Chương 3 NGƯỜI KHÁCH LẠ Ở QUÁN RƯỢU
Có người nhẹ nhàng đặt tay vào vai Maigret và cùng lúc ông nghe tiếng nói nhỏ bên tai:
— Anh Maigret, bảy giờ rồi!
Maigret cảm thấy mùi cà phê thoải mái trong chiếc tách trên tay vợ xông lên tận mũi mình. Các giác quan và ý thức của ông bắt đầu được đánh thức đôi chút y như các nhạc công của một dàn nhạc đã vào chỗ đang thử lại nhạc cụ và chưa mấy ăn ý với nhau. Hôm nay khác với mọi ngày, vì theo thông lệ ông dậy lúc tám giờ. Không cần mở mắt, ông cũng biết hôm nay trời nắng. Hôm qua trời mù sương. Nghĩ vậy ông lại nhớ đến đại lộ Pasteur rồi cảm thấy rõ trong miệng mình cái vị nhạt nhẽo khó chịu mà đã từ lâu rồi mỗi lúc thức dậy ông không nhận thấy, ông tự hỏi phải chăng miệng ông sắp khô và đắng ngắt và ông lại nghĩ đến những chiếc ly rượu xoàng xĩnh và thứ rượu quê của ông Bộ trưởng.
Trong lòng buồn bực, ông mở mắt, ngồi lại trên giường và hơi yên tâm khi nhận rõ mình không bị nhức đầu. Đêm hôm qua, ông không nhận ra rằng hai người đã uống khá nhiều.
— Anh mệt à? - Vợ ông hỏi.
— Không, sẽ ổn cả thôi.
Mắt mọng lên, ông vừa uống cà phê từng ngụm nhỏ vừa nhìn quanh và nói nhỏ với giọng ngái ngủ:
— Trời tốt phải không em?
— Vâng có sương muối đấy.
Ánh nắng hơi chói nhưng sáng tươi như loại rượu trắng ở đồng quê. Ở đại lộ Richard Lenoir cuộc sống của Paris bắt đầu bừng dậy với một số âm thanh quen thuộc.
— Anh phải đi sớm thế ư?
— Không. Tôi chỉ phải gọi điện cho Chabot thôi. Sau tám giờ khó mà gặp được anh ta ở nhà. Thậm chí anh ấy đã đi từ bảy giờ ba mươi nếu như có phiên chợ ở Fontenay le Comte.
Julien Chabot là bạn cùng học với Maigret hồi ở Nantes, nay Chabot là dự thẩm ở Fontenay le Comte, ông sống với mẹ trong ngôi nhà thời thơ ấu. Trước đây hai năm khi đi dự họp ở Bordeaux, Maigret có ghé thăm ông ta. Bà cụ Chabot đi lễ sớm lúc sáu giờ sáng và đến bảy giờ thì trong nhà đã rộn lắm rồi. Đến tám giờ Julien rời nhà nhưng không phải để đến sở làm vì ở đó cũng ít việc mà để dạo chơi trên phố hoặc đi dọc theo bờ sông Vendée.
— Em cho anh xin một ly nữa.
Ông cầm ống nghe kéo về phía mình rồi xin số. Trong khi cô nhân viên điện thoại nhắc lại số ông yêu cầu, bỗng nhiên ông nghĩ rằng nếu như một trong những giả thiết ông nghĩ hôm qua là đúng sự thật thì ngay giờ đây ông đã bị nghe trộm rồi. Ý nghĩ đó bỗng làm ông trở nên khó chịu. Và cảm thấy buồn nôn y như lần ông bị vướng vào một âm mưu và giận Point, người mà ông chẳng quen biết gì, lại chưa bao giờ gặp mặt mà ông ta lại phải cần đến ông giúp để thoát khỏi cảnh nguy khốn.
— Bà Chabot phải không? A lô! Có phải bà Chabot đang nghe đấy không? Maigret đây, không, Maigret đây.
Bà Chabot hơi nặng tai. Ông phải nhắc đi nhắc lại tên ông năm sáu lần để cho bà ta nghe rõ:
— Jules Maigret là cảnh sát đây.
Đến lúc đó bà mới kêu lên:
— Ông đang ở Fontenay le Comte à?
— Không, tôi gọi từ Paris. Chabot có ở nhà không hở bà?
Bà mẹ Chabot hét thật lớn sát ngay ống nói mà không nghe rõ bà nói gì. Cũng mất một phút mới nghe được giọng của Chabot.
— Julien đấy ư?
— Vâng.
— Anh nghe rõ chứ?
— Rõ lắm. Cứ như là anh gọi từ ga về ấy! Sức khoẻ thế nào?
— Tốt lắm. Xin anh nghe tôi. Làm phiền anh thế này là để hỏi anh một số việc. Anh đang dùng điểm tâm phải không?
— Vâng, nhưng chẳng hề gì.
— Anh biết Auguste Point chứ?
— Ông Bộ trưởng ư?
— Vâng.
— Tôi thường gặp ông ta hồi ông ta còn làm luật sư ở Roche sur Yon.
— Anh thấy ông ta thế nào?
— Một nhân vật đáng chú ý đấy.
— Anh hãy cho tôi biết chi tiết nhé. Nhớ được gì xin anh cứ nói.
