Chương 5 NỖI LO ÂU CỦA VỊ GIÁO SƯ
Trong máy là giọng của một người thức trắng đêm qua và cả nhiều đêm trước. Người này cũng không mất công chọn lựa lời lẽ nữa, vì đã qua giai đoạn phải lo ngại về những điều mà người ta nghĩ về mình. Giọng nói lừng chừng, không sức sống, không biểu lộ tình cảm gì. Ở người đàn ông, một giọng nói như thể có phần giống như tiếng khóc của người đàn bà:
— Maigret! Ông đến chỗ tôi ngay bây giờ có được không? Trong tình hình này, nếu cảm thấy không có gì phiền phức xin ông nên đến thẳng chỗ tôi. Tôi xin nói lại ở tiền sảnh có đông nhà báo lắm. Chuông điện thoại reo liên tục. Tôi đã hứa với họ sẽ họp báo vào lúc mười một giờ.
Maigret nhìn đồng hồ đeo tay:
— Tôi đến ngay đây.
Có người gõ cửa. Lapoint nhăn nhó bước vào khi Maigret còn cầm ống nghe trên tay:
— Có chuyện gì thế?
— Có tin mới đấy thủ trưởng!
— Quan trọng không?
— Tôi nghĩ là quan trọng đấy.
— Đội mũ vào và đi với tôi. Cậu sẽ báo cáo trên đường đi nhé!
Ông dừng lại một lát ở phòng trực ban để nhờ báo với thủ trưởng hôm nay ông không dự giao ban. Ra đến sân Maigret tiến đến chiếc ôtô con màu đen của cơ quan.
— Cậu cầm lái đi.
Khi xe đã lăn bánh. Ông nói:
— Kể nhanh đi!
— Đêm qua tôi ở khách sạn Berry, ở trong phòng đã thuê.
— Cậu có thấy Piquemal xuất hiện không?
— Không. Suốt cả đêm người của Ban An ninh canh chừng đường phố.
Maigret đã ngờ thế. Việc ấy cũng chẳng có gì đáng lo ngại cả.
— Tôi không muốn vào phòng Piquemal vì trời tối và như thế phải bật đèn. Dưới phố người ta sẽ trông thấy. Tôi chờ lúc tờ mờ sáng. Tôi vào xem xét đủ mọi thứ trong phòng và xem tỉ mỉ hơn lần đầu. Tôi cầm từng cuốn sách và lật từng trang một. Trong một cuốn sách kinh tế chính trị, tôi tìm thấy bức thư này kẹp vào giữa các trang sách như để làm dấu.
Lapoint cầm vô lăng một tay, tay kia lấy ví ở túi đưa cho Maigret.
— Ở ngăn bên trái đấy. Cái thư mang tiêu đề của Hạ viện Quốc hội.
Một tờ giấy khổ nhỏ như loại các dân biểu hạ viện hay dùng để viết những bức thư ngắn. Thư đề ngày thứ năm tuần trước. Chữ viết nhỏ, cẩu thả và chồng lên nhau. Những chữ cái ở cuối thư gần như không đọc được.
“Thưa ông!
Tôi xin cảm ơn ông đã cho biết tin. Tôi rất quan tâm đến những gì ông cho biết và tôi mong được gặp ông vào tám giờ tối mai tại quán Croissant đường Montmartre. Từ giờ đến lúc đó, xin ông đừng tiết lộ với ai về việc mà ông đang lo liệu.
Kính."
Không có chữ ký rõ ràng mà chỉ là một chữ ký tắt. Không thể đoán là chữ gì.
— Tôi đoán là của Joseph Mascoulin - Maigret nói lúng búng.
— Vâng. Đúng là của ông ta. Từ sớm tôi đã đến một bạn làm nghề tốc ký ở Quốc hội. Anh này biết hầu hết mặt chữ của các nghị sĩ dân biểu. Tôi chỉ cần đưa anh ta xem hàng chữ đầu và chữ ký tắt…
Họ đã đến đại lộ Saint Germain và đến trước Bộ Công chính. Maigret nhìn thấy có nhiều ôtô của giới báo chí. Ông lướt nhìn qua lề đường đối diện và không thấy người của Ban An ninh. Phải chăng giờ đây khi quả bom đã nổ tung ra, họ không cần phải canh chừng theo dõi nữa?
— Tôi đợi ông nhé?
— Vâng. Có lẽ thế tốt hơn.
Maigret bằng qua sân leo lên bậc cấp lớn, và bước vào một tiền sảnh trải thảm đỏ sậm ở hàng cột quét vôi vàng nhạt. Có nhiều người đang ở đây, vài ba nhà báo định tiến đến ông thì người trực ban đã đến trước.
— Mời ông cảnh sát trưởng đi lối này. Bộ trưởng đang đợi ông.
Trong văn phòng mờ mờ có thắp điện, Auguste Point đang đứng. Nhìn ở đây, Maigret thấy Point có vẻ to ngang và thấp hơn ở đường Pasteur, Point đưa tay cho Maigret. Ông ta giữ bàn tay của Maigret một lát với sự nài nỉ của một người vừa mới chịu đựng một khủng hoảng lớn nay tỏ lòng biết ơn sự thiện ý, dù đó là thiện ý nhỏ nhất của người khác.
— Xin cảm ơn ông đã đến, Maigret! Tôi đang tự trách mình đã kéo ông vào chuyện này. Ông thấy đấy! Tôi làm đúng đấy chứ.
Point quay lại phía một phụ nữ vừa mới nói chuyện qua điện thoại xong và đang buông máy xuống.
