BỐN
Qua khe cửa để hờ, người gác cổng nhìn thấy hai người bước tới căn phòng ở đầu cầu thang bên kia, chứ không phải vào thang máy hay đi xuống gác. Khi trở ra, Maigret nghe thấy tiếng cửa rung nhẹ. Ông nhận xét với Janvier khi đi xuống cầu thang:
— Mụ ấy vẫn cảnh giác!
Lần ông đưa một người ra xét xử tại Toà thượng thẩm, người bạn theo dõi thì thầm bên tai ông: “Không biết hắn ta đang nghĩ gì nhỉ?” Maigret vô tình trả lời: “Báo phát hành chiều nay có lẽ sẽ đăng kĩ thôi!”
Ông quan niệm, các tên sát nhân khi bị tuyên án, thường hay quan tâm nhiều đến ấn tượng gây ra đối với công chúng, hơn là tội ác của mình và những ấn tượng ấy sẽ càng ít hơn đối với các nạn nhân. Chỉ sau một đêm, chúng đã trở thành các nhân vật nổi danh, được phóng viên báo chí, nhiếp ảnh túm tụm xung quanh phỏng vấn, đôi khi còn được công chúng xếp hàng đợi hàng giờ để xem mặt. Ta không ngạc nhiên khi thấy chúng có thái độ của một nghệ sĩ tài tử hạng tồi.
Chắc chắn mụ Crêmieux không thích thú khi Cảnh sát vào nhà. Nhất là Maigret lại có cách đặt câu hỏi làm người ta khó trả lời theo ý thích. Vì vậy, mụ đã bắt buộc phải thú nhận một vài việc không lấy gì làm thú vị. Trong ngót một tiếng đồng hồ, mụ bị hai thanh tra Cảnh sát tập trung chất vấn; hơn thế, còn chăm chú ghi lại từng lời nói dù là nhỏ nhất.
Đến lượt bà chủ cô hầu gái Rose khó chịu khi Maigret hỏi:
— Bà chịu khó trông các cháu, để chúng tôi hỏi cô hầu này vài câu.
Rose chưa đến mười sáu, ánh mắt nhìn vẫn còn ướt như sương.
— Chính em gọi điện sáng nay, phải không?
— Thưa vâng.
— Em biết Louise Laboine chứ?
— Em không biết tên.
— Em vẫn thường gặp cô ta lúc đi cầu thang?
— Thưa vâng.
— Cô ta có hay nói chuyện với em không?
— Cô ta chỉ cười, chẳng bao giờ nói điều gì. Cô ta trông không vui, dáng điệu như một diễn viên điện ảnh.
— Ngoài cầu thang ra, em còn gặp cô ta ở chỗ nào khác nữa không?
— Nhiều chỗ ạ.
— Ở đâu?
— Hầu như trưa nào khi dắt trẻ đi qua vườn hoa Trinité em cũng thấy cô ta ngồi trên ghế dài.
— Ngồi đấy làm gì?
— Chẳng làm gì cả.
— Đọc báo?
— Không ạ. Có một lần em thấy ăn bánh mì kẹp nhân. Cô ta biết mình sắp bị chết, phải không?
Chợt Maigret hỏi:
— Em thấy cô ta vào nhà thờ không?
— Thưa không ạ.
Tất cả tin tức Rose cung cấp có bấy nhiêu nhưng đủ chứng tỏ có những lúc cô gái này không có việc làm thường xuyên. Cô ta không đi xa mà chỉ thường đi xuống phố Clichy hoặc quanh quẩn trong phạm vi quận, và đến ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn hoa trước mặt nhà thờ Trinité.
Sau đó, Maigret tiến thẳng lại phía cô hầu gái có dáng điệu thô, khen ngợi vài câu lấy lệ rồi quay đi.
— Ta làm một cốc chứ? - Ông nói với Janvier khi hai người rời khỏi khu nhà.
Đã quá mười một giờ, hai người bước vào một quán rượu ở góc phố, vừa ngồi lặng lẽ uống rượu khai vị, vừa nghiền ngẫm về những điều vừa khám phá. Trước đây hai ngày, họ chưa biết đến sự tồn tại của Louise Laboine. Nhưng bây giờ, cô ta như một tấm ảnh đặt dưới máy phóng đại, có hình thù màu xanh, nằm nghiêng trên thềm hè ướt tại Quảng trường Vintimille, là cái xác trắng toát từng nằm trong bể đá hoa tại Viện pháp y, đã có tên rõ rệt. Hình ảnh cô gái bắt đầu hình thành, nhưng vẫn còn mờ ảo.