— Bố ông ta là Évariste Point ở Sainte Hermine thành phố Clemenceau. Ông ta có một khách sạn nổi tiếng không phải nhờ các phòng ở mà nhờ có bếp ăn ngon. Nhiều người thích ăn ngon ở xa cũng tìm đến. Nay ông ta chắc cũng đã tám mươi. Từ mấy năm rồi, ông giao việc lại cho con gái và rể nhưng vẫn cùng chăm lo khách sạn, Auguste Point là con trai duy nhất. Point cũng học gần như cùng thời với bọn ta nhưng học ở Poitiers rồi lên Paris. Anh vẫn nghe đấy chứ?
— Vâng.
— Tôi tiếp tục. Point giỏi việc lại chăm làm. Point mở văn phòng ở quảng trường của quận Roche sur Yon. Anh cũng biết rõ thành phố này đấy. Point ở lại đây mấy năm và lo giải quyết các vụ kiện tụng giữa các tá điền với chủ. Point cưới con gái của Arthur Belion, một ông đại tụng. Ông này chết cách đây hai ba năm gì đó. Mẹ vợ Point còn sống ở Roche sur Yon.
Trong những năm tạm chiếm. Point sống kín đáo. Ông ta sống bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Mọi người hết sức sửng sốt vào mấy tuần trước khi rút lui bọn Đức bắt Point giải đến Niort, rồi giam đâu đó ở Alsace. Cũng trong chuyện đó tụi Đức bắt luôn ba bốn người khác nữa trong đó có một bác sĩ giải phẫu ở Bressuires và nhờ thế người ta mới biết rằng, trong suốt thời gian chiến tranh Point đã nuôi trong trang trại mình ở gần Roche sur Yon những nhân viên tình báo người Anh và các phi công trốn khỏi trại giam của Đức. Mấy hôm sau ngày giải phóng. Point trở về người ốm yếu, áo quần tả tơi. Ông ta chẳng buồn kể lể thành tích. Ông ta cũng chẳng tham gia vào đám diễu hành nào và cũng chẳng xin vào ủy ban nào hồi đó.
Anh vẫn nhớ tình hình lộn xộn hồi ấy chứ. Chuyện gì cũng có chính trị xen vào; chẳng ai biết phân biệt đâu là chính, đâu là tà. Sau cùng, khi không còn tin cậy vào ai nữa người ta quay về Point. Ông ta có thành tích mà chẳng cần khoe khoang và lúc nào cũng tỏ ra vững vàng và có bản lĩnh. Chúng tôi đã bầu ông làm dân biểu.
Có thể nói là toàn bộ chuyện về Point là như vậy, gia đình Point vẫn giữ ngôi nhà ở quảng trường quận. Đến kỳ hạn họp Quốc hội thì họ đến Paris và sau đó về nhà ngay. Point vẫn cứ giữ một số khách hàng quen. Tôi nghĩ rằng ông ấy được bà vợ giúp đỡ nhiều. Hai vợ chồng có một cô con gái.
— Tôi biết.
— Thế thì anh cũng biết như tôi đấy chứ.
— Anh biết cô thư ký của ông ta không?
— Cô Blanche phải không? Tôi hay gặp cô ấy ở văn phòng của Point, chúng tôi gọi cô ta là “rồng cái” vì cô ta chăm sóc bảo vệ ông chủ mình quá nhiệt tình.
— Anh có biết thêm điều gì về cô ấy nữa không?
— Tôi nghĩ rằng cô ấy mê ông chủ, mê theo kiểu mấy cô gái già.
— Nhưng cô ta làm việc với Point trước khi thành gái già cơ mà.
— Vâng. Tôi biết. Nhưng đó là chuyện khác. Mà tôi cũng không biết giải thích thế nào nữa. Có chuyện gì thế.
— Chưa có chuyện gì. Anh có biết một người tên là Jacques Fleury không?
— Không biết rõ lắm. Tôi gặp ông ấy hai, ba lần cách đây ít nhất cũng đã hai mươi năm, chắc ông ta sống ở Paris. Tôi không rõ ông ấy làm gì.
— Xin cảm ơn anh và xin lỗi đã làm anh lỡ bữa ăn sáng.
— Mẹ tôi hâm nóng lại thôi.
Không biết nói gì khác, Maigret thêm:
— Chỗ anh trời đẹp chứ?
— Vâng, có nắng đấy nhưng mái nhà đầy sương muối.
— Đây trời cũng lạnh. Thôi, chào nhé, anh bạn cũ. Xin gởi lời chào mẹ anh.
— Tạm biệt Julien.
Đối với Chabot, cú điện thoại này là một biến cố và chốc nữa khi dạo qua các phố. Julien Chabot sẽ ngẫm nghĩ tự hỏi tại sao Maigret lại quan tâm đến ông Bộ trưởng Bộ Công chính đến như vậy.
Trong thời gian này Point cũng đang dùng điểm tâm. Ông vẫn thấy chút dư vị của rượu còn lại trong miệng và khi ra khỏi nhà, ông quyết định đi bộ rồi ghé vào quán rượu ở Quảng trường Cộng hoà uống một ly rượu trắng. Trái với thói quen thường ngày, ông mua tất cả báo buổi sáng và đến cơ quan đúng vào giờ báo cáo giao ban. Còn Maigret đến cơ quan và ông vẫn giữ thái độ im lặng cùng với những đồng nghiệp của ông, tập trung trong phòng thủ trưởng. Ông chỉ nghe chữ được chữ mất và nhìn mông lung ra sông Seine, nhìn khách qua lại trên cầu thánh Michel. Ông là người nán lại phòng thủ trưởng sau cùng. Thủ trưởng ông biết ý, như vậy chắc là Maigret muốn báo cáo.
