi sớm. Ông ta mặc áo sản khoa màu xanh lá, quần rộng màu xanh lá và áo blu màu xanh lá, đội cái mũ xanh lá trùm lấy tóc. Ông ta nhìn Howard và Ann rồi nhìn sang bác sĩ Francis. Ông ta đứng dậy tắt ti vi rồi ra khỏi phòng. Bác sĩ Francis đưa Ann tới ghế xô pha, ngồi xuống bên chị, và bắt đầu nói bằng giọng nhỏ nhẹ vỗ về. Có một lúc, ông nghiêng qua ôm lấy chị. Chị cảm nhận được ngực ông nâng lên hạ xuống đều đều bên vai mình. Chị cứ mở to mắt và để ông ôm lấy chị. Howard đi vào phòng tắm, nhưng anh để cửa mở. Sau một cơn khóc dữ dội, anh xả nước rửa mặt. Rồi anh đi ra và ngồi xuống chiếc bàn nhỏ có đặt một chiếc điện thoại. Anh nhìn chiếc điện thoại như thể đang quyết định xem phải làm gì trước. Anh gọi một vài cuộc. Sau một lúc, bác sĩ Francis dùng điện thoại.
“Liệu tôi có thể giúp gì được vào lúc này không?” ông hỏi hai người.
Howard lắc đầu. Ann nhìn bác sĩ Francis chằm chằm như thể không hiểu được những lời ấy.
Ông bác sĩ đưa họ ra cửa trước bệnh viện. Người ta đang ra vào bệnh viện. Đã mười một giờ sáng. Ann ý thức được sự chậm chạp và gần như miễn cưỡng trong cung cách mình nhấc chân. Chị cảm giác như bác sĩ Francis đang bắt họ đi trong khi chị thấy họ cần phải ở lại đây, khi ở lại đây là một việc phải lẽ hơn. Chị đăm đăm nhìn ra bãi đỗ xe rồi thì quay lại nhìn mặt tiền bệnh viện. Chị bắt đầu lắc đầu. “Không, không.” chị nói. “Tôi không thể để nó ở đây được, không.” Chị nghe mình nói vậy và nghĩ thật bất công khi những lời duy nhất thốt ra lại giống như những câu người ta vẫn nói trong các chương trình truyền hình khi quá sốc trước một cái chết dữ dội hay đột ngột. Chị muốn những lời chị thốt lên phải là của chính chị. “Không,” chị nói, và vì lý do nào đó cái ký ức về người đàn bà da đen đầu ngả ngật trên vai bỗng ùa đến với chị. “Không,” chị lại nói.
“Tôi sẽ nói chuyện với anh chị sau, trong ngày hôm nay thôi,” bác sĩ nói với Howard. “Vẫn còn vài việc cần làm, những việc cần làm để băn khoăn của chúng ta được sáng tỏ. Những điều cần được giải thích.”
“Khám nghiệm tử thi,” Howard nói.
Bác sĩ Francis gật đầu.
“Tôi hiểu,” Howard nói. Rồi anh nói, “Ôi, lạy Chúa tôi. Không, tôi không hiểu, bác sĩ. Tôi không thể hiểu, tôi không thể. Không thể nào.”
Bác sĩ Francis choàng tay qua vai Howard. “Tôi lấy làm tiếc. Chúa ơi, tôi thật lấy làm tiếc.” Ông rời đôi vai Howard và đưa tay ra. Howard nhìn bàn tay đó, và rồi anh nắm lấy. Bác sĩ Francis vòng tay ôm Ann lần nữa. Ông dường như có đầy cái thứ lòng tốt mà chị không thể hiểu nổi. Chị để đầu mình ngả trên vai ông, nhưng mắt chị vẫn mở. Chị cứ nhìn mãi bệnh viện. Khi họ ra khỏi bãi đỗ xe, chị vẫn quay nhìn lại bệnh viện.