Maigret trả tiền rượu, lấy khăn lau miệng rồi trở lại chiếc xe Cảnh sát nhỏ, theo sau là Janvier. Tới Quai des Orfèvres, ông nhìn thấy một khuôn mặt tái mét đứng trong phòng ngoài và nhận ra Lognon, mũi đỏ hoe:
— Anh đang đợi tôi, Lognon?
— Vâng, tới hơn một tiếng đồng hồ rồi.
— Trông anh như cả đêm chưa ngủ?
— Ngủ nghê thì sá gì.
— Vào phòng làm việc với tôi.
Trông Lognon đứng đợi không ra dáng một sĩ quan Cảnh sát, mà như người đến để làm khuây khoả lương tâm vì nét mặt rầu rĩ và chẳng thảnh thơi chút nào. Lão Malgracieux bị cảm lạnh, khản tiếng, chốc chốc lại lấy khăn tay trong túi ra lau mũi. Nhưng lão không phàn nàn, dáng điệu kiên nhẫn như đã phải chịu đựng suốt đời và nghĩ rằng có thể còn phải chịu đựng cho đến ngày chót.
Lognon tựa lưng vào mép ghế, không nói được câu nào. Maigret nhồi tẩu thuốc rồi ngồi xuống ghế, hỏi:
— Lượm được tin tức nào không?
— Tôi đến để báo cáo công tác.
— Tiếp tục đi, ông bạn già.
Không nghi ngờ, lão Malgracieux coi sự thân mật này như một cách châm biếm:
— Đôm qua tôi cũng đi tua như đêm trước, tỉ mỉ hơn, cho đến khoảng ba giờ sáng. Chính xác là ba giờ bốn phút, mà chẳng có kết quả gì.
Lão vừa nói, vừa rút trong túi ra mảnh giấy:
— Tôi nói chuyện vào lúc ba giờ bốn phút với một lái xe tên là Léon Zirkt, ba mươi lăm tuổi, sinh sống tại Levallois Perret, bên ngoài một hộp đêm gọi là Le Grelot.
Các chi tiết này có thể là thừa, nhưng lão hạ sĩ cố tình nhấn mạnh các chữ, ngụ ý nói một nhân viên cấp dưới như lão không có quyền quyết định điều gì là quan trọng hay không quan trọng.
Maigret không nhịn được cười, khi thấy lão ngớ người không nhìn ông, nói:
— Tôi chìa bức ảnh ra cho xem, anh lái xe nhận ra cô gái ngay.
Lão ngừng nói như vẻ đóng kịch, không hề biết rằng Maigret đã phát hiện cả tên lẫn địa chỉ cuối cùng của cô gái vô danh này.
— Léon Zirkt cho xe đợi trước cửa hộp đêm Roméo mới mở tại phố Caumartin ngay trước lúc nửa đêm hôm thứ hai.
Như mọi việc được chuẩn bị kĩ từ trước, lão rút từ trong túi ra mảnh giấy thứ hai, một mảnh báo cắt, nói:
— Đêm hôm đó, tiệm Roméo đặc biệt không tiếp khách như thường lệ vì đã được thuê tổ chức tiệc cưới.
Lão đặt mảnh giấy báo cắt trước mặt Maigret, như luật sư trình tài liệu cho quan toà, rồi trở lại ghế ngồi.
— Đây là lễ cưới của Marco Santoni đại diện Hãng rượu Vermouth Ý tại Pháp, lấy cô Jeanine Armenieu, không có nghề nghiệp nhất định và sống tại Paris. Khách khứa đông, chứng tỏ Marco Santoni nổi tiếng trong giới thượng lưu.
— Các chi tiết đặc biệt này do Zirkt cung cấp?
— Vâng. Tôi đến tiệm Roméo lúc trời đang mưa nhỏ, Zirkt kể rằng anh ta đứng đợi bên ngoài cùng với mấy lái xe khác. Khoảng mười hai giờ mười lăm phút, một thiếu nữ mặc áo dạ hội xanh, choàng áo nhung đen không tay, bước ra, đi bộ. Như thường lệ, Zirkt gọi: “Đi taxi không?” Cô gái lắc đầu, tiếp tục đi bộ.
— Anh ta tin chắc là cô gái mà chúng ta đang tìm hiểu chứ?
— Vâng. Dưới ánh đèn néon trên cửa ra vào tiệm Roméo, Zirkt quen lái xe ban đêm, nhận thấy ngay chiếc áo xanh đã sờn nhiều. Anh gác cửa Gaston Rouget của tiệm Roméo cũng nhận ra bức ảnh.