— Có chuyện gì thế Maigret?
— Gặp tai hoạ rồi! - Maigret trả lời.
— Trong công tác ư?
— Không, chưa bao giờ Paris yên tĩnh như năm ngày qua. Chỉ có việc là từ tối hôm qua một vị Bộ trưởng gọi đích danh tôi để nhờ tôi lo giúp một việc mà tôi chẳng ưa thích gì. Tôi nhận vì chẳng biết cách nào khác. Tôi đã nói với ông ấy sẽ báo cáo lại với ông nhưng không nói chi tiết.
— Một việc đáng chán lắm phải không?
— Vâng! Rất đáng chán.
— Có liên quan đến thảm hoạ Clairfond phải không Maigret?
— Vâng.
— Chính ông Bộ trưởng với tư cách cá nhân nhờ anh à?
— Thủ tướng cũng biết chuyện này đấy.
— Tôi không muốn biết thêm nữa đâu. Đã thế thì phải tiến hành đi thôi, anh bạn ạ. Hãy cẩn thận nhé!
— Tôi sẽ cố gắng.
— Anh cần thêm người chứ?
— Ba hoặc bốn người. Họ cũng sẽ chẳng được biết chính xác sự vụ đâu.
— Tại sao họ không nhờ Ban An ninh Quốc gia nhỉ?
— Ông không hiểu ư?
— Có chứ, chính thế mà tôi lo cho anh đấy.
Maigret trở lại phòng làm việc, mở cửa phòng các điều tra viên.
— Janvier, cậu qua đây một tí nhé.
Rồi khi thấy Lapoint chuẩn bị đi, Maigret nói:
— Cậu có việc gì quan trọng phải đi hả?
— Không, thưa thủ trưởng, chỉ là chuyện thường ngày thôi.
— Cậu giao việc lại cho người khác và đợi mình nhé, Lucas cậu cũng thế nhé.
Về lại phòng với Janvier ông khép cửa:
— Anh bạn này, tôi sắp phải giao cho anh một nhiệm vụ rất nặng nề đấy. Không phải làm tờ trình mà cũng chẳng phải báo cáo với ai khác ngoài tôi ra. Nếu cậu phạm sai sót, cậu phải trả giá đắt đấy.
Janvier cười vì được giao một nhiệm vụ tế nhị.
— Bộ trưởng Bộ Công chính có một cô thư ký tên là Blanche Lamotte khoảng bốn mươi ba tuổi.
Janvier rút cuốn sổ tay ra khỏi túi.
— Tôi không biết cô ấy ở đâu và cũng không biết cô ta làm việc giờ giấc thế nào. Tôi cần biết mọi hành vi cử chỉ, cách sống của cô ta ngoài văn phòng Bộ và những người cô ta quen biết và hay lui tới. Tuy nhiên không được để cô ta và bất cứ ai biết có cảnh sát hình sự đang để ý đến. Có lẽ, vào buổi trưa cứ canh chừng lúc nhân viên nghỉ việc, cậu sẽ biết được cô ta ăn trưa ở đâu? Cậu cố thu xếp cho ổn thoả. Nếu cô ta nhận ra việc cậu quan tâm đến cô ta thì khi cần cậu cứ đóng vai kẻ si tình đi.
Janvier đã có vợ và vừa có đứa con thứ tư. Anh nhăn mặt:
— Vâng, thưa thủ trưởng. Tôi sẽ cố gắng hết sức. Thế thì không có một việc gì cụ thể tôi cần phải phát hiện cả ư?
— Không. Biết được gì cậu cứ báo cáo cho tôi. Rồi tôi sẽ xem thử những gì có thể dùng được.
— Khẩn trương chứ thủ trưởng?
— Rất khẩn trương đấy. Cậu không được nói với ai thậm chí cả Lapoint hoặc Lucas. Cậu hiểu chứ?
Maigret lại một lần nữa đến cửa thông qua phòng bên cạnh.
— Lapoint cậu ra đây!
Mọi người đều gọi là “bé Lapoint” vì cậu ta là lính mới và cậu có dáng dấp một sinh viên hơn là cảnh sát. Lapoint đã hiểu rằng đây là một công tác chỉ giao cho những người tin cậy và anh rất cảm động.
— Cậu biết Trường Đại học Cầu cống chứ?
— Vâng, ở đường Saint Pères. Có thời khá lâu tôi ăn sáng ở một tiệm ăn nhỏ gần như ngay trước mặt trường.
— Ở đấy có một giám thị tên là Piquemal, cũng gọi là Jules như tôi. Không biết anh ta có ở ngay trong trường hay không. Tôi chưa biết gì về anh ta cả và giờ đây tôi muốn biết càng nhiều càng tốt.
Maigret cũng nhắc lại một số điều gần như đã nói với Janvier.