— Xin giới thiệu với ông, cô Blanche thư ký của tôi, người mà tôi có lần nhắc đến.
Cô Blanche nhìn Maigret với vẻ ngờ vực. Thấy rõ cô đang thủ thế. Cô không chìa tay ra mà chỉ khẽ gật đầu chào. Khuôn mặt Blanche không có gì đặc biệt nhưng dưới chiếc áo dài đen rất giản dị có lật ở cổ một giải đăng ten trắng, Maigret rất ngạc nhiên đoán được tấm thân còn trẻ, rất nở nang và vô cùng quyến rũ của Blanche.
— Nếu ông không thấy phiền, chúng ta sẽ vào chỗ riêng của gia đình tôi. Chẳng khi nào tôi thấy hợp với căn phòng này cả, ở đây tôi cứ thấy khó chịu thế nào ấy. Cô, cô trực liên lạc giúp tôi nhé!
— Vâng! Thưa ông Bộ trưởng.
Point mở một cánh cửa ở cuối phòng, nói nhỏ với giọng lừng chừng:
— Tôi đi trước nhé? Đường đi cũng khá rắc rối đấy.
Chính Point cũng chưa quen mấy với những hành lang vắng vẻ mà khi đi ngang qua những cánh cửa phòng có lúc ông tần ngần đứng lại. Cả hai đi đến một cầu thang hẹp hơn rồi băng qua hai căn phòng rộng và vắng vẻ. Thấy cô giúp việc mang tạp dề trắng cầm chổi đi ngang chứng tỏ họ đã qua khu vực làm việc và đến chỗ nhà ở rồi.
— Tôi muốn giới thiệu Fleury với ông. Lúc ấy ông ta đang ở phòng bên cạnh. Thế mà vào phút cuối lại quên mất.
Có tiếng phụ nữ, Point đẩy cánh cửa cuối và cả hai bước vào một phòng khách nhỏ hơn các phòng trước. Trong phòng một phụ nữ đang ngồi cạnh cửa sổ. Một thiếu nữ đứng cạnh bà.
— Đây là vợ và con gái tôi. Tôi nghĩ là cứ nói chuyện trước mặt vợ con tôi thì hay hơn.
Bà vợ Point có dáng dấp như bất kỳ bà thị dân đứng tuổi nào ta thường thấy đi mua sắm trên phố. Nét mặt bà tiều tuỵ, đôi mắt đờ đẫn.
— Trước hết tôi phải cảm ơn ông. Ông cảnh sát trưởng ạ. Chồng tôi đã kể mọi chuyện cho tôi nghe và tôi hiểu được rằng việc ông gặp chồng tôi đã giúp cho anh ấy nhiều lắm.
Trên bàn mấy tờ báo bày lộn xộn. Thấy rõ các nhan đề giật gân. Thoạt tiên Maigret không mấy chú ý đến cô thiếu nữ. Cô có vẻ bình tĩnh hơn, tự chủ hơn bố, mẹ.
— Ông dùng một tách cà phê nhé!
Cảnh tượng này có phần làm ông nghĩ đến cảnh một gia đình đang có tang. Nhịp sống thường ngày bỗng dưng bị đảo lộn. Người đến kẻ đi, nói năng làm việc này việc nọ mà không hiểu rõ thật sự phải làm gì và ngồi ở đâu cho tiện.
Ông vẫn mang áo khoác trên vai. Chính Anne Marie mời ông cởi áo và cô đến khoác vào lưng ghế.
Sau cùng, ông Bộ trưởng đang đứng mà vẫn hỏi Maigret:
— Ông đọc báo sáng nay rồi chứ?
— Tôi chỉ có thì giờ đọc tên các nhan đề thôi.
— Họ chưa nêu tên tôi nhưng trong giới báo chí mọi người đều biết rõ. Chắc họ nhận được tin vào nửa đêm. Tôi được một người quen làm thợ xếp chữ đường Croissant cho hay. Tôi điện thoại ngay cho Thủ tướng.
— Phản ứng của Thủ tướng ra sao?
— Tôi không biết rõ Thủ tướng có ngạc nhiên hay không. Tôi thấy mình không còn đủ khả năng để hiểu người khác nữa. Dĩ nhiên, tôi đã làm Thủ tướng phải mất giấc ngủ. Dường như Thủ tướng có đôi chút ngạc nhiên, nhưng qua điện thoại tôi thấy Thủ tướng không ngạc nhiên lắm như tôi tưởng.
Khi nói Point chỉ nhấp nháy đôi môi, không chút tin tưởng gì y như từ ngữ đối với ông chẳng quan trọng gì nữa.
— Xin mời ngồi, ông Maigret. Tôi xin lỗi phải đứng kể từ sáng nay tôi không thể ngồi được. Tôi phải đứng, phải đi tới, đi lui. Nếu không như thế, tôi cảm thấy bất an. Khi ông đến đây thì tôi bước quanh trong phòng cả giờ rồi trong khi cô thư ký trả lời điện thoại. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ?... Vâng. Thủ tướng đã nói với tôi đại loại như thế này:
“Anh bạn này, phải đối đầu với vụ bê bối này thôi”. Tôi nghĩ rằng đúng là lời lẽ của Thủ tướng.
Tôi đã hỏi có phải người Thủ tướng đã bắt giữ Piquemal không. Thay vì trả lời Thủ tướng nói nhỏ:
“Điều gì khiến ông nghĩ thế?”