— Chắc Zirkt không biết cô ta đi đâu?
Lognon lại lấy khăn xỉ mũi, không tỏ vẻ tự mãn, trái lại nét mặt khiêm nhường, như lão xấu hổ vì chẳng đóng góp được bao nhiêu.
— Lúc đó, hay mấy phút sau, có một cặp bước ra khỏi tiệm Roméo, thuê taxi đến tiệm Ngôi sao. Khi xe vượt qua Quảng trường Saint Augustin, Zirkt nhìn thấy cô gái đang đi bộ nhanh về phía đại lộ Haussmann, như đang tiến về phía Champs Élysées.
— Có thế thôi?
— Sau khi thả khách xuống, mấy phút sau, anh ta ngạc nhiên thấy cô gái đi bộ trở lại góc đại lộ Haussmann và Faubourg Saint Honoré. Nhìn đồng hồ, người lái xe ngạc nhiên thấy cô gái mất nhiều thời gian để đi bộ suốt quãng đường này. Lúc đó xấp xỉ một giờ đêm.
Bây giờ, chúng ta biết rằng Louise Laboine bị giết quãng hai giờ đêm và bị phát hiện tại Quảng trường Vintimille khoảng ba giờ sáng. Lognon đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng Maigret nhận ra câu chuyện vẫn chưa kết thúc khi thấy lão vẫn ngồi, rút trong túi ra một mảnh giấy thứ ba, nói:
— Nhà Marco Santoni nằm tại phố De Berri.
— Anh cũng đã gặp Marco Santoni?
— Không. Sau bữa tiệc cưới tại tiệm Roméo, cô dâu và chú rể lấy vé máy bay đi Florence hưởng tuần trăng mật. Tôi đã nói chuyện với Joseph Ruchon, người đầy tớ.
Lognon không sử dụng xe Cảnh sát và chắc cũng không đến đi taxi vì tiền xe bị xem xét rất kĩ lưỡng. Vậy lão hẳn phải đi bộ suốt đêm cho đến sáng, hay đi xe buýt hay đi xe điện ngầm.
— Tôi cũng điều tra người bán rượu tại tiệm Fouquet trên đại lộ Champs Élysées và hai người bán rượu tại hai quán khác. Còn người bán rượu tại tiệm Maxim's thì tôi không phỏng vấn được, vì hắn sống ở ngoại ô, chưa đến làm việc.
Tài liệu thu thập cất trong túi, hầu như vô tận. Lão móc ra hết mảnh giấy này đến mảnh giấy khác, mỗi mảnh là bằng chứng của một giai đoạn điều tra.
— Santoni trạc bốn mươi lăm tuổi, đẹp mã, hơi mập người, chải chuốt, làm chủ nhiều hộp đêm, quán rượu và các tiệm ăn sang trọng nhất. Nhân tình không thiếu, phần lớn là các vũ nữ và các cô gái làm mẫu. Hắn quen biết Jeanine Armenieu cách đây khoảng ba, bốn tháng, theo chỗ tôi điều tra được.
— Cô nhân tình này cũng là người mẫu?
— Không. Cô ta không thuộc giới của Santoni. Chẳng ai biết hắn gặp gỡ ở đâu.
— Bao nhiêu tuổi?
— Hai mươi hai. Sau khi quen Santoni, cô ta đến sống tại Khách sạn Washington trong phố Washington. Santoni thường đến đó gặp người tình và đôi khi cô ta ngủ đêm tại nhà hắn.
— Santoni lấy vợ lần đầu tiên?
— Vâng.
— Người hầu đã xem bức ảnh cô gái bị ám sát chưa?
— Tôi đưa cho xem thì hắn khẳng định là không biết. Ba người bán rượu khác được tôi cho xem ảnh, cũng khẳng định như vậy.
— Người hầu có mặt tại nhà trong đêm thứ hai chứ?
— Hắn vừa xếp xong đồ đạc vào vali cho chuyến đi du ngoạn tuần trăng mật. Chẳng có ai rung chuông. Năm giờ sáng thì Santoni và cô dâu bước vào, nét mặt rất vui, thay vội quần áo để kịp tới sân bay Orly.
Lognon lại ngừng, làm người nghe có cảm tưởng câu chuyện sắp kết thúc. Maigret không bị đưa vào tròng, mặc dầu thái độ lão khúm núm và lặng lẽ.
— Con bé ở lại trong tiệm Roméo có lâu không?
— Tôi hỏi người gác cửa như đã kể lại với thanh tra.
— Khi vào, khách khứa có phải chìa thiếp mời không?