— Theo như người ta tả, không rõ tại sao tôi lại có cảm tưởng như anh ta còn độc thân. Có thể anh ta thuê phòng có sẵn đồ đạc luôn chăng? Nếu vậy cậu cứ thuê một phòng ở cùng khách sạn và để cho họ tin cậu là sinh viên.
Sau cùng đến lượt Lucas cũng mấy lời tương tự. Điều khác là Lucas được giao phụ trách Jacques Fleury, chánh văn phòng của Bộ trưởng.
Cả ba người đều hiếm khi có hình trên báo. Nhiều người vẫn chưa biết đến tên họ. Nói chính xác hơn chỉ có tên Lucas được biết đến thôi.
Dĩ nhiên, nếu Ban An ninh Quốc gia lo đến việc này thì họ sẽ nhận ra cả ba người ngay. Nhưng không còn cách nào khác nữa. Nếu đúng Ban An ninh xông vào việc này thì những cuộc nói chuyện bằng điện thoại từ nhà hay từ cơ quan đều bị họ nghe trộm cả. Đêm trước có kẻ đã tự do chiếu đèn vào người ông y như pha đèn thoải mái đi trong đêm sương vậy. Nếu kẻ ấy biết được chỗ ẩn của Bộ trưởng chắc hẳn sẽ biết ông ấy đang ở trong đó và có thể nhận ra người khách mà Bộ trưởng tiếp là Maigret ngay từ phút đầu.
Còn lại trong phòng một mình, ông mở cửa sổ. Như thể vì phải lo liệu công việc này làm ông thèm chút không khí trong lành. Mấy tờ báo nằm trên bàn. Ông định mở xem nhưng ông lại thích lo giải quyết mấy công việc thường ngày, ký các báo cáo, các trát đòi cho xong đã. Làm những việc này khiến ông gần như có phần ưu ái mấy tên trộm vặt, bọn lưu manh, lừa đảo đủ loại đủ kiểu mà thường ngày ông phải lo.
Ông gọi điện thoại rồi trở lại chỗ mấy điều tra viên và dặn dò họ những điều chẳng liên quan gì đến Point và Bản phúc trình Calame quỷ quái. Vào giờ này chắc Point đã đến chỗ Thủ tướng. Không biết ông ấy có chịu kể hết mọi chuyện cho vợ nghe như ông đã khuyên hay không.
Trời dịu mát hơn ông tưởng và ông lại phải đóng cửa. Ông ngồi vào ghế bành giở tờ đầu tiên trong chồng báo. Báo chí vẫn viết về vụ thảm hoạ ở Clairfond. Cho dù thuộc phe phái chính trị nào đi nữa, các báo cũng theo dư luận chung và yêu cầu ầm ĩ đòi phải tiến hành điều tra. Đa số các báo nhắm trước hết đến Arthur Nicoud, một bài báo mang dòng tít lớn: “Nicoud Sauvegrain hãng thầu độc quyền”. Bài báo công bố bảng liệt kê các công trình nhà nước và một số hợp đồng địa phương giao cho hãng Nicoud Sauvegrain thực hiện. Từng cột ghi số kinh phí của các công trình và tính tổng cộng lên đến hàng tỷ bạc.
Ở phần kết bài báo viết:
“... Hẳn sẽ thú vị lắm khi lập nên danh sách các nhân vật có chức trách, các vị Bộ trưởng, dân biểu, nghị sĩ, ủy viên Hội đồng Thành phố Paris và nhiều nơi khác đã từng là khách của Nicoud ở dinh cơ riêng của ông ta tại Samois. Có thể việc nghiên cứu kỹ các phiếu tồn căn (lưu chiểu) các ngân phiếu của Nicoud sẽ giúp ta phát hiện được điều gì chăng?”
Có tờ báo duy nhất, tờ Địa cầu do dân biểu Mascoulin ủng hộ và gần như là chủ nhiệm, có một tiêu đề theo kiểu bài báo nổi tiếng Tôi tố cáo của Zola[5]: “Sự thật có phải là?"
... Sự thật có phải là ý tưởng xây dựng nhà an dưỡng Clairfond được phát sinh trong tâm tưởng của các nhà lập pháp không phải vì lo lắng đến sức khoẻ của trẻ em mà lại được hình thành trong ý nghĩ của một tay buôn bê tông?
Sự thật có phải là tư tưởng ấy cách đây mấy năm đã được truyền cho một số quan chức cao cấp trong những bữa tiệc thịnh soạn của tay buôn bê tông trong dinh cơ riêng của Samois?
Sự thật có phải là ở đó không những chỉ có rượu ngon và cao lương mỹ vị mà mỗi khi ra khỏi phòng của nhà buôn các khách mời thường có thêm một ngân phiếu nằm trong túi?
Sự thật có phải là khi dự án đã hình thành, tất cả mọi người đều đã biết địa điểm được chọn để xây dựng nhà nghỉ và đã hiểu ngay sự điên rồ và nguy hiểm của công việc?
Sự thật có phải là ủy ban tư vấn của Quốc hội do người anh của Thủ tướng hiện nay đứng đầu thấy cần phải nhờ đến ý kiến của một chuyên gia nổi tiếng?
Sự thật có phải là chuyên gia Julien Calame, vị giáo sư về cơ học ứng dụng và kiến trúc dân dụng ở Trường Đại học Cầu cống đã đem đồ án đến xem xét tận nơi trong ba tuần...