Rồi Thủ tướng giải thích cho tôi hay rằng không chỉ với riêng tôi mà với Bộ trưởng nào cũng vậy, Thủ tướng không thể khẳng định chuyện gì đang xảy ra ở cấp dưới quyền ông. Và cứ thế ông nói, không dính dáng gì đến sư việc cả.
“Người ta buộc mình phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện,” - Thủ tướng nói - “mà không hiểu chúng ta chỉ là kẻ qua đường. Họ không hiểu rằng những người nhận lệnh của chúng ta biết rằng hôm qua họ có một Thủ tướng khác và ngày mai có thể có một Thủ tướng khác nữa...”
Tôi gợi ý:
“Cách tốt nhất cần làm là bắt đầu từ sáng mai tôi xin từ chức."
“Ông vội quá, Point. Ông làm tôi bị bất ngờ. Trong chính trị, công việc ít khi tiến triển như người ta dự đoán. Tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị của ông và tôi sẽ gọi điện lại cho ông đấy."
Tôi đoán Thủ tướng đã gọi điện thoại đến một số Bộ trưởng khác. Có thể họ có hội họp gì chăng? Tôi cũng không rõ nữa. Giờ đây họ không có lý do gì phải thông báo cho tôi. Nửa đêm còn lại, tôi cứ bước quanh trong phòng. Khi ấy thì nhà tôi cứ viện đủ lý lẽ để thuyết phục tôi.
Bà Point đang nhìn Maigret với vẻ như muốn nói: “Xin ông giúp tôi! Ông xem nhà tôi đã suy sụp ghê quá!”
Đúng vậy. Buổi tối ở đại lộ Pasteur, dưới mắt Maigret, Point là người mới chỉ lảo đảo sau khi nhận một cú đấm. Dù còn chưa rõ sẽ đương đầu như thế nào nhưng ông chưa bỏ cuộc. Bây giờ kể chuyện như thể các sự kiện chẳng liên quan gì đến ông. Y như số phận ông thế là đã định đoạt dứt điểm rồi và ông không muốn chiến đấu nữa.
— Thủ tướng đã gọi điện lại cho ông rồi chứ? - Maigret hỏi.
— Khoảng năm giờ ba mươi phút sáng. Ông biết đấy, đêm rồi chúng tôi thức trắng. Thủ tướng tuyên bố rằng việc tôi xin từ chức chẳng ích gì mà lại bị xem như là sự tự thú. Điều cần làm là tôi phải nói hết sự thật.
— Kẻ cả nói về nội dung Bản phúc trình Calame?
Point mỉm cười chua chát:
— Không. Không hẳn thế nên lúc tôi tưởng đã nói chuyện xong, thủ tướng nói thêm:
“Tôi nghĩ rằng người ta sẽ hỏi ông đã đọc bản phúc trình hay chưa đấy”.
Tôi trả lời:
“Thưa, đã."
“Đấy! Tôi hiểu là như thế! Đó là một bản phúc trình khá dày, có lắm chi tiết kỹ thuật về một đề tài mà dân luật học không cần thiết phải biết. Đúng hơn phải cho rằng ông đã đọc lướt qua thôi. Bây giờ ông lại không có bản phúc trình trong tay để hỗ trợ cho trí nhớ. Ông bạn này, điều tôi muốn nói với ông đây là để giúp ông tránh được những phiền phức rất lớn, lớn hơn là ông nghĩ đấy. Ông nói về nội dung bản phúc trình, cáo giác người ta - dù đó là ai, chuyện đó chẳng liên quan gì đến tôi và tôi cũng chẳng lo đâu - nhưng rồi người ta sẽ kết án ông đã tung ra những lời buộc tội mà không có chứng cớ. Ông có hiểu ý tôi không?"
Từ lúc bắt đầu đến giờ ít ra cũng đã ba lần Point châm lại tẩu thuốc. Vợ ông ta quay sang:
— Ông cứ hút đi. Tôi quen rồi.
— Từ bảy giờ sáng, chuông điện thoại bắt đầu reo. Chủ yếu là các nhà báo gọi. Họ muốn yêu cầu nói với tôi. Lúc đầu tôi trả lời rằng tôi không có gì để nói cả. Rồi thì tôi cảm thấy giọng họ trở nên có phần dọa dẫm. Rồi hai giám đốc nhật báo đích thân gọi điện cho tôi. Rốt cuộc tôi phải hẹn với mọi người sẽ họp báo tại văn phòng Bộ sáng nay từ mười một giờ... Tôi cần gặp ông trước, tôi nghĩ rằng...
Đúng là Point có can đảm, hoặc cũng có thể là vì hổ thẹn, sợ hãi hay có khi do mê tín nữa mà đợi đến bây giờ mới hỏi việc này.
— Tôi nghĩ rằng có thể ông có phát hiện được gì chăng?
Maigret rút bức thư trong túi ra và đưa cho Point, mà không nói một lời. Hẳn ông cố ý như thế để tăng thêm vẻ quan trọng cho việc mình làm và gây thêm chút tư tưởng cho ông bộ trưởng. Động tác có vẻ hơi kịch. Thường ngày ông không quen làm thế.
Bà vợ Point vẫn ngồi yên trên chiếc trường kỷ nhưng Anne Marie bước đến sau lưng Point và đọc qua vai mình.
— Của ai thế? - Cô hỏi.
Maigret lại hỏi Point.
— Ông nhận ra chữ của ai không?
— Nhìn thấy quen nhưng không rõ lắm.
— Thứ năm vừa rồi, chính Joseph Mascoulin gửi thư này.
— Gửi cho ai?
— Cho Piquemal.