— Không nhất thiết, có người đưa, có người không đưa. Người gác cửa nhớ là có nhìn thấy cô gái bước vào trước lúc nửa đêm chút ít, khi các cặp bắt đầu khiêu vũ. Hắn để cô ta vào, tưởng là bạn cô dâu vì trông cô ta không giống khách thường lộ của tiệm.
— Như vậy con bé lưu lại trong tiệm khoảng mười lăm phút?
— Vâng, theo chỗ tôi hỏi người bán rượu.
— Lão gặp hắn sáng hôm đó tại tiệm Roméo?
— Không, tôi đến nhà riêng, tại cửa Des Ternes lúc hắn đang ngủ.
Đi đi lại lại như vây cũng phải tới hàng trăm dặm. Maigret mường tượng lão Lognon đã phải đi bộ hàng trăm dặm trong đêm, tới mờ sáng, như con kiến tha nặng nhưng cương quyết vượt mọi trở ngại trên đường đi. Trong toàn bộ lực lượng Cảnh sát, khó tìm được một điều tra viên nào như lão có khả năng hoàn thành bao nhiêu công việc mà không quên một chi tiết nhỏ, không phó mặc cho may rủi. Nhưng trong hai mươi năm qua, Lognon vẫn chưa thực hiện được tham vọng duy nhất là được đề bạt vào Trung tâm cảnh sát.
Một phần do tính tình lão, nhưng chủ yếu do lão thiếu kiến thức cơ bản, các lần sát hạch đều trượt.
— Người bán rượu nói gì?
Lognon lại rút trong túi ra một mảnh giấy khác ghi tên, địa chỉ và một vài chi tiết. Nhưng nào lão đâu có cần đọc, lão thuộc lòng:
— Thoạt tiên hắn chú ý thấy cô gái đứng tựa quay bên trong cửa. Người hầu bàn tiến lại hỏi nhỏ thì cô ta lắc đầu, có lẽ để hỏi xem cô ta đến dự tiệc nào. Cô ta lách qua đám đông, khi ấy mọi người đang đứng dậy và các cặp bắt đầu khiêu vũ trong khoảng cách giữa các bàn và cả trên sàn nhà.
— Cô ta đến nói chuyện với cô dâu?
— Cô ta phải đợi, vì cô dâu đang khiêu vũ. Hai người nói chuyện trong mấy phút, nhưng cũng làm Santoni mất bình tĩnh, cắt ngang câu chuyện hai lần.
— Cô dâu có trao lại một vật gì không?
— Tôi có hỏi, nhưng người bán rượu không trả lời được.
— Hai người có vẻ như cãi nhau không?
— Nhìn bề ngoài, bà Santoni có vẻ dè dặt, nếu không phải là lạnh nhạt, và bà ta lắc đầu nhiều lần. Sau đó, cô gái áo xanh mất hút, người bán rượu chẳng nhìn thấy đâu.
— Anh đã điều tra cả người hầu bàn chứ?
Sự việc biến thành nực cười.
— Hắn ngụ ở phố Caulaincourt, ngay tận cuối phố. Lúc tôi đến, hắn còn đang ngủ.
Thì ra Lognon cũng đã có mặt ở đó.
— Hắn khẳng định lại điều người bán rượu nói với tôi. Hắn tiến lại, hỏi xem cô gái tìm ai. Cô ta trả lời muốn nói chuyện với bạn là cô dâu.
Nói tới đây, Lognon đứng dậy, không còn gì trình bày thêm.
— Anh đã hoàn thành công việc xuất sắc, ông bạn già ạ.
— Tôi hoàn thành những việc tôi có nhiệm vụ phải làm.
— Bây giờ anh hãy đi ngủ và coi chừng bản thân.
— Cảm lạnh xoàng thôi.
— Nhưng nó có thể biến chứng thành viêm phế quản nếu anh không giữ gìn cẩn thận.
— Mùa đông năm nào tôi cũng bị viêm phế quản, nhưng cũng may là chưa đến nỗi phải nằm liệt giường.
Điều phiền hà với lão Lognon chính là ở chỗ lão đã phải đổ mồ hôi trán để thu thập những tin tức có thể có giá trị. Những tin tức mà ngay cả đến Maigret cũng phải tập trung hết sức tối đa các trinh sát của ông mới có thể thu thập được, đừng nói gì mình lão. Nhưng bây giờ đến lượt Maigret làm điều đó, lão Malgracieux sẽ có cảm giác như bị giật miếng ăn từ trong miệng. Trong ba đêm liền tính ra lão mới chỉ ngủ được bảy đến tám tiếng đồng hồ. Toàn thân đau nhừ vì cảm lạnh, cổ họng đau rát. Sức khoẻ lão bị suy sụp. Lẽ ra lão phải được tiếp tục nhiệm vụ, ấy thế mà lão vẫn tự coi mình như một nạn nhân, một con người tội nghiệp, được giao làm cái phần công việc bạc bẽo nhất, và đến phút chót lão lại bị cướp mất công trạng.