... Và khi trở về đã giao cho người có trách nhiệm một bản tường trình, bản tường trình này sẽ gây tai hoạ lớn cho những kẻ ủng hộ đề án xây dựng?
... Nhưng kinh phí xây dựng vẫn được thông qua và sau đó hai tuần thì người ta bắt đầu khởi công?
Sự thật có phải là cho đến lúc qua đời cách đây hai năm theo ý kiến của những người thân. Julien Calame sống với nỗi ám ảnh như có điều gì đè nặng lương tâm mình?
Sự thật có phải là trong bản phúc trình, Julien Calame đã tiên đoán tai họa sẽ xảy ra gần đúng như thực tế sau này?
Sự thật có phải là bản phúc trình hẳn có nhiều hơn để biến mất khỏi hồ sơ lưu trữ của Quốc hội cũng như của các bộ hữu quan.
Sự thật có phải là ít nhất cũng có chừng ba chục người đang nắm chức tước trong tay sống trong nỗi lo âu từ lúc xảy ra thảm hoạ nếu người ta tìm ra bản sao của phúc trình?
Sự thật có phải là dù đã có nhiều biện pháp ngăn ngừa, người ta vừa mới tìm ra bản sao đó trong thời gian rất gần đây?... Và bản sao được tìm thấy như nhờ phép lạ ấy đã được gửi đến tay người có trách nhiệm?
Ngay giữa trang, một hàng chữ lớn.
Chúng tôi muốn biết!
Có phải Bản phúc trình Calame vẫn ở trong tay người nhận không? Phải chăng nó đã bị thủ tiêu để cứu nhóm chính khách bị liên lụy? Nếu không phải như thế thì bản phúc trình đang ở đâu trong lúc chúng tôi viết những dòng này và tại sao người ta chưa chịu công bố để dư luận chính thức yêu cầu nghiêm trị những kẻ chịu trách nhiệm về một thảm hoạ đã làm thiệt mạng một trăm tám mươi hai trẻ em Pháp.
Sau hết, cuối trang cũng cùng một khổ chữ với hai tiêu đề sau: Bản phúc trình Calame ở đâu?
Maigret ngạc nhiên thấy mình đang lau mồ hôi trán. Thật cũng chẳng khó khăn gì mà không hình dung được phản ứng của Point khi đọc bài báo này.
Báo Địa cầu không có nhiều độc giả. Báo có khuynh hướng chính trị rõ. Nó không đại diện cho một đảng phái nào lớn mà chỉ đại diện cho một nhóm không đông lắm do Joseph Mascoulin đứng đầu.
Cáo báo khác cũng sắp sửa tiến hành điều tra theo hướng riêng của mình để tìm ra sự thật về vụ Clairfond. Maigret cũng thế. Ông mong muốn tìm ra được sự thật của vụ này với điều kiện là phải phanh phui ra hết toàn bộ sự thật.
Nhưng ông có cảm giác rằng không phải người ta muốn thế. Chẳng hạn như Mascoulin hiện đang giữ bản phúc trình trong tay thì thay vì đặt câu hỏi tại sao ông ta lại không công bố nó cũng bằng những hàng chữ nét lớn như bài báo. Chỉ ra một đòn ấy thôi, Mascoulin sẽ tạo nên khủng hoảng nội các, thanh trừ tận gốc hàng ngũ Quốc hội và ông ta sẽ xuất hiện trước công chúng như là một người bảo vệ quyền lợi chung và đạo đức của chính trường.
Đối với ông ta, người luôn luôn hoạt động sau hậu trường, đây là cơ hội có một không hai để đề cập đến vấn đề mang tính thời sự nóng hổi nhất và chắc chắn trong vài năm đến ông ta sẽ có một vai trò đầy uy thế. Nếu ông ta có tài liệu ấy, tại sao ông ta không công bố? Đến lượt Maigret cũng đặt câu hỏi như trong bài báo. Nếu Mascoulin không có, tại sao ông ta biết được là đã tìm ra bản phúc trình? Làm thế nào ông ta biết được rằng Piquemal đã giao bản phúc trình cho một nhân vật của chính phủ? Và làm thế nào mà ông ta lại có thể ngờ rằng Point không trình tài liệu cho cấp trên?
Maigret không hề hay biết và ông cũng không muốn về những mưu mẹo chính trị. Tuy nhiên chẳng cần phải rành những trò bịp bợm được tính toán kỹ sau hậu trường chính trị ông cũng có thể nhận ra mấy điều cần lưu ý.
• Từ khi vụ Clairfond xảy ra, trong một tờ báo địa phương, nếu không gọi là loại báo tống tiền như tờ Tin đồn của Hector Tabard, người ta nói đến Bản phúc trình Calame đã ba lần.
• Tiếp theo các bài báo ấy thì người ta phát hiện nhân viên của Trường Đại học Cầu cống đã trực tiếp đến văn phòng Bộ trưởng thay vì phải qua đường hành chính mà trong trường hợp này là qua ông hiệu trưởng.
• Joseph Mascoulin biết việc này. Và dường như ông ta biết bản phúc trình đã mất, phải chăng Mascoulin và Tabard đang cùng ở trong cuộc? Có phải hai người này cũng hành động hay không?