Im lặng, Point không nói một lời, đưa lá thư cho vợ. Ai nấy đều đang cố lường cho hết tầm quan trọng của việc phát hiện ra bức thư này.
Đến khi Maigret cất giọng nói thì cũng y hệt như khi ở đại lộ Pasteur, ông đặt một loạt câu hỏi.
— Ông có quan hệ thế nào với Mascoulin?
— Không gì cả.
— Hai người có lần tranh luận lớn tiếng với nhau chăng?
— Không!
Point tỏ ra lo ngại khi thấy chuyện có vẻ nghiêm trọng. Dù rằng ông không bao giờ muốn dính vào chuyện chính trị, không phải ông không hiểu đôi chút về những lề thói sinh hoạt ở quốc hội. Nói chung, các dân biểu ở các đảng đối lập nhau, khi ở diễn đàn thì họ công kích nhau thậm chí rất ác liệt nhưng trong quan hệ vẫn giữ thân tình y như cùng sống trong một gia đình và đối xử với nhau như bạn học cùng trường hay lính cùng trại.
Maigret hỏi thêm:
— Ông không nói chuyện với ông ta à?
Point đưa tay lên trán:
— Chuyện này xảy ra cách đây đã mấy năm, lúc tôi mới bước vào quốc hội, một quốc hội hoàn toàn mới. Chắc ông còn nhớ, ở đấy người ta thề thốt sẽ không còn có bọn bịp bợm nữa. Khi ấy là thời sau chiến tranh và cả nước đang dâng lên cao trào lý tưởng chủ nghĩa. Người ta khát khao có sự trong sáng trong cuộc sống. Đa số đồng nghiệp của tôi hoặc ít ra là một bộ phận quan trọng trong số này cũng mới lần đầu vào quốc hội như tôi.
— Nhưng Mascoulin thì không.
— Vâng, vẫn còn một số người của quốc hội cũ. Tuy nhiên ai nấy đều tin rằng các dân biểu mới sẽ tạo nên không khí mới. Một vài tháng sau, tôi không còn hoàn toàn tin tưởng như thế nữa. Vài năm sau, tôi thật sự nản chí. Henriette bà còn nhớ chứ? - Ông quay lại bà vợ.
Bà này nói:
— Thực tình, chồng tôi đã quyết định không ra ứng cử tiếp.
— Trong một bữa tiệc tôi có tham gia phát biểu, tôi đã nói những gì mình tâm đắc và giới nhà báo có mặt ở đó đã ghi lấy lời tôi. Vào thời điểm này, người ta không dùng lại một phần bài nói của tôi thì tôi cũng ngạc nhiên đấy. Tôi nói về chuyện những bàn tay bẩn. Đại ý tôi giải thích rằng không phải chế độ chính trị của chúng ta có thiếu sót hay hư hỏng rồi mà chính là không khí chính trị quanh chúng ta.
Tôi không cần kể nhiều chuyện ấy. Ông còn nhớ một nhan đề nổi tiếng Nước cộng hoà của những người đồng chí, ngày nào ta cũng gặp nhau, bắt tay nhau như bạn lâu năm. Sau một vài tuần họp hành, mọi người cậu tớ với nhau và giúp nhau đủ thứ vặt vãnh. Ta bắt tay ngày càng nhiều hơn. Nếu những bàn tay này không được trong sạch, ta nhún vai với vẻ bao dung: “Chà! Cũng chẳng phải quân xấu xa gì lắm!" Hoặc là: “Phải làm thế đối với cử tri." Ông có hiểu tôi không? Tôi tuyên bố rằng nếu như mỗi chúng ta dứt khoát từ chối, không bắt tay những bàn tay dơ bẩn, những bàn tay của bọn lừa đảo, không khí chính trị sẽ trở nên lành mạnh hơn ngay.
Point dừng một tí rồi nói tiếp với vẻ chua chát:
— Tôi đã làm những gì tôi nói. Tôi tránh gặp một số nhà báo, số đầu cơ chính trị hay lui tới hành lang Quốc hội. Đối với một số cử tri có uy tín, tôi chỉ từ chối những việc ngoài nhiệm vụ của mình. Và một ngày nọ, ở cung tư pháp, Mascoulin đến gần tôi và chìa tay ra. Tôi giả vờ không nhìn thấy và không cần giấu giếm gì cứ xoay người về phía một đồng nghiệp. Tôi biết ông ta giận xanh mặt và không bao giờ ông ta chịu bỏ qua chuyện ấy. Ông ta thuộc loại người thù dai lắm.
— Thế ông cũng đối xử như thế với Hector Tabard, giám đốc báo Tin đồn ư?
— Hai ba lần gì đó tôi từ chối không tiếp ông ta và ông ta không nài nỉ nữa.
Point nhìn đồng hồ:
— Tôi còn một giờ nữa Maigret ạ. Mười một giờ tôi phải đối đầu với các nhà báo và trả lời các câu hỏi của họ. Tôi đã nghĩ đến việc cho phát một thông báo nhưng thế thì họ sẽ chẳng hài lòng. Tôi phải nói với họ rằng Piquemal đã đem Bản phúc trình Calame đến cho tôi. Tôi đem đến phòng mình ở đại lộ Pasteur để đọc.
— Và nói rằng ông không đọc bản phúc trình.