— Anh có đề nghị gì tiếp sau không?
— Trừ khi thanh tra có ý định giao nhiệm vụ cho người khác...
— Tất nhiên là không. Tôi chỉ muốn nói, tốt nhất anh nên nghỉ ngơi, lấy lại sức khoẻ.
— Khi về hưu, tôi sẽ có khối thời gian để nghỉ ngơi. Tôi không kịp đến toà thị chính quận tám điều tra về đám cưới, hay đến Khách sạn Washington, nơi bà Santoni đang trọ. Có khả năng tôi tìm ra nơi bà ta sinh sống trước đây và điều đó sẽ giúp tôi phát hiện địa chỉ cô gái bị ám sát.
— Hai tháng qua cô ta trọ tại phố Clichy, tại nhà một bà tên là Crêmieux, một bà goá cho thuê lại buồng trong nhà.
Lognon mím môi, không nói.
— Không biết trước đó cô ta làm nghề gì. Bà Crêmieux được biết tên cô ta là Louise Laboine, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy chứng minh thư cô ta.
— Tôi có thể tiếp tục điều tra?
Phản đối lão mà làm gì:
— Nếu ông bạn già thật tình muốn tiếp tục thì cứ làm. Nhưng chớ làm đến kiệt sức nhé.
— Cảm ơn.
Còn lại một mình trong phòng làm việc, Maigret lơ đãng nhìn cái ghế mà lão Malgracieux vừa ngồi trước mặt. Các nét mặt mới của Louise Laboine dần dần xuất hiện, như còn trên tấm kính ảnh. Nhưng ấn tượng chung vẫn còn mơ hồ. Phải chăng trong hai tháng qua, khi không có việc làm thường xuyên, cô cố đi tìm Jeanine Armenieu? Chẳng hạn, Louise có thể tình cờ xem báo, biết tin Jeanine Armenieu sắp lấy Marco Santoni và đám cưới sẽ được tổ chức linh đình tại tiệm Roméo.
Như vậy, lúc đọc báo trời đã tối, vì mãi chín giờ cô ta mới chạy bổ đến cửa hiệu Irène thuê áo dạ hội. Rồi cô ta rời hiệu Irène trong phố De Douai quãng mười giờ đêm. Từ lúc đó đến nửa đêm, cô ta làm gì? Cô ta dùng hai mươi phút còn lại đi bộ từ phía De Douai đến phố Caumartin, trong khi cố vắt ra một quyết định ư?
Maigret nhìn lại một lần nữa báo cáo của bác sĩ Paul lúc ấy đang nằm trên bàn, ghi rõ dòng chữ: Dạ dày cô gái có chứa nhiều rượu.
Người trưởng hầu bàn thì khẳng định, cô ta không tài nào uống được rượu trong thời gian ngắn ngủi ngồi trong tiệm Roméo. Như vậy, có thể cô ta hoặc sẽ phải uống trước để lấy can đảm, hoặc uống sau, kể từ lúc rời tiệc cưới cho đến lúc người ta tìm thấy xác nằm trên Quảng trường Vintimille.
Maigret đi ngang tới phòng trực, mở cửa, gọi Janvier.
— Có nhiệm vụ giao cho anh. Anh hãy đi ngược lên phố De Douai rồi đi xuôi đến phố Caumartin, quán rượu hay quán cà phê nào cũng dừng lại, chìa ảnh cho họ xem.
— Ảnh cô gái mặc áo dạ hội?
— Phải. Anh cố phát hiện xem có ai trông thấy Louise Laboine trong đêm thứ hai, từ mười giờ đến nửa đêm.
Janvier vừa đóng cửa, Maigret vội gọi to:
— Nếu có gặp Lognon, đừng nói cho lão biết nhiệm vụ tôi giao cho anh nhé.
— Rõ, thưa sếp!
Chiếc vali xanh dựng trong góc phòng làm việc của Maigret hình như chẳng có gì đặc biệt, loại vali rẻ tiền, thường bày bán trên các cửa hàng bách hoá, các cửa hiệu chung quanh các ga xe lửa. Một chiếc vali cũ, đã mòn vẹt. Maigret bước ra khỏi phòng làm việc, tới buồng của Ban công ty, thì thấy Priollet, bạn đồng nghiệp, đang ngồi kí công văn. Ông bình thản hút thuốc.