Ở NHÀ, chị ngồi trên xô pha, hai tay đút túi áo khoác. Howard đóng cửa phòng thằng bé lại. Anh bật máy pha cà phê rồi tìm được một cái thùng rỗng. Anh nghĩ đến việc thu dọn đồ đạc của thằng bé đang rải rác quanh phòng khách. Nhưng thay vào đó anh lại ngồi xuống bên chị trên xô pha, đẩy cái thùng qua một bên, nghiêng người về phía trước, hai tay kẹp giữa hai đầu gối. Anh bắt đầu sụt sịt. Chị kéo đầu anh vào lòng mình và vỗ về bờ vai anh. “Nó đi rồi,” chị nói. Chị vẫn vỗ về bờ vai anh. Ngoài tiếng sụt sịt của anh, chị còn nghe thấy tiếng máy pha cà phê sôi rít trong bếp. “Nào, nào,” chị nhẹ nhàng nói. “Howard, nó đi rồi. Nó đã đi rồi và giờ mình sẽ phải quen với điều đó. Cô đơn.”
Trong chốc lát, Howard đứng dậy bắt đầu loanh quanh vô định trong căn phòng với cái thùng, chẳng bỏ gì vào trong đó, mà gom mấy thứ từ dưới sàn đem đặt lên một đầu xô pha. Chị vẫn cứ ngồi, hai bàn tay đút trong túi áo. Howard đặt thùng xuống và đem cà phê vào phòng khách. Sau đó, Ann gọi cho họ hàng. Mỗi lần điện thoại được nhấc lên và đầu dây bên kia trả lời, Ann lại thốt ra vài lời và khóc mất một phút. Rồi chị lại khẽ giải thích, bằng giọng thận trọng, chuyện gì đã xảy ra và nói với họ về việc cần thu xếp. Howard cầm cái thùng ra ga ra, ở đấy anh nhìn thấy chiếc xe đạp của thằng bé. Anh buông rơi chiếc hộp và ngồi xuống vỉa hè cạnh chiếc xe. Anh lóng ngóng ôm lấy chiếc xe để cho nó tì vào ngực mình. Anh giữ lấy nó, cái bàn đạp bằng cao su đâm vào ngực anh. Anh xoay bánh xe một vòng.
Ann gác máy sau khi nói chuyện với chị gái. Chị đang tìm một số điện thoại khác thì điện thoại reo. Chị nhấc máy ngay chỉ sau một tiếng chuông.
“A lô,” chị nói, và chị nghe thấy tiếng gì đó vọng vào, một tiếng ầm ì. “A lô!” chị nói. “Lạy Chúa tôi,” chị kêu lên. “Ai đấy? Các người muốn gì?”
“Scotty của bà, tôi đã chuẩn bị nó sẵn sàng cho bà đây,” giọng người đàn ông nói. “Bà quên nó rồi sao?”
“Đồ đê tiện độc ác!” chị hét lên vào ống nghe.
“Sao mày có thể làm thế hả, đồ chó má xấu xa?”
“Scotty,” người đàn ông nói. “Bà đã quên Scotty rồi ư?” Rồi ông ta gác máy.
Howard nghe thấy tiếng hét liền đi vào nhà thì thấy chị đang ôm đầu gục trên bàn khóc nức nở. Anh nhấc ống nghe lên và lắng nghe tiếng tút chờ quay số.
RẤT muộn sau đó, ngay trước nửa đêm, sau khi họ đã giải quyết được nhiều việc, điện thoại lại reo.
“Anh nghe đi,” chị nói. “Howard, là hắn đấy, em biết.” Họ đang ngồi bên bàn bếp với cà phê trước mặt. Howard còn có một ly uýt ki nhỏ bên cạnh cốc cà phê. Anh nhấc máy sau hồi chuông thứ ba.
“A lô,” anh nói. “Ai đó? A lô! A lô!” Đường dây ngắt. “Hắn gác máy rồi,” Howard nói. “Cái kẻ quái nào đấy.”
“Là hắn,” chị nói. “Cái tay đê tiện đấy. Em muốn giết hắn,” chị nói. “Em muốn bắn hắn và nhìn hắn chết đi,” chị nói.
“Ann, lạy Chúa,” anh kêu lên.