— Tôi sẽ cố nói chung chung hơn. Điều khó nhất, gần như không tài nào làm được là thuyết phục họ chấp nhận rằng tôi đã để bản phúc trình nổi tiếng ấy trong một căn phòng mà không ai canh chừng và rồi sáng hôm sau khi lấy để nộp cho Thủ tướng thì bản phúc trình không có cánh mà bay. Sẽ không ai tin tôi đâu. Chuyện Piquemal mất tăm tích chẳng làm sự việc bớt rắc rối mà ngược lại. Họ lại suy rằng bằng cách này hay cách khác tôi đã loại đi một nhân chứng phiền toái. Cách duy nhất cứu tôi thoát nạn là báo cho họ biết tên tay ăn trộm.
Point nói thêm với vẻ tạ lỗi về thái độ buồn giận của mình:
— Chỉ trong bốn mươi tám giờ đồng hồ, tôi không thể nào trông chờ chuyện ấy xảy ra được, cho dù là trông đợi ở ông. Theo ông thì giờ đây tôi nên làm gì?
Bà Point can thiệp ngay, nói dứt khoát:
— Từ chức và trở về Roche sur Yon, những người hiểu anh sẽ biết rằng anh không có tội. Còn những người khác, anh cần gì phải bận tâm. Anh có tin vào lương tâm mình không?
Maigret nhìn khuôn mặt của Marie. Ông thấy cô đang cắn môi. Ông hiểu rằng cô thiếu nữ này không thể nào đồng ý với mẹ được. Theo cô, việc ông bố rút lui như thế có nghĩa là mọi hy vọng của cô đều tan tành theo mây khói.
Point hơi bị lung lay tinh thần, ông hỏi nhỏ:
— Ý ông thế nào?
Quả là một trách nhiệm nặng nề mà Maigret không thể nào nhận lấy.
— Thế ý ông ra sao?
— Tôi có cảm tưởng rằng tôi phải đứng vững ít ra trong trường hợp còn có chút hi vọng tìm ra tên trộm.
Đây vẫn là một câu hỏi gián tiếp.
— Tôi vẫn hy vọng, hy vọng đến phút cuối - Maigret nói lẩm bẩm - Nếu không thế, tôi không bao giờ tiến hành điều tra. Vì không quen với chuyện chính trị, tôi đã mất thì giờ vào những khâu việc có thể xem là vô ích. Nhưng tôi chắc là cũng không phải vô ích đến thế.
Trước khi Point ra tiếp xúc với giới báo chí, nếu không tạo cho Point được niềm tin thì ít ra cùng phải làm cho Point vững tâm phần nào. Để được thế, Maigret bắt đầu làm một bản phân tích tình hình chi tiết hơn.
— Thưa ngài bộ trưởng. Ông xem đấy, chúng tôi đã bước vào lĩnh vực phù hợp hơn với nghề chúng tôi. Cho đến nay, về nguyên tắc, tôi phải làm việc mà không được để cho ai hay. Thế mà cũng không ngăn được việc trong quá trình điều tra, tôi đụng đầu với người của Ban An ninh. Ở cổng cơ quan Bộ, ở cửa nhà cô Blanche, ở phòng Piquemal hay trước nhà Fleury, nhân viên của tôi luôn thấy người của Ban An ninh đang canh chừng. Tôi cũng có lúc tự hỏi không biết họ tìm kiếm gì và phải chăng hai cơ quan cùng tiến hành điều tra cùng một vụ.
Bây giờ thì tôi nghĩ rằng họ chỉ muốn biết điều chúng tôi tìm. Đối tượng canh chừng của họ không phải là ông, không phải là Piquemal hay Fleury mà chính là tôi và nhân viên của tôi. Kể từ lúc việc Piquemal và bản phúc trình bị mất đã được chính thức công bố, việc điều tra tìm kiếm lại thuộc phạm vi trách nhiệm của cảnh sát hình sự và việc này xảy ra trên địa phận Paris. Người ta không thể biến đi đâu mà lại không để dấu vết. Rốt cuộc lại kẻ trộm nhất định cũng bị tóm cổ.
— Sớm hay muộn thôi! - Point thì thầm với nụ cười buồn.
Maigret đứng dậy nhìn thẳng vào đôi mắt Point nói:
— Và ông, ông phải đứng vững cho đến khi ấy.
— Điều ấy không chỉ tùy thuộc vào tôi.
— Chuyện ấy tùy thuộc chủ yếu vào ông.
— Nếu như chính Mascoulin đứng sau âm mưu này, ông ta sẽ chất vấn Chính phủ ngay thôi.
— Trừ phi ông ta lợi dụng những điều biết được để tăng thêm uy tín.
Point chăm chú nhìn Maigret với vẻ ngạc nhiên:
— Ông cũng biết chuyện à? Tôi cứ nghĩ ông không quan tâm đến chính trị.
— Chuyện như vậy không phải chỉ có trong chính trường. Còn có nhiều Mascoulin trong những giới khác nữa. Nếu tôi nói sai, ông cứ ngăn lại, nhưng tôi nghĩ rằng ông ta có một đam mê. Ông ta mê quyền hành. Nhưng ông ta là một con vật máu lạnh biết đợi thời cơ. Thỉnh thoảng ông ta gây tiếng vang ở Quốc hội hoặc trên báo chí bằng cách tiết lộ những chuyện xấu xa hay một vụ bê bối nào đó.
Point lắng nghe với sự hứng thú mới mẻ.