— Tôi có thể giúp được gì? - Priollet hỏi.
— Một vài chi tiết về một gã tên gọi là Santoni, anh biết chứ?
— Marco phải không?
— Phải.
— Gã vừa lấy vợ.
— Anh biết thêm chi tiết nào khác không?
— Tiền kiếm cũng nhiều, mà chi tiêu cũng lắm. Khá đẹp trai, thích phụ nữ, thích ăn ngon và các xe hơi đắt tiền.
— Có tiền án gì không?
— Không. Gia đình tử tế, sống ở Milan. Cha làm trùm hãng rượu Vermouth, còn Marco Santoni được giao quản lý chi nhánh tại Pháp. Hay lui tới các quán rượu trên đại lộ Champs Élysées, các tiệm ăn sang trọng, và các cô gái đẹp. Cách đây mấy tháng, hắn bị mắc vào một cô.
— Jeanine Armenieu?
— Tôi không biết tên cô ta. Chẳng có lý do gì để chúng ta quan tâm đến hắn và các chuyện yêu đương của hắn. Tôi tình cờ biết hắn mới lấy vợ, vì đám cưới được tổ chức rất linh đình tại một hộp đêm do hắn thuê.
— Tôi muốn điều tra về vợ hắn đã trọ tại Khách sạn Washington trong mấy tháng vừa qua. Tôi muốn biết cô ta từ đâu đến, làm gì trước khi gặp Santoni, bạn bè ra sao, cả đàn ông và đàn bà, và đặc biệt là đàn bà.
Priollet dùng bút chì ghi nhanh trên tập giấy.
— Có thế thôi? Còn cô gái bị ám sát tại Quảng trường Vintimille?
Maigret gật đầu, nói:
— Các hồ sơ của anh có tin tức gì về một cô gái có tên gọi là Louise Laboine không?
Priollet mở toang cửa, nói to:
— Dauphin, anh nghe thấy gì không?
— Thưa, có ạ.
— Soát lại hộ nhé?
Mấy phút sau, từ phòng bên, hạ sĩ Dauphin gọi:
— Chẳng có gì về cô gái này.
— Thật đáng tiếc, ông bạn. Tôi sẽ tìm hiểu về bà Santoni. Ngay lúc này tôi không thể đến điều tra, vì báo chí đăng tin họ đang đi hưởng tuần trăng mật tại Ý.
— Trong lúc này, tôi cũng không muốn ai đến điều tra bà ta.
Đồng hồ treo trên mặt lò sưởi chỉ mười hai giờ trưa, kém mấy phút, một chiếc đồng hồ đen, tương tự như loại treo trong phòng làm việc của Maigret, và nói chung của các chánh thanh tra Cảnh sát.
— Đi uống với tôi một cốc rượu.
— Cho xin khất, tôi đang chờ người. - Priollet trả lời.
Cái tôi rất lớn của mình làm Maigret không được vừa ý. Ông đi xuống hành lang và rầu rĩ nhìn vào phòng đợi có vách ngăn bằng kính; hai, ba người đang chán nản ngồi đợi trong đó. Mấy phút sau, ông trèo lên cái cầu thang hẹp dẫn đến gác mái, đẩy cửa bước vào phòng hoá nghiệm, thì thấy Moers đang ghé nhìn vào kính hiển vi.
— Anh đã quan sát quần áo tôi gởi lên chưa?
Tại phía gác mái của toà nhà, người ta không bao giờ nghe được các dấu hiệu nhộn nhịp. Chỉ có những người mặc blouse xám, tỉ mỉ thao tác các máy móc phức tạp trong một bầu không khí thật yên tĩnh. Bản thân Moers cũng là hiện thân của sự yên tĩnh. Anh nói:
— Chiếc áo đen chưa đưa đi tẩy lần nào, các vết thường tẩy bằng xăng, áo được chải đều đặn. Tôi đã phân tích các hạt bụi còn mắc trong các sợi. Tôi cũng đã quan sát các vết chưa tẩy sạch và tìm thấy dấu sơn xanh.
— Có thế thôi à?
— Còn thêm một vài hạt cát.
— Cát ở sông à?
— Cát biển, loại cát trên các bãi biển ở Normandie.
— Cũng giống như cát Địa Trung Hải chứ?
— Không. Cát trên các bãi biển Đại Tây Dương lại khác.