“Anh có nghe thấy gì không?” chị hỏi. “Ở đằng sau ấy? Tiếng ồn, tiếng máy móc, tiếng gì ầm ì không?”
“Không có gì, thật đấy. Chẳng có gì như vậy cả,” anh đáp. “Chẳng có đủ thời gian mà nghe. Anh nghĩ có tiếng nhạc đài. Có đấy, có tiếng đài đang mở, đấy là tất cả những gì anh có thể nói chắc. Anh không hiểu nổi có chuyện trời chuyện đất gì đang diễn ra ở đây cả,” anh nói.
Chị lắc đầu. “Nếu em có thể, có thể bắt được hắn.” Và điều đó trở nên rõ ràng với chị. Chị biết kẻ đó là ai. Scotty, cái bánh ngọt, số điện thoại. Chị đẩy ghế khỏi bàn và đứng dậy. “Đưa em đến khu trung tâm mua sắm,” chị nói. “Howard.”
“Em bảo gì?”
“Trung tâm mua sắm. Em biết kẻ nào cứ gọi điện rồi. Em biết hắn là ai. Đó là lão hàng bánh, lão hàng bánh chó má, Howard. Em đặt hắn làm một chiếc bánh cho sinh nhật của Scotty. Đấy là kẻ cứ gọi điện đấy. Đấy là kẻ có số điện thoại và cứ gọi đến nhà mình. Để quấy rối mình về cái bánh ấy. Cái lão hàng bánh ấy, đồ đê tiện.”
HỌ lái xe tới trung tâm mua sắm. Trời trong và sao đã tàn. Trời lạnh, nên họ bật lò sưởi trong xe. Họ đậu xe ở trước cửa hiệu bánh. Tất cả cửa hàng cửa hiệu đã đóng, nhưng vẫn có xe đậu ở góc phía xa trong bãi đỗ trước rạp chiếu phim. Các cửa sổ của hiệu bánh tối om, nhưng khi nhìn qua cửa kính họ có thể thấy một ánh đèn trong gian phòng phía sau và, chốc chốc, một người đàn ông to lớn đeo tạp dề đi ra đi vào trong cái ánh sáng trắng dịu nhẹ ấy. Qua cửa kính, chị nhìn thấy những hộp bánh để trưng bày và vài cái bàn nhỏ có ghế xung quanh. Chị thử mở cánh cửa ra vào. Chị đập mạnh lên cửa kính. Nhưng nếu lão hàng bánh có nghe thấy thì lão cũng chẳng tỏ thái độ gì. Lão không nhìn về phía họ.
Họ lái xe vòng ra sau tiệm bánh và đỗ ở đó. Họ ra khỏi xe. Có một khuôn cửa sổ sáng đèn ở rất cao đến nỗi họ không thể nhìn thấy bên trong. Một tấm biển gần cửa sau viết KHO HÀNG, ĐƠN ĐẶT ĐẶC BIỆT. Chị nghe được loáng thoáng tiếng đài nói bên trong và thứ gì đó kêu ken két - cửa lò nướng đang mở ra chăng? Chị gõ cửa và đợi. Rồi chị gõ lại, to hơn. Giờ thì đài được vặn nhỏ lại và có một tiếng cọ xát, cái tiếng động rõ ràng của một thứ gì đó, một cái ngăn kéo, bị kéo ra rồi đóng lại.
Ai đó mở khóa và mở cửa ra. Lão hàng bánh đứng trong khoảng sáng ngó ra ngoài nhìn hai người. “Cửa hàng đóng cửa rồi,” lão ta nói. “Anh chị muốn gì vào giờ này chứ? Nửa đêm rồi. Say hay sao thế?”
Chị bước vào khoảng sáng lọt ra từ khuôn cửa mở. Lão ta chớp đôi mi mắt nặng nề và nhận ra chị. “Là cô,” lão ta nói.
“Là tôi,” chị nói. “Mẹ của Scotty. Đây là cha Scotty. Chúng tôi muốn vào trong này.”
Lão hàng bánh đáp, “Tôi đang bận. Tôi có việc phải làm.”
