← Quay lại trang sách

Chương 1 Ngày ấy và bây giờ

Dường như thế giới đang thực sự đi đến hồi kết.

Chuyện không tưởng và buồn đến nao lòng, nhưng lại là sự thật.

Cái kết nhẹ nhàng đến ngỡ ngàng. Khác xa với những gì chúng ta đã hình dung.

Ánh sáng xanh ấy dẫn lối chúng ta đến với cái kết. Đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa gặp ai có khả năng giải thích rõ đó là gì. Thế nhưng, một khi đã bị ánh sáng ấy bao trùm, tất cả sẽ chấm dứt. Con người hay muông thú, chim chóc hay cỏ cây, đất đá và nước cũng vậy, mọi thứ đều ngừng chuyển động, rồi có lẽ sẽ chẳng có gì xảy ra nữa.

Tôi đã nhìn thấy nhiều người trong trạng thái ấy.

Họ đứng bất động trong những thị trấn bị ánh sáng xanh dịu dàng kia rọi tới. Ai nấy đều tỏ vẻ mãn nguyện, tạo nên một khung cảnh đẹp đẽ đến ma mị.

Tôi đã nghe khá nhiều chuyện từ những người từng đặt chân vào những thị trấn ấy. Người dân ở đó, da dẻ ai nấy đều hơi xanh tái.

Một anh chàng kể lại rằng, mọi người trông như vẫn còn sống vậy. Cơ thể họ vẫn mềm. Vẫn ấm. Cảm tưởng như thể sắp cử động lại đến nơi. Nhưng một người khác lại phản bác, không đâu, da họ cứng như đá hoa cương. Chạm vào lạnh muốn rùng mình.

Tôi không biết nghe ai cho phải. (Thực ra tôi mới chỉ tiếp xúc với ánh sáng xanh đó một lần. Nhưng vào thời điểm đó, cả thị trấn chẳng một bóng người.)

Nhiều người nói đặt chân vào vùng đất bị nhuộm xanh rất nguy hiểm. Nếu chẳng may sơ ý sẽ mắc kẹt trong đó, không thoát ra được nữa.

Tôi vốn không mặn mà với những chuyến phiêu lưu. Dẫu trí tò mò luôn sôi sục, nhưng cán cân trong tâm trí luôn nghiêng về phía khước từ mạo hiểm. Bởi thế người ta mới gọi tôi là đồ nhát cáy, nhưng tôi đơn thuần chỉ coi đó là một chiến thuật giúp bản thân tồn tại.

Chính vì lẽ đó, tôi cẩn trọng tránh xa thị trấn. Nhìn từ xa, khung cảnh ấy quả thực yên bình, như thể cả thế gian chẳng nơi đâu an toàn hơn thế. Tuồng như mọi vấn đề đã được giải quyết xong, nét mặt ai nấy đều thanh thản vô cùng.

Khung cảnh ấy thoảng trông như một giấc mơ ban sáng. Cảm giác bâng khuâng như một bức ảnh đen trắng cũ kỹ ánh sắc xanh, chỉ nhìn thôi đã thấy nao lòng. Có người so sánh nó với lời hứa đã trôi về quá vãng, có người lại nói khung cảnh ấy nguy hiểm như tiếng hát mỹ nhân ngư. Dù sao đi nữa cũng không nên nhìn quá lâu, bởi tâm trạng rất dễ bị xáo trộn.

Ở những thị trấn bị đóng băng (ban đầu ai cũng gọi vậy), lúc nào cũng lơ lửng một màn sương mỏng. Chính vì thế ta không thể nhìn sâu vào bên trong thị trấn. Nếu có bóng dáng thứ gì dịch chuyển, đó ắt hẳn là bọn quạ, bồ câu hay chim sẻ. Khi nhận ra thị trấn này không còn gì cho chúng ăn nữa, lũ chim sẽ bay đi nơi khác.

Người ta nói hiện tượng này lan ra từ những vùng bị ánh sáng xanh chạm tới. Thế nên những sinh vật cuối cùng còn sống sót chắc hẳn là loài chim và những côn trùng biết bay. Dẫu vậy chúng cũng không thể nào bay mãi, sau cùng chúng sẽ nghỉ ở một cánh rừng đã đóng băng nào đó, từ từ bị nhuộm xanh và không bao giờ đập cánh bay lên được nữa.