Maigret la cà trong phòng hoá nghiệm một lát, gõ tẩu vào gót giày cho rơi tàn thuốc, rồi đi xuống cầu thang. Lúc đó đã quá mười hai giờ trưa, các thám tử cũng đã về nhà ăn trưa. Còn lại một mình Jussieu, anh ta báo cáo:
— Lucas đang tìm thanh tra.
Ông thấy Lucas đã đội mũ lên đầu.
— Tôi viết để lại mấy chữ trên bàn, vừa sắp định ra về. Féret đề nghị thanh tra gọi điện, càng sớm càng tốt về vấn đề cô gái trẻ.
Maigret bước vào phòng làm việc, nhấc máy điện thoại:
— Làm ơn cho tôi nói với Đội Cảnh sát cơ giới tại Nice.
Từ lúc đăng ảnh lên báo, mới có một người gọi điện thoại là Rose, cô hầu gái ít tuổi tại phố Clichy. Thế mà ít nhất phải có hàng tá, thậm chí hàng trăm người trông thấy cô ta trong nhiều tháng trời sống tại Paris.
— A lô! Féret?
— Dạ, sếp đấy ư?
Hạ sĩ Féret làm việc dưới quyền Maigret ngay từ trước khi xin chuyển về Nice, để chăm sóc bệnh tình của vợ.
— Sáng sớm hôm nay, có người gọi điện về cô gái mà thanh tra hiện đang quan tâm. À này, thanh tra biết tên rồi chứ?
— Tên cô ta là Louise Laboine, không thể chối cãi được.
— Đúng ạ. Thanh tra muốn có thêm chi tiết không? Tôi e nhiều quá. Tôi đang đợi chỉ thị trước khi tiến hành điều tra thêm. Sáng hôm nay có một bà buôn cá gọi điện cho tôi, khoảng tám giờ rưỡi. Tên là Alice Feynerou... A lô?...
—A lô! Phải?
Maigret ghi vội tên lên tập giấy của Lognon.
— Bà ta nói đã nhận ra bức ảnh đăng trên tờ Người hướng đạo. Hình như đã khá lâu - bốn, năm năm rồi. Khi đó, cô ta hãy còn là một đứa trẻ sống với mẹ trong căn nhà sát cạnh cửa hàng bán cá.
— Bà ta kể thêm gì không?
— Bà ta nhớ rõ, mẹ cô ta tính sổ, cộng hoá đơn và mô tả hai mẹ con như “hạng người không đáng tin cậy”.
— Còn nói gì thêm không?
— Căn nhà hai mẹ con ở rất dễ chịu, cách đại lộ Clemenceau không xa. Lúc đương thời, mẹ cô là hoa khôi, trông chỉ già hơn thiếu nữ mười lăm, mười sáu tuổi. Khi đó, bà ta đã quá năm mươi.
— Hai mẹ con sống bằng nghề gì?
— Trời mà biết được. Bà mẹ có thói quen ăn mặc sang trọng, ăn cơm trưa xong là đi phố và mãi tối mịt mới về nhà.
— Có thế thôi ư? Không có người đàn ông nào xen vào chuyện này à?
— Nếu có chuyện ngồi lê đôi mách nào về một người đàn ông, thì hẳn bà buôn cá phải thích thú kể cho tôi nghe.
— Hai mẹ con rời Nice cùng một lúc?
— Đúng như vậy. Một ngày đẹp trời hai mẹ con biến mất, hình như chỉ để lại một ít tiền nợ chưa thanh toán.
— Anh đã kiểm soát lại cái tên Laboine trong hồ sơ chưa?
— Đấy là điều trước tiên phải làm. Hồ sơ chẳng có chi tiết gì đặc biệt. Tôi điều tra tất cả, một gã sống lâu năm ở đây, nói tên nghe quen thuộc, nhưng không nhớ có liên quan về vấn đề gì.
— Anh xem chưa?
— Tôi sẽ cố hết sức mình. Thanh tra muốn biết nhiều nhất về vấn đề gì?
— Về tất cả. Louise Laboine rời Nice năm nào? Bà mẹ hiện nay sinh sống ra sao? Hai mẹ con sống bằng nghề gì, bạn bè ra sao? Nhân tiện, có lẽ con bé hồi mười lăm, mười sáu tuổi vẫn còn đi học. Vì vậy ông thử kiểm tra tại các trường học ở Nice xem sao?
— Tuân lệnh. Nếu có tin tức gì báo cáo, tôi sẽ gọi điện ngay.
— Kiểm soát cả sòng bạc, xem bà mẹ có lui tới không?
— Tôi vừa nảy ra ý kiến đó.