Maigret lại đến mở cửa sổ một lần nữa. Ông đứng hút thuốc và ngắm nhìn bến sông Seine khá lâu, chưa bao giờ Maigret phải lo một việc rối rắm như thế này mà trong tay ông lại quá ít dữ kiện đến thế.
Nếu như đây là một vụ giết người hay trộm cắp thì quả đúng là nghề của ông. Nhưng đây là trường hợp ngược lại là chuyện của những người mà ông chỉ biết mù mờ tên tuổi qua báo chí.
Như Mascoulin chẳng hạn, ông biết Mascoulin thường ngày quen dùng bữa cơm ở một bàn dành riêng trong tiệm ăn ở quảng trường Chiến thắng, tiệm Filet de Sole, ở đó lúc nào cũng có người đến chào ông ta hay thì thào báo cáo tin tức.
Mascoulin được xem như là người thông thạo về đời riêng của tất cả các chính khách, cứ vào hôm trước buổi họp biểu quyết một vấn đề quan trọng nào đó thì tên Mascoulin lại xuất hiện trên mặt báo và người ta đọc thấy: “Dân biểu Mascoulin tiên đoán dự án sẽ được thông qua với bốn trăm ba mươi hai phiếu thuận”.
Người trong giới xem những lời tiên đoán này như lời Kinh thánh vì hiếm khi Mascoulin lầm và nếu lầm cũng chỉ sai biệt chừng hai, ba phiếu. Mascoulin không ở trong một ủy ban nào và cũng chẳng đứng đầu một hội đồng nào nhưng người ta sợ ông ta hơn sợ vị lãnh tụ của một đảng lớn.
Maigret mong trưa nay đến được quán Filet de Sole, để dùng bữa và dù chỉ để quan sát gần hơn nhân vật mà ông chỉ thoạt thấy trong những dịp lễ lạt chính thức, Mascoulin sống độc thân dù đã quá tứ tuần. Không nghe ai nói đến việc ông ta có tình nhân. Cũng không ai gặp ông ta trong những buổi hội họp vui chơi hay trong những nhà hát, những hộp đêm. Mascoulin có bộ mặt xương xương. Đôi má ông ta, cứ từ buổi trưa trở đi thì dường như không được nhẵn nhụi nữa, Mascoulin ăn mặc xoàng xĩnh. Nói đúng hơn ông ta không chú ý đến những bộ áo quần không bao giờ được là ủi và có vẻ không được sạch sẽ lắm của ông ta.
Khi dựa vào lời của Point tả về Piquemal không rõ tại sao Maigret lại tự nhủ rằng Mascoulin cũng cùng một loại thế cả. Ông ngờ vực những kẻ cô đơn, những người không có một đam mê gì trong cuộc sống.
Rốt cuộc Maigret không đến dùng bữa tại Filet de Sole bởi vì làm thế trông giống như lời tuyên chiến. Ông đến quán Dauphine, ở đó ông gặp hai ông bạn đồng nghiệp và trong hai giờ đồng hồ ông có thể tán chuyện với họ và khỏi phải đả động gì đến vụ Bản phúc trình Calame.
Một tờ báo buổi chiều sử dụng một phần chủ đề của báo Địa cầu nhưng khôn khéo hơn và bằng những câu nói bóng gió chỉ đòi biết rõ sự thật về Bản phúc trình Calame. Một biên tập viên đã cố phỏng vấn Thủ tướng về vấn đề này nhưng không thể tiến gần đến Thủ tướng được. Người ta không nói gì đến Point vì trong thực tế việc xây dựng nhà nghỉ thuộc Bộ y tế.
Vào ba giờ chiều thì có người gõ cửa phòng Maigret, ông càu nhàu mấy tiếng rồi mở cửa, Lapoint vào với vẻ mặt bận rộn:
— Có tin mới chứ?
— Không có gì rõ ràng lắm, thưa thủ trưởng cho đến giờ thì có thể xem đây là chuyện cầu may cả thôi.
— Cậu kể chi tiết thử xem!
— Tôi đã cố gắng theo lời thủ trưởng chỉ dẫn. Thủ trưởng xem thử tôi có phạm sai lầm gì không nhé. Trước hết, tôi gọi điện cho Trường Đại học Cầu cống và nói là anh em bà con của Piquemal mới đến Paris nay cần gặp Piquemal nhưng không biết địa chỉ.
— Họ cho địa chỉ chứ?
— Họ cho ngay không chút do dự. Piquemal ở khách sạn Berry đường Jacob. Đó là một toà nhà không lớn lắm có những ba chục phòng. Bà chủ khách sạn cũng tham gia chuyện dọn dẹp phòng còn ông chủ thì phụ trách luôn việc đón tiếp, thanh toán tiền trọ. Tôi về lại nhà kiếm một chiếc vali để đến đó, làm ra vẻ một sinh viên như thủ trưởng đã dặn. Tôi gặp may nên thuê ngay được phòng và thuê luôn một tuần. Chừng mười giờ rưỡi tôi xuống nhà dưới, đến chỗ quầy và nói chuyện với ông chủ khách sạn.
— Cậu nói chuyện về Piquemal phải không?
— Vâng. Tôi nói với ông chủ khách sạn rằng tôi quen Piquemal trong kỳ nghỉ và tôi nhớ ra rằng Piquemal đang trọ ở đây.