Đã ba tuần trôi qua kể từ khi hiện tượng ấy bắt đầu. Nhưng nếu tính từ ngày bầu trời bị bao phủ trong màn mây dày đặc thì còn trước đó nữa. Chắc cũng xấp xỉ hai tháng rồi.

Một buổi sáng thức dậy, đám mây màu chì đã ôm trọn cả bầu trời. Hình như trên thế giới chỗ nào cũng vậy.

Tivi liên tục đưa tin về hiện tượng trên. Còn có cả ảnh chụp từ vệ tinh nữa. Hình ảnh trái đất trắng tinh bông xốp thật giống túm đuôi tròn vo của loài thỏ tuyết có lần tôi thấy ở sở thú. Trông rõ đáng yêu.

Không ai biết lý do tại sao. Trong nháy mắt, thế giới bỗng trở nên lạnh giá, cứ như thể mùa đông đã về khắp muôn nơi.

Nhưng kỳ lạ thay, tuyết không rơi. Các nhà khí tượng học đã cho khinh khí cầu và máy bay lên kiểm tra, nhưng chỉ phát hiện ra các tinh thể băng và nước. Điều này có nghĩa, đám mây kia chẳng có gì đặc biệt.

Nếu vậy thì, ai nấy đều nghĩ, chỉ cần cố chịu đựng ít lâu rồi sẽ lại được nhìn thấy bầu trời xanh như trước. Mưa mãi rồi cũng tạnh, đêm dài mấy cũng sẽ qua, đám mây này rồi sẽ tan đi...

Thế nhưng tất cả đều nhầm. Quả đúng có ánh sáng lọt xuống trần gian thật, nhưng nó không hề ấm áp. Ấy là thứ ánh sáng màu xanh lạnh giá làm đông cứng cả muông thú lẫn cỏ cây.

Tôi đã thấy nó vài lần. Khung cảnh ấy huyền bí và tráng lệ đến nghẹt thở.

Vài tia sáng xanh rọi xuống mặt đất qua kẽ hở của đám mây dày. Chúng có hình dạng như chiếc thang của Jacob hay ánh sáng trong tranh của danh họa Rembrandt (ngày xưa, nhờ nàng tôi mới biết tên khoa học của nó là “tia hoàng hôn”).

Cột sáng xanh đó gần như dựng đứng. Nếu ở chỗ có tầm nhìn tốt, có thể thấy hàng ngàn tia sáng. Vì cảnh tượng quá lộng lẫy nên lần đầu tiên nhìn thấy, tôi phấn khích đến nỗi suýt lên cơn thở dốc. Nó tráng lệ và thần thánh tới độ giây phút đó tôi cứ ngỡ vô số các thiên thần đang bước xuống hạ giới từ chiếc thang màu xanh.

Hoàn toàn không có tiếng động. Thị trấn kết thúc trong âm thầm và lặng lẽ. Không sấm sét, không tiếng người la hét than vãn, không cả tiếng chó sủa lẫn còi báo động.

Cái kết đến trong chớp nhoáng. Cột ánh sáng biến mất sau vài phút.

Thị trấn bị bỏ lại tỏa sắc xanh dìu dịu. Đám mây trên cao dường như phản chiếu màu của mặt đất nên cũng phơn phớt sắc xanh tím.

Ban đầu, mọi người đều nghĩ hiện tượng này có tính quy luật. Quả thật, thành phố càng lớn thì ánh sáng rửa tội xuất hiện càng sớm, vì vậy có lẽ sẽ an toàn nếu chạy tới nơi chẳng có mấy người... Thế nên có rất nhiều người rời bỏ thị trấn của mình. Cố đến được nơi nào không có người càng tốt.

Nhưng sự thật liệu có phải vậy? Tivi và radio đã ngừng đưa tin nên tôi chẳng rõ nữa, nhưng theo như tôi thấy, ánh sáng đó xuất hiện khá tùy hứng. Đã nhiều lần tôi bắt gặp những quả núi và đầm lầy không hề có người bị nhuộm xanh, ngược lại, có những thị trấn vài nghìn dân vẫn chẳng hề hấn gì.