Điện thoại vừa gọi, bổ sung thêm vài nét về hình ảnh Louise Laboine: một cô gái nhỏ tuổi, thường bị mẹ sai đi mua chịu cá tại một cửa hiệu cạnh nhà, bà buôn cá tỏ thái độ lạnh nhạt.
Maigret mặc áo, đội mũ. Khi xuống cầu thang, đi qua một người bị hai cảnh sát viên dẫn lên mà không buồn nhìn. Ông bước vào phòng làm việc của Ban Khách sạn, viết hai tên Louise Laboine và Jeanine Armenieu lên một mảnh giấy, nói:
— Đề nghị các bạn tìm hộ hai cái tên này trong sổ đăng kí. Có nhiều khả năng đăng kí trong năm qua.
Lão Lognon đáng thương hại không ngờ một phần nhiệm vụ được giao đã thực hiện theo phương pháp này. Như thế tốt hơn đối với lão.
Trời vừa mưa rào xong. Mặt trời lại xuất hiện đã làm khô những con đường rải cuội. Maigret vừa định gọi chiếc taxi chạy qua, nhưng lại thay đổi ý kiến, đi bộ chậm chạp tới quán bia Brasserie Dauphine. Ông không thể quyết định nên uống gì. Lúc đó, hai thám tử của một cục khác đang thảo luận về tuổi về hưu.
— Thanh tra uống gì?
Người ta có thể nghỉ nhưng riêng ông, ông đang trong tâm trạng bực tức, nhưng những người quen ông đều hiểu rằng không phải ông đang bực tức. Chỉ có điều là ông đang có mặt tại nhiều nơi trong cùng một lúc, tại nhà bà goá Crêmieux ở phố Clichy, tại cửa hiệu quần áo ở phố De Douai, trên chiếc ghế dài trong vườn hoa Trinité và bây giờ với hình ảnh một thiếu nữ nhỏ nhắn tại một cửa hàng bán cá ở Nice.
Tất cả những hình ảnh này vẫn còn mờ ảo, lẫn lộn với nhau, nhưng bắt đầu thể hiện một điều gì đó. Đặc biệt, ông không thể xoá khỏi đầu hình ảnh một cái xác trần truồng dưới ánh sáng điện gay gắt, trong lúc bác sĩ Paul đeo đôi găng tay cao su đứng bên cạnh.
— Một pernod! - Ông nói, không suy nghĩ.
Có phải bác sĩ Paul nói rằng, cô gái ngã khuỵu xuống, rồi mới bị đánh vào đầu? Trước đó một lát, cô ta ghé vào tiệm Roméo tại phố Caumartin, có một người lái xe taxi nhận thấy chiếc áo đã sờn, có người phục vụ nhìn thấy cô lách qua đám đông người đang khiêu vũ, cô ta đến nói chuyện với người hầu bàn, rồi đến nói chuyện với cô dâu. Sau đó cô ta trở ra phố, đi bộ dưới mưa, anh lái taxi trông thấy cô ta đi ngang qua Quảng trường Saint Augustin và ít phút sau lại nhìn thấy cô ta đi trên đại lộ Haussmann tại góc Faubourg Saint Honoré. Suốt thời gian này, cô ta đang nghĩ gì, định đi đâu và hy vọng gì?
Bà Crêmieux đã đuổi đi vì cô ta hầu như không còn tiền, không đủ mua một bữa ăn. Cô ta làm sao đi xa được. Có thể cô ta quanh quẩn đâu đó, có một gã đến vả hay đấm vào mặt cho cô ta ngã khuỵu xuống, rồi dùng một vũ khí nặng và cứng đánh vào đầu. Nếu tin vào khám nghiệm tử thi, cô ta chết vào khoảng hai giờ sáng. Vậy trong thời gian từ nửa đêm đến hai giờ sáng, cô ta làm gì? Sau đó thì cô ta làm gì được nữa! Chính tên giết người đã khênh xác cô đến đặt tại giữa Quảng trường Vintimille. Maigret lẩm bẩm:
— Một cô gái thật kì quặc!
— Xin lỗi ngài. - Người phục vụ nói, vẻ tò mò.
— Không sao. Mấy giờ rồi?
Ông về nhà ăn cơm trưa. Lúc đang ăn, bà Maigret lên tiếng với chồng:
— Suốt sáng hôm nay, em suy nghĩ về câu anh hỏi tối hôm qua. Con gái có thể mặc áo dạ hội vì một lý do khác nữa.
Maigret thì thầm như kẻ đãng trí, không phải giữ ý như với Lognon mà cũng chẳng để cho vợ nói hết:
— Anh biết rồi, để đi dự tiệc cưới.
Bà Maigret chẳng còn gì nói thêm.