— Dần dà ông ta tạo nên tiếng của một hiệp sĩ bênh vực lẽ phải. Để rồi tất cả những kẻ cuồng tín, những kẻ hận đời, những người nổi loạn tìm đến ông ta khi họ khá hay nghĩ là khám phá được điều gì xấu xa nhơ nhuốc. Tôi cho rằng ông ta thường nhận cùng một loại thư từ như chúng ta khi có một tội ác nào đó chưa ai biết. Bọn điên rồ, loạn trí, bọn cuồng si thường viết thư cho chúng ta và cả những người thấy có dịp trả thù bà con, bạn cũ hay hàng xóm. Trong số ấy, dẫu sao cũng có những người tố giác đúng sự thật này và nếu thiếu những lời tố giác này khá nhiều tên sát nhân vẫn cứ sống ung dung tự tại.
Tên Piquemal cô độc đã tìm kiếm chân lý trong các đảng cực đoan, trong mọi thứ tôn giáo, trong mọi triết lý anh ta quả thực là loại người mà khi tìm ra được Bản phúc trình Calame, không phút nào có ý tưởng sẽ chuyển nó cho thủ trưởng trực tiếp mà anh ta không chút tin cậy. Anh ta xoay sang nhà hiệp sĩ chuyên nghiệp và tin tưởng rằng nhờ vậy bản phúc trình này sẽ thoát được âm mưu nào đó có Chúa mới biết được nhằm giữ kín bản phúc trình này.
— Thế tại sao Mascoulin không đem ra sử dụng bản phúc trình nếu như ông ta đang cất giữ nó?
— Chính vì điều mà tôi đã nói với ông rồi đấy. Từng kỳ một, ông ta cần tung ra một vụ bê bối để củng cố uy tín của mình. Tuy nhiên, những tờ báo tống tiền như tờ Tin đồn cũng không đăng hết mọi tin tức có được. Những sự vụ họ không đưa tin, lại đem lợi ích cho họ. Bản phúc trình Calame là một món quà lớn để họ có thể quăng ra cho mọi người. Nếu Mascoulin giữ bản phúc trình ông thử nghĩ xem có bao nhiêu người kể cả Arthur Nicoud ở trong điện phải chịu phó mặc cho ông ta thao túng?
— Nhiều lắm. Cả hàng chục người.
— Chúng ta chưa biết được Mascoulin có bao nhiêu vũ khí như loại Bản phúc trình Calame mà ông ta có thể sử dụng bất cứ lúc nào tùy thích và khi ông ta cảm thấy đã đủ mạnh. Những thứ ấy sẽ cho phép ông ta đạt được những mưu đồ của mình.
— Tôi đã nghĩ đến chuyện ấy - Point thú nhận - và đó chính là điều làm tôi kinh sợ. Nếu ông ta đang giữ bản phúc trình, bản phúc trình sẽ được cất giữ một nơi an toàn và thật khó mà tìm lại được. Vậy mà, nếu chúng ta không có hay không nêu ra được bằng chứng rõ ràng xác thực rằng người nào đã huỷ nó, danh dự tôi sẽ tan tành vì người ta sẽ kết án tôi đã làm mất nó.
Maigret trong thấy bà Point quay mặt đi che giọt nước mắt đang lăn trên má. Point cũng trông thấy. Ông mất bình tĩnh trong một chốc, trong khi Anne Marie kêu lên:
— Mẹ!
Bà Point lắc đầu như muốn nói rằng chẳng hề gì và bước nhanh ra khỏi phòng.
— Ông xem đấy! - Point nhìn vợ rồi im lặng. Cảnh ấy chẳng cần giải thích gì thêm.
Phải chăng Maigret đã lầm? Ông để mặc cho không khí đầy bi kịch này tác động đến ông chăng?
Ông tuyên bố như thể rất tự tin:
— Tôi không hứa với ông sẽ tìm lại được bản phúc trình nhưng tôi sẽ tóm cổ kẻ nào đã lẻn vào phòng ông để lấy cắp nó. Chuyện đó là nghề của tôi.
— Ông tin chắc chứ?
— Chắc chắn thế.
Maigret đứng dậy. Point nói thì thầm:
— Tôi đi với ông.
Và ông nói với con gái:
— Chạy đi nhắc lại với mẹ điều ông cảnh sát trưởng vừa nói với bố. Làm thế sẽ có ích cho mẹ đấy.
Họ đi ngược trở lại đến văn phòng của Point. Ngoài cô Blanche đang trả lời điện thoại trong văn phòng còn có một người dong dỏng cao, tóc lốm đốm hoa râm, đang xem xét thư từ.
— Xin giới thiệu với ông, Jacques Fleury, Chánh văn phòng của tôi... Đây là ông cảnh sát trưởng Maigret...
Maigret có cảm tưởng là đã gặp người đàn ông này ở một nơi nào đó, chắc là trong một tiệm ăn hay một quán rượu. Ông ta rất diện, ăn mặc với vẻ lịch sự tương phản với cách ăn mặc xuềnh xoàng của vị bộ trưởng. Thậm chí đó là kiểu người thường hay gặp ở những quán rượu sang trọng ở đại lộ Champs Élysées cạnh những phụ nữ xinh đẹp. Bàn tay ông ta khô, cái bắt tay thẳng thắn. Đứng xa trông ông ta có vẻ trẻ hơn, cứng hơn vì đứng gần người ta nhìn ra những vết nhăn mỏi mệt bên dưới đôi mắt và dáng mỏi mệt đến suy kiệt mà ông ta muốn giấu qua nụ cười đầy gượng gạo.
Point vừa chỉ tay ra tiền sảnh vừa hỏi Fleury:
— Họ có bao nhiêu người nhỉ?
— Cũng đến ba chục đấy. Phóng viên các báo nước ngoài cũng có ở đấy. Tôi không rõ có bao nhiêu phóng viên nhiếp ảnh nữa. Họ thì khi nào cũng có mặt cả.