Những thị trấn bị đóng băng dần mở rộng ra. Chúng vươn dài những xúc tu màu xanh, dần dà xâm lấn sang các vùng đất xung quanh như những con amip. Nếu vậy thì kết cục sẽ như nhau cả thôi. Có chạy đến đâu thì cũng bị ánh sáng xanh đuổi kịp, đến lúc đó chúng ta sẽ quên cả thở và chớp mắt, vĩnh viễn đứng bất động như những pho tượng thiên sứ đặt ở góc phố.

Dẫu vậy, biết đâu trên hành tinh này vẫn còn một nơi mà ánh sáng xanh sẽ không bao giờ chạm tới và ở đó chúng ta có thể tiếp tục sống trong yên bình?

Dù chỉ là một điều ước bâng quơ nhưng chắc chắn chẳng ai không ôm hy vọng.

Nhất là những người trẻ đang yêu giống tôi đây.

❖ ❖ ❖

Tôi đã rời nhà được mười ngày. Lẽ ra, tôi phải đến chỗ nàng từ lâu rồi. Khoảng cách tính theo đường thẳng là năm trăm cây số. Tôi tính nếu đi xe đạp dọc quốc lộ, mỗi ngày sẽ đi được một trăm cây. Nhưng nhiều nơi bị nhuộm ánh sáng xanh hơn tôi tưởng, quãng đường lắt léo như con sông chảy qua đầm lầy. Tôi vẫn chưa đi được nửa lộ trình.

Tôi đã hứa sẽ đi gặp nàng. Bất kể có chuyện gì xảy ra, tôi nhất định phải giữ lời đến cùng.

Lần cuối hai đứa nói chuyện trên điện thoại, nàng đã rất sợ hãi.

“Mẹ tớ yếu lắm,” nàng nói. “Nhưng trạm xá chẳng có ai, hiệu thuốc cũng không mở. Nhà hết sạch thuốc rồi, không biết kiếm ở đâu được nữa.”

Mẹ nàng bị bệnh đã lâu, chẳng ra khỏi nhà cả nửa năm nay. Nàng một tay chăm sóc mẹ suốt từ dạo ấy.

“Tớ sợ lắm.” Nàng lại nói. “Thị trấn giờ chẳng còn ai. Mọi người rủ tớ cùng đi lánh nạn, nhưng bệnh tình mẹ thế này làm sao đi được...”

Giọng nàng run run đầy lo lắng.

“Thế thì,” tôi mở lời. “Tớ đến chỗ cậu nhé. Có tớ rồi cậu sẽ không sợ nữa.”

Nàng im lặng trong chốc lát. Tôi nghe tiếng nàng sụt sịt ở đầu dây bên kia.

“Nhưng mà,” nàng đáp. “Bố cậu thì sao?”

“Không sao đâu. Bố tớ cũng thông cảm mà. Thực ra tớ đã thưa chuyện với bố nhiều lần rồi.”

“Cậu không sợ nguy hiểm à?” Nàng hỏi.

“Giờ ở đâu chẳng thế. Không còn chỗ nào trên hành tinh này an toàn nữa đâu.”

“Cậu...” nàng đáp, “đến đây thật chứ?”

“Ừ, nhất định tớ sẽ đến. Đợi tớ nhé.”

“Tớ vui lắm.” Tôi nghe thấy tiếng nàng thì thầm, rồi nàng cứ nức nở, chẳng nói thêm được lời nào.

Kể từ đó, tôi không gọi được cho nàng nữa. Cũng phải, lúc này mà liên lạc được với nhau thật chẳng khác gì phép mầu.

❖ ❖ ❖

Tôi gặp nàng khi cả hai mới mười bốn tuổi.