Dầu vậy chị đã bước hẳn vào bên trong cánh cửa rồi. Howard bước vào sau chị. Lão hàng bánh lùi lại. “Trong này có mùi như là cửa hàng bánh ấy. Có phải nó có mùi hàng bánh không, Howard?”
“Cô muốn gì?” lão hàng bánh hỏi. “Có lẽ cô muốn lấy cái bánh chăng? Phải rồi, cô đã quyết định là muốn lấy cái bánh. Cô đã đặt một cái bánh mà, phải không?”
“Ông quá thông minh để làm một ông hàng bánh đấy,” chị nói. “Howard, đây là kẻ đã luôn gọi điện cho mình đây.” Chị nắm chặt hai tay. Chị nhìn thẳng vào lão ta đầy hung dữ. Có một ngọn lửa sâu thẳm trong chị, một nỗi giận dữ khiến chị thấy mình như lớn hơn cả chính mình, lớn hơn cả hai người đàn ông đang ở đây.
“Chờ chút đã nào,” lão hàng bánh nói. “Cô muốn lấy cái bánh đã nướng ba ngày nay rồi ư? Phải đấy chứ? Tôi không muốn tranh cãi với cô, thưa quý cô. Nó nằm kia kìa, sắp thiu cả rồi. Tôi sẽ bán cho cô bằng nửa giá tôi đã nói. Mà không đâu. Cô muốn lấy nó à? Cô cứ lấy đi. Giờ nó chẳng có ích gì cho tôi nữa, chẳng ích gì cho bất kỳ ai nữa. Tôi đã tiêu tốn thời gian và tiền bạc để làm cái bánh ấy. Nếu cô muốn lấy nó thì được thôi, còn nếu cô không muốn thì cũng chẳng sao. Tôi phải quay lại làm việc.” Lão ta nhìn họ, uốn lưỡi trong miệng.
“Thêm nhiều bánh nữa,” chị nói. Chị biết chị đã làm chủ được nó, cái thứ đang dâng tràn lên trong chị. Chị bình thản.
“Thưa quý cô, tôi làm việc mười sáu giờ một ngày ở chỗ này để kiếm sống,” lão hàng bánh nói. Lão lau hai bàn tay vào tấm tạp dề. “Tôi làm ngày làm đêm ở chốn này, cố gắng kiếm cho đủ sống.” Một nét gì thoáng qua trên gương mặt Ann khiến lão hàng bánh lùi lại nói, “Nào, đừng có gây rắc rối đấy.” Lão tới bên quầy, tay phải nhặt một cây cán bột mà đập đập vào lòng bàn tay trái. “Cô có muốn lấy bánh hay không? Tôi phải quay lại làm việc. Thợ nướng bánh làm việc về đêm,” lão tiếp. Đôi mắt lão nhỏ và trông xấu xa, chị nghĩ, chúng gần như mất hút bên những thớ thịt lởm chởm lông quanh hai má lão. Cái cổ lão dày ự mỡ.
“Tôi biết thợ làm bánh làm việc về đêm,” Ann nói. “Chúng còn gọi điện về đêm nữa kia. Đồ đê tiện,” chị nói.
Lão hàng bánh tiếp tục đập đập cây cán bánh vào tay mình. Lão liếc nhìn Howard. “Coi chừng đấy, coi chừng đấy,” lão nói với Howard.
“Con trai tôi đã chết,” chị nói với vẻ dứt khoát lạnh lùng, bình thản. “Nó bị xe đâm sáng thứ Hai. Chúng tôi đã chờ đợi bên nó cho tới khi nó chết. Nhưng, dĩ nhiên, làm sao có thể đòi hỏi ông biết được điều đó, phải không? Thợ nướng bánh không thể biết được tất cả mọi thứ - phải không nào, ông hàng bánh? Nhưng nó chết rồi. Nó chết rồi, đồ đê tiện!” Đúng như cái cách nó đã đột ngột dâng tràn trong chị, cơn giận dữ tan đi, nhường chỗ cho một thứ gì khác, cái cảm giác chóng mặt buồn nôn. Chị tựa vào chiếc bàn g?