Maigret và vị bộ trưởng nhìn nhau. Maigret nháy mắt, ánh mắt động viên ông bộ trưởng như muốn nói: “Vững vàng lên nhé!"
Point hỏi:
— Ông đi ra ngả tiền sảnh chứ?
— Ông sắp thông báo việc tôi sẽ điều tra vụ này nên chuyện ấy chẳng có gì là quan trọng nữa. Ngược lại nữa là khác.
Ông cảm thấy cô Blanche vẫn nhìn mình với cái nhìn ngờ vực mà ông chưa có thì giờ thuyết phục được. Dường như cô còn do dự chưa biết đánh giá ông thế nào cho phải. Dẫu sao có thể vẻ bình tĩnh của thủ trưởng cô cũng giúp cô nghĩ được rằng việc Maigret can thiệp vào thế này thực ra là điều tốt.
Khi Maigret đi qua tiền sảnh, các phóng viên nhiếp ảnh xông đến ông trước tiên. Ông cũng chẳng làm gì để tránh họ. Các phóng viên tường thuật hỏi ông tới tấp:
— Có phải ông đang lo vụ Bản phúc trình Calame?
Ông vừa cười vừa gạt họ ra:
— Vài phút nữa, ông bộ trưởng sẽ đích thân trả lời quý vị.
— Ông không phủ nhận chứ?
— Tôi không phủ nhận gì cả. Một số phóng viên theo ông xuống bậc cấp cẩm thạch với hy vọng sẽ ghi được một lời tuyên bố của ông. Ông cứ nhắc lại với họ.
— Xin hỏi ông bộ trưởng. - Một người hỏi - Ông có tin rằng Piquemal đã bị ám sát không?
Lần đầu tiên giả thiết này được hình thành rõ.
Một lát sau, sau khi bị chặn thêm mấy lần nữa Maigret ngồi vào trong xe. Lapoint đang ngồi tranh thủ đọc báo.
— Chúng ta đi đâu? Về cơ quan à?
— Không. Đến đại lộ Pasteur. Báo chí nói gì thế?
— Chủ yếu nói về việc Piquemal biến mất. Có một tờ tôi không còn nhớ tên, đã đến phỏng vấn bà Calame. Bà này vẫn ở căn hộ trước đây khi chồng bà còn sống ở đại lộ Raspail. Dường như đó là một phụ nữ nhỏ nhắn, vẻ quả quyết. Bà nói chuyện thẳng thắn và không né tránh các câu hỏi. Bà ta không đọc bản phúc trình nhưng nhớ rõ rằng cách đây đã năm năm chồng bà đã sống mấy tuần ở thượng Savoie. Lúc trở về chồng bà làm việc cùng căng lắm và thường thức khuya. Bà nói: “Chưa bao giờ chồng bà nhận nhiều cú điện thoại đến như thế. Hàng loạt người mà chúng tôi chẳng quen biết gì ùn ùn kéo đến gặp ông ấy. Chồng tôi lo ngại lắm. Khi tôi hỏi có việc gì làm ông lo lắng thế, ông bảo chính là công việc và trách nhiệm. Vào thời đó ông thường nói với tôi về trách nhiệm. Tôi có cảm giác rằng có chuyện gì đấy làm giết dần giết mòn ông ấy. Tôi biết chồng tôi có bệnh trước đó hơn một năm. Bác sĩ đã bảo ông bị ung thư. Tôi nhớ có hôm ông thở dài: ‘Trời ơi! Con người thật khó mà biết được đâu là nhiệm vụ của mình.'"
Hai người đi theo đường Vaugirard. Một chiếc xe buýt đang chạy phía trước buộc họ phải đi chậm.
Lapoint nói thêm:
— Chuyện ấy đăng một bài báo.
— Thế bà ta làm gì với số giấy má của chồng?
— Bà ta để lại đúng vị trí trong phòng. Bà thường xuyên chùi dọn phòng như khi ông ấy vẫn còn sống.
— Thời gian gần đây bà ấy có tiếp ai không?
— Có hai người - Lapoint đáp và nhìn thủ trưởng với vẻ thán phục.
— Piquemal phải không?
— Vâng. Đấy là người khách đầu tiên, cách đấy chừng một tuần.
— Bà ấy biết Piquemal chứ?
— Biết khá rõ. Thời giáo sư Calame còn sống, Piquemal thường đến xin ý kiến của giáo sư. Bà vợ cứ nghĩ rằng Piquemal nghiên cứu toán học. Anh ta giải thích rằng anh ta muốn tìm lại một công trình hồi trước đã gửi cho giáo sư.
— Anh ta tìm thấy không?
— Anh ta mang theo chiếc cặp và bà ấy để mặc Piquemal trong phòng chừng một giờ. Khi anh ta về bà hỏi nhưng anh ta trả lời rằng không tìm được và rủi ro cho anh ta là giấy tờ của anh ta đã bị thất lạc rồi. Bà Calame không nhìn vào cặp, bà chẳng ngờ vực gì cả. Chỉ đến ngày hôm sau nữa...
— Lần này ai đến thế?
— Một người đàn ông tuổi chừng bốn mươi. Ông này xưng là học trò cũ của giáo sư và hỏi bà có còn giữ hồ sơ tài liệu của giáo sư không. Ông này cũng nói đến những công trình mà hai người cùng làm chung.
— Và bà ta để cho ông này vào phòng chứ?
— Không. Bà thấy trùng hợp lạ kỳ quá nên trả lời rằng giấy tờ của chồng bà đều để ở trường cả.