— Lão chủ có nói điều gì với cậu không?
— Ông ấy nói rằng Piquemal đã đi rồi. Buổi sáng cứ vào tám giờ thì Piquemal đi khỏi khách sạn đến một quán nhỏ ở góc đường để uống cà phê và ăn sáng. Đúng tám giờ ba mươi phút anh ta phải có mặt ở trường.
— Ban ngày anh ta có trở về khách sạn không?
— Không. Anh ta thường về lúc bảy giờ rưỡi tối. Anh ta lên phòng và hàng tuần chỉ đi chơi một hai tối. Có lẽ đó là chàng thanh niên điều độ khuôn phép nhất thế giới. Không tiếp ai hết, không gặp phụ nữ, không hút thuốc, không rượu chè. Buổi tối chỉ việc đọc sách và có hôm đọc sách đến khuya.
Maigret có cảm giác Lapoint còn biết nhiều chi tiết nữa nên kiên trì chờ đợi.
— Có thể tôi phạm sai lầm gì đó chăng nhưng tôi nghĩ là đã tiến hành tốt công việc. Khi hay tin Piquemal ở cùng tầng lầu với phòng tôi và biết được số phòng, tôi nghĩ rằng ông sẽ thích thú muốn biết có những gì trong phòng. Ban ngày ở khách sạn hầu như không có ai, ở tầng lầu ba có người đang chơi kèn saxophone - chắc là một nhạc công đang tập và tôi nghe thấy tiếng cô hầu phòng ở tầng trên đầu mình. Tôi tra cầu may chìa khoá của tôi vào ổ, nhưng ổ khoá ấy đều thuộc loại cổ lỗ sĩ cả. Tôi không mở được ngay nhưng loay hoay rồi cũng mở được.
— Hy vọng là không có Piquemal ở nhà chứ?
— Không. Nếu người ta tìm dấu tay thì sẽ thấy dấu tay tôi khắp nơi vì tôi không có găng tay. Tôi mở ngăn kéo, mở cả một vali không khoá đặt trong góc. Piquemal chỉ có một bộ đồ màu xám đậm và thêm một đôi giầy đen để thay đổi. Cái lược anh ta dùng bị gãy răng cả. Bàn chải đánh răng cũng mòn rồi. Anh ta không dùng xà phòng bình và dùng chổi quét xà phòng thường để cạo mặt. Ông chủ khách sạn quả không lầm khi bảo rằng ban đêm Piquemal chỉ việc đọc sách. Mấy góc phòng chứa toàn sách. Nhiều nhất là các tác phẩm triết học, kinh tế chính trị và hóa học. Đa số là sách mua lại ở các quầy sách cũ ở bờ sông. Có ba, bốn cuốn mang dấu thư viện công cộng. Tôi có ghi lại tên một số tác giả: Engels, Spinoza[6], Kierkegaard[7], Saint Augustin[8], Karl Marx, Cha Père Sertillange[9], Saint Simon[10], mấy tên ấy có giúp ông rõ thêm điều gì không?
— Có đấy, tiếp tục đi.
— Trong một ngăn kéo có một hộp bìa cứng. Hộp chứa những thẻ hội viên cũ và mới từ hai mươi năm nay. Cũ nhất là thẻ hội viên Hội chữ thập lửa[11], có một thẻ khác từ năm 1937 là thẻ gia nhập Tổ chức Hành động Pháp[12]. Ngay sau chiến tranh Piquemal có tham gia vào một ban của Đảng cộng sản. Tấm thẻ ấy được chứng thực lại trong ba năm.
Lapoint xem lại phần đã ghi:
— Piquemal cũng tham gia vào Liên đoàn quốc tế thông tin học có trụ sở đóng tại Thụy Sĩ. Ông biết tổ chức ấy chứ?
— Vâng.
— Tôi quên nói ông rõ. Anh ta có hai cuốn sách nghiên cứu yoga và ngay bên cạnh là sách hướng dẫn tập nhu đạo.
Nói tóm lại Piquemal đã thử hết mọi thứ tôn giáo, và lý thuyết chính trị xã hội. Anh ta thuộc loại người ta thường thấy có cái nhìn đăm đăm, đi sau băng cờ trong đoàn biểu tình.
— Cậu báo cáo hết rồi chứ?
— Vâng, trong phòng thế là hết. Không có thư từ gì. Khi xuống nhà dưới tôi hỏi ông chủ anh ta có khi nào nhận thư gì không thì ông ấy trả lời rằng ông thấy chỉ có toàn giấy quảng cáo và giấy báo trả tiền. Tôi đến quán rượu ở góc phố. Thật rủi ro, lúc ấy khách đang uống khai vị. Ở quầy đông người quá. Tôi phải đợi hơi lâu và uống cạn hai ly rượu mới có thể chuyện trò với chủ quán mà không bị nghi ngờ gì. Tôi cũng chơi trò trí trá bảo rằng tôi ở tỉnh lên đây và cần gặp Piquemal gấp.
“Gặp ông giáo sư ấy à?" - Chủ quán hỏi tôi. Thế mới biết rằng ở một đôi nơi Piquemal tự xưng là giáo sư.