Da nàng trắng bóc. Nàng tên Shirakawa Yukino. Lúc biết tên nàng tôi đã phải thầm cảm thán, “Sao mà hợp thế!” Quả đúng là tên thế nào, người thế ấy. Mãi sau tôi hỏi ra mới biết, nàng sinh ra vào một ngày tuyết rơi tháng Một nên được đặt tên có chữ Yuki (tuyết). Khi tôi hỏi có phải từ lúc sinh ra nàng đã trắng thế không nàng gật đầu. Nàng bảo nàng trắng từ lúc mới lọt lòng.

Thế nhưng mái tóc nàng lại đen tuyền nên lần đầu nhìn thấy, tôi có cảm giác hơi kỳ lạ.

Nàng là học sinh mới. Thầy giáo nói với cả lớp rằng nàng đến từ một thị trấn tít mạn phía Bắc.

Nàng không chỉ trắng mà vóc dáng cũng rất gầy gò. Cổ cao, cằm mảnh dẻ, đã vậy đến cả ngón tay hay móng tay cũng thon dài. Nàng thấp bé, ngực phẳng lì nên nhìn chẳng ra dáng thiếu nữ mười bốn tuổi cho lắm. Tôi nghĩ thầm, chắc nàng dậy thì muộn. Về sau ắt còn phát triển nhiều.

Có lúc nàng đeo kính, lúc lại không. Nhưng đeo vào trông xinh hơn. Khi không ẩn sau lớp kính, đôi mắt nàng mong manh đến độ làm tôi đau lòng. Chúng lúc nào cũng ươn ướt, tôi nhìn mà có chút bất an.

Shirakawa vui vẻ, hiền lành, học cũng giỏi nên mọi người đều yêu quý. Nàng nhanh chóng hòa nhập vào tập thể lớp, đồng thời yên vị trong nhóm nữ sinh tầm trung, trầm lặng và không mấy nổi bật. Trong lớp còn một nhóm ở tầm cao hơn, thành phần toàn học sinh xuất sắc, có cả lớp trưởng và các bạn nữ tích cực tham gia hoạt động thể thao. Nàng đủ khả năng gia nhập, nhưng hình như nàng không muốn vậy.

Nàng chẳng thích bị chú ý và cố gắng tỏ ra bình thường hết mức có thể. Nguyên nhân có lẽ liên quan tới việc nàng là học sinh mới, đã vậy còn thuận tay trái. Chỉ bằng đấy thứ đã đủ biến nàng thành thiểu số, vậy nên nàng không muốn làm chuyện khác người rồi nổi bật hơn nữa... Giả sử nàng có nghĩ thế thật thì tôi cũng chẳng lấy gì làm lạ.

Nhưng quả thật, nàng vẫn rất nổi bật. Tại sao vậy nhỉ? Có gì đó bên trong nàng khác biệt hẳn so với các nữ sinh còn lại. Bí mật ấy dường như ẩn chứa trong những cử chỉ rất đỗi bình thường như khi nàng vén mái tóc dài ngang vai lên, khi nàng khẽ nghiêng đầu lúc suy nghĩ gì đó, hay khi nàng chầm chậm chớp mắt lúc nhìn người đối diện.

Mãi đến sau này, tôi mới nghiệm ra đó là gì.

Nhịp điệu!

Nàng sống theo một nhịp điệu khác người. Hay nói cách khác, thứ âm nhạc mà cơ thể nàng chơi không giống với mọi người. Ấy là nhịp điệu, là âm nhạc của riêng nàng.

Chính điều đó đã cuốn hút tôi mãnh liệt.

Nói đúng ra, thứ mê hoặc tôi có lẽ không hẳn là nhịp điệu của nàng, mà là sự dao động và tiết tấu nhanh chậm. Dù sao thì, sự bất ổn định khác thường ở nàng cho tôi một cảm giác dễ chịu đến lạ lùng.

Tôi vốn là kiểu người dễ bị hấp dẫn bởi tiểu tiết. Tâm trí tôi thường không tập trung vào cấu trúc toàn thể, thay vào đó nó hướng sự chú ý tới sắc thái hay những biến đổi rất nhỏ.

Bộ phận cảm ứng nhạy bén trong mắt tôi đã phản ứng mãnh liệt với tín hiệu nàng phát ra.

Nhưng kể cả không có thứ nhịp điệu ấy thì nàng vẫn rất có sức hút nên nhiều đứa con trai không thể ngừng mộng tưởng về nàng.

Hình như đã có vài người tỏ tình với nàng, nhưng chi tiết thế nào tôi không rõ.

Tôi không bận tâm mấy tới những chuyện kiểu đó. Bạn bè trong lớp coi tôi như người thừa. Một kẻ ngoài cuộc, bị cô lập.

Tôi không biết lý do chính xác. Khi nhận ra thì chuyện đã vậy rồi. Tuy chưa bao giờ suy nghĩ kỹ xem là tại sao nhưng tôi cũng đoán ra được vài điều.

Tôi hơi lệch nhịp so với mọi người xung quanh (ngược lại, cá nhân tôi cho rằng hợp nhau đến độ vừa khít mới là chuyện lạ) bởi lẽ tôi không giỏi các hoạt động thể chất, trông có vẻ hơi lơ đãng, ăn mặc còn chẳng giống ai (quần áo tôi mặc toàn là đồ cũ của bố và ông nội), đã vậy còn nhát cáy nữa.

Tôi chúa ghét mấy chuyện cãi cọ. Đến tận mấy năm đầu tiểu học, tôi vẫn són tiểu vì lý do đó suốt. Chỉ cần nhìn người ta đấu khẩu, tôi đã không kiểm soát nổi phần thân dưới nữa rồi.

Từ khi sinh ra tôi đã theo chủ nghĩa hòa bình. Có lần tôi nghĩ, hay mình là thiên sứ “hàng lỗi” bị ném từ thiên đường xuống trần gian không biết chừng. Hội chứng rối loạn thích ứng với thế giới hiếu chiến vô cùng tận này đã phát tác trong tôi mạnh mẽ đến vậy đấy.

Không lâu sau, nàng tham gia câu lạc bộ nhiếp ảnh. Ngay sau đó, một cậu trai trong lớp cũng tham gia câu lạc bộ này cứ bám lấy nàng vẻ thân thiết đến lạ. Cậu ta là học sinh thuộc diện ưu tú, giữ chân thư ký trong hội học sinh.

Đám bạn trong lớp hình như đều thấy nàng và cậu bạn đó rất đẹp đôi. Họ bỡn cợt, trêu chọc hai người, rồi gán cho họ biệt danh của các cặp đôi (giờ tôi cũng chẳng nhớ nổi nữa, nhưng chắc là Romeo và Juliet hay Mickey và Minnie, hoặc những cái tương tự vậy). Hễ có dịp là cả lớp lại gán ghép họ với nhau.

Cậu thư ký hội học sinh miệng bảo mọi người thôi đi nhưng đương nhiên vẫn sướng ra mặt.

Còn tôi đoán chắc nàng thấy phiền lắm, bởi tôi mơ hồ nghĩ nàng và cậu bạn đó không hợp nhau. Chỉ là cảm giác thôi.

Thu sang, đến học kỳ hai cả lớp chuyển chỗ, tôi và nàng ngồi cạnh nhau. Tôi mừng lắm, nhưng cứ bình thản như không. Ấy vốn là sở trường của tôi. Vờ như bình thản, vờ như không buồn, vờ như không thấy tổn thương, rồi cả vờ như không thích người ta nữa.

Có lẽ chính bởi thế mà nàng đối xử với tôi rất thoải mái.

Chuyện này tôi rất hiểu. Thực ra, khi nói chuyện với các cậu trai đang ôm một thứ kỳ vọng nào đó (gọi là ý đồ cũng được), những thiếu nữ như nàng rất dè chừng. Nàng sẽ cư xử cứng nhắc hoặc trẻ con, nhìn chung khi ấy sẽ không thể trò chuyện vui vẻ được nữa.

Nhưng với một đối tượng trung lập hoặc khi đã thân thiết giống như hai người bạn cùng giới với nhau, nàng có thể nói chuyện mà không cần phải đề phòng.

Tôi không hề nam tính, cũng chẳng muốn gồng mình lên cho ra dáng con trai. Tôi muốn kết bạn với nàng thật, nhưng không mong gì hơn thế nữa (ít nhất là vào thời điểm đó). Tôi là một kẻ rất biết thân biết phận.

Trước khi ngồi cạnh nhau, tôi và nàng gần như chưa bao giờ nói chuyện, nhưng hai đứa nhanh chóng mở lòng với nhau ngay.

“Sau này mong cậu giúp đỡ nhé?” nàng nói. “Ừ, mong cậu giúp đỡ,” tôi đáp. Hồi đó nàng đeo kính gọng nhựa màu đậu đỏ. Trông cũng không đến nỗi nào.

Cả hai đứa đều trắng và rất gầy. Có lần, tôi không nhớ là khi nào, nàng bảo bọn mình cứ như chị em ấy nhỉ. Đến giờ tôi vẫn nhớ mình đã mừng rỡ vô cùng khi nghe câu nói ấy.

Một hôm, bọn tôi đặt cánh tay lên bàn để so màu da. Tôi và nàng trắng ngang nhau, nhưng da nàng ửng hồng, còn da tôi hơi vàng. Mặt trong cánh tay hai đứa đều nổi rõ gân xanh, nhìn như cây phả hệ vẽ bằng mực.

Nàng đặt ngón trỏ lên cổ tay tôi để bắt mạch. Cử chỉ tự nhiên như bác sĩ thật vậy. Tôi lo lắng và hồi hộp lắm, tuy bên ngoài không biểu lộ gì.

Nhưng mạch của tôi thì khác. Chắc nó phải đập loạn xạ như mặt trống bị tay nhạc công đang nổi đóa nện vào.

Nàng không nói gì, chỉ liếc nhìn tôi (bỗng nhiên tôi rùng mình. Thỉnh thoảng cũng có lúc tôi lỡ để lộ cảm xúc thật). Đoạn nàng nhẹ nhàng nhấc ngón tay ra, thu cánh tay trở về vị trí cũ bên cạnh tay tôi.

Sau đó là một khoảng lặng có chút kỳ quặc. Như bị sự im lặng ấy thôi thúc, tôi khẽ nhấc tay lên, thử chạm đầu ngón trỏ vào mạch nàng. Ắt hẳn trông tôi vẫn thản nhiên như không, nhưng thực ra miệng tôi khô khốc.

Đầu ngón tay tôi cảm nhận được mạch nàng đập thình thịch. Cũng nhanh phết nhỉ, tôi nghĩ thầm. Tôi thử nhìn trộm nàng một cái, thấy nàng chăm chú dõi theo đầu ngón tay tôi, nét mặt nghiêm trang. Nàng trông nghiêm túc đến độ tôi thấy có chút bất an.

Khi tôi bỏ ngón tay ra, nàng trút tiếng thở phào nhẹ nhõm. “Tự nhiên tớ hồi hộp quá,” nàng khẽ mỉm cười và nói.

“Ừ, công nhận. Cảm giác như ở bệnh viện thật ấy nhỉ.” Tôi đáp.

Nàng không nói gì, đoạn khụt khịt mũi vẻ ngượng ngập, rồi nắm lấy cổ tay tôi, “Tay Yoshizawa gầy quá.” Ngón tay nàng lạnh toát.

“Nhìn này, tớ cầm gọn được luôn.”

“Có lẽ vậy,” tôi đáp, tự nhận thức được giọng mình đang hơi run.

“E hèm,” tôi đằng hắng và quay sang nói với nàng. “Nhưng không gầy bằng tay Shirakawa đâu.”

“Sao cậu biết được?” nàng đáp và vòng ngón tay vừa đo tay tôi quanh cổ tay còn lại của nàng. “Thấy chưa, gần bằng nhau mà.”

“Gần thôi,” tôi nói rồi nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay nàng đang chìa ra.

Máu nàng chảy êm ru trong vòng tròn nhỏ tạo ra bằng những ngón tay tôi. Ấy là một cảm giác rất kỳ lạ. Dù trước đó đã có lần chạm tay người khác, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy thế này.

“Kiểu như,” tôi thầm thì.

“Gì cơ?” Nàng khẽ hỏi.

Nhưng tôi không sao diễn đạt được thành lời.

Tôi buông tay nàng ra và nắm lấy cổ tay mình, gật gù