— Bà ta có tả hình dạng ông này không?
— Báo không nói đến chuyện này. Nếu bà có tả, phóng viên tường thuật cũng giữ riêng biệt chuyện này và có lẽ đang tiến hành tìm hiểu tiếp.
— Cho xe đỗ dọc theo vỉa hè đi. Chỗ này này.
Ban ngày đại lộ Pasteur cũng yên tĩnh như ban đêm. Khung cảnh này rất an toàn với những người trong cuộc.
— Tôi đợi chứ?
— Cậu đi với tôi, có thể có việc làm đấy.
Cánh cửa kính của phòng người gác cổng ở phía trái hành lang. Gác cổng là một bà đã có tuổi, dáng vẻ nhã nhặn. Bà trông bộ khá mệt mỏi.
— Có chuyện gì thế? - Bà vẫn ngồi yên hỏi hai người. Một con mèo lông hung đỏ nhảy khỏi đầu gối bà và đến cọ mình vào chân Maigret.
Maigret nói tên mình, ông cẩn thận bỏ mũ ra và nói với giọng tôn kính:
— Ông Point giao cho tôi điều tra một vụ ăn trộm nhà ông cách đây hai hôm.
— Ăn trộm à? Trong nhà này ư? Thế mà ông ta chẳng báo gì với tôi cả ư?
— Ông ấy sẽ xác nhận điều này với bà khi ông ấy đến gặp bà. Nếu bà có gì nghi ngờ bà chỉ cần gọi điện cho ông ấy.
— Cũng chẳng cần. Vì ông là cảnh sát trưởng, tôi phải tin ông, phải thế không? Làm thế nào xảy ra chuyện ấy được nhỉ? Nhà thì vẫn yên tĩnh. Ba mươi lăm năm nay từ ngày tôi ở đây, cảnh sát chưa bao giờ đặt chân đến.
— Tôi xin bà nhớ lại giúp cho ngày thứ ba, đặc biệt vào buổi sáng hôm ấy.
— Thứ ba... xem nào... tức là ngày hôm kia...
— Vâng. Tối đêm hôm trước ấy, ông bộ trưởng có đến phòng.
— Chính ông ấy bảo ông thế ư?
— Không những chỉ nghe nói mà tôi còn gặp ông ấy ở đó nữa. Bà đã để cửa cho tôi mấy phút sau mười giờ tối.
— Vâng. Tôi nhớ ra rồi.
— Hẳn ông ấy về sau tôi một tí.
— Làm thế nào mà bà biết được thế.
— Khi ấy tôi đang ở trong cầu thang tầng năm lên tầng sáu.
— Lúc ấy mấy giờ?
— Có thể là mười giờ chăng? Có thể sớm hơn nữa. Chân cẳng tôi yếu nên không làm việc nhanh dược. Tôi nghe chuông điện thoại reo sau cánh cửa. Reo lâu lắm. Rồi sau đó mười lăm phút, khi tôi chùi dọn xong và đi xuống, người ta lại gọi điện nữa. Tôi đã càu nhàu: ai gọi mãi thế!
— Sau đó ra sao?
— Không có gì nữa.
— Bà lại vào phòng, phải không?
— Vâng để sửa soạn một tí.
— Bà không đi ra khỏi nhà ư?
— Sáng nào cũng thế, tôi đi khoảng mười lăm, hai mươi phút để mua thức ăn. Tiệm tạp hoá ở cạnh, quán bán thịt ở góc đường. Đứng ở tiệm tạp hoá, tôi thấy được người ra kẻ vào ngay. Khi nào tôi cũng trông chừng khu nhà cả.
— Và từ quán thịt thì sao?
— Tôi không quan sát được nhưng tôi không ở đó lâu. Tôi sống một mình với con mèo. Ngày nào cũng mua chừng ấy thứ. Ở tuổi tôi, ăn uống chẳng còn biết ngon lành gì nữa.
— Bà không biết chính xác lúc đó là mấy giờ à?
— Ở quầy có một chiếc đồng hồ thật to treo trên cao nhưng tôi chẳng bao giờ nhìn.
— Về lại khu nhà, bà có trông thấy ai đi ra mà khi họ đi vào bà không trông thấy không?
— Tôi cũng không nhớ nữa. Tôi chú ý đến người vào nhiều hơn là người đi ra. Dĩ nhiên, trừ những người ở đây vì đối với họ tôi phải biết trả lời họ có ở nhà hay không. Lúc nào cũng có những người giao hàng. Nhân viên lo việc khí đốt, người bán máy hút bụi...
Maigret biết sẽ không thu thêm tin tức gì nữa. Nếu sau này bà ta nhớ ra một chi tiết nào đó, bà sẽ lo báo cho ông ngay. Maigret nói:
— Chúng tôi đi hỏi thăm khách thuê nhà của bà đây.
— Xin tùy ông. Ông sẽ thấy toàn là những người tử tế cả, có lẽ trừ bà già ở tầng bốn...
Chỉ là việc làm cho xong những sự vụ đã quen thuộc thôi nên Maigret cảm thấy khỏe khoắn hắn lên.
— Chúng tôi sẽ ghé chào bà trước khi về.
Khi ra cửa, Maigret lấy tay vuốt ve đầu con mèo.
— Cậu lo những căn hộ phía trái nhé - Maigret với nói Lapoint - tôi lo cánh phải. Cậu hiểu phải tìm gì rồi chứ?
Ông nói thêm một cách thân tình:
— Nào! Vào việc đi, anh bạn!