“Ông đến đây lúc tám giờ thì hay quá... Bây giờ thì chắc ông ta đang lên lớp... Tôi cũng không rõ ông ta ăn cơm trưa ở đâu."
“Thế sáng nay ông ấy có đến đây không?"
“Có đấy, ông ấy đến, đứng chống cằm gần thúng bánh như mọi khi. Lúc nào ông cũng ăn ba cái. Sáng nay cũng thế dù có một ông nào đó tôi không biết rõ đã đến đây từ trước, đến bắt chuyện với ông ấy. Thường ngày thì ông Piquemal không phải là người vui chuyện. Hẳn ông ta có nhiều điều phải suy nghĩ nên không phí thì giờ chuyện trò vớ vẩn. Ông ấy lịch sự nhưng khá lạnh lùng, ông hiểu thế không? Xin chào! Bao nhiêu? Thôi chào nhé! Chuyện ấy chẳng làm tôi bực mình đâu vì tôi còn có nhiều khách khác cũng làm việc trí óc như ông ấy và tôi cũng hiểu được công việc của họ. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy ông Piquemal ra đi với ông khách lạ ấy và thay vì rẽ qua trái như mọi sáng thì họ lại rẽ phải."
— Thế người ta tả rõ ông khách chứ?
— Không rõ ràng lắm. Một người đàn ông chừng bốn mươi, có vẻ như là viên chức hay một kẻ chào hàng. Trước tám giờ một chút, ông ta bước vào quán. Ông ta không nói năng gì, đứng ở cuối quầy và gọi một ly cà phê pha rượu. Ông ta không có râu, dáng người vạm vỡ.
Maigret không thể không nghĩ rằng đó chính là khổ người của khoảng mấy tá điều tra viên Ban An ninh Quốc gia.
— Cậu biết thêm chuyện gì không?
— Sau bữa ăn trưa tôi lại gọi điện đến Trường Đại học Cầu cống. Tôi xin nói chuyện với Piquemal lần này tôi không nói tôi là ai cả và họ cũng chẳng hỏi han gì: họ chỉ trả lời rằng không trông thấy Piquemal.
— Piquemal nghỉ phép ư?
— Không. Piquemal không đến làm việc, chỉ có thế thôi. Đáng ngạc nhiên hơn là ông ta không gọi điện để báo. Lần đầu tiên có việc như thế... Tôi quay lại khách sạn Berry và lên phòng. Sau đó tôi gõ cửa phòng. Tôi mở cửa, chẳng có ai cả, chẳng có gì thay đổi, xáo trộn từ lúc tôi vào phòng lần đầu.
Thủ trưởng đã muốn tôi nói đầy đủ chi tiết. Tôi đã đến trường và đóng vai bạn Piquemal, ở quê lên. Tôi đã hiểu được nơi anh ta dùng bữa trưa trong một quán ăn của mấy người Normands cách chỗ ở độ một trăm mét ở đường Saint Pères. Tôi đến đó. Hôm nay Piquemal không đến dùng bữa, tôi trông thấy khăn ăn của ông ta trong một chiếc vòng có đánh số và một chai nước khoáng đã khui để trên bàn thường ngày ông ta vẫn ngồi... Báo cáo hết, thưa thủ trưởng. Tôi có phạm sai lầm gì không?
Lapoint lo ngại nêu ra câu hỏi cuối cùng ấy vì thấy trán Maigret tối sầm lại và vẻ mặt trở nên đăm chiêu lo nghĩ. Phải chăng vụ này rồi cũng như vụ chính trị trước đây mà ông buộc phải lo liệu rồi lại bị thất sủng và phải đi Luçon.
Lần ấy cũng thế, chuyện xảy ra do sự ganh đua giữa Ban An ninh Quốc gia và Cảnh sát hình sự. Mỗi bên nhận sự chỉ đạo khác nhau vào lúc ấy, do việc đấu đá giữa các quan chức cấp cao, dù muốn dù không mỗi bên cũng phải bảo vệ những quyền lợi của phe đối nghịch nhau.
Giữa khuya Thủ tướng biết rằng Point nhờ Maigret giúp vào 3 giờ sáng, Piquemal, người tìm ra Bản phúc trình Calame đang yên lặng uống cà phê trong quán thì có người đến bắt chuyện và Piquemal đi theo người này mà không bàn cãi gì.
— Tốt đấy cậu nhỏ! - Maigret khen.
— Không có vấp váp gì chứ thủ trưởng?
— Tôi nghĩ là không.
— Bây giờ làm gì đây thủ trưởng?
— Tôi chưa rõ, có lẽ cậu nên lưu lại khách sạn Berry phòng trường hợp Piquemal lại xuất hiện.
— Trong trường hợp này tôi sẽ gọi điện cho thủ trưởng nhé?
— Vâng, gọi điện về đây hoặc về nhà.
Một trong hai người đọc được Bản phúc trình Calame đã mất tăm tích... chỉ còn lại Point, người cũng đã đọc được phúc trình, nhưng Point là Bộ trưởng và do vậy khó bị loại hơn.
Nghĩ đến điều ấy, Maigret lại cảm thấy trong miệng mình có dư vị của ly rượu mạnh đêm trước và ông muốn uống một cốc bia ở chỗ nào đó mà người ta có thể ngồi kề những con người bình thường chỉ biết lo liệu những chuyện vụn vặt thường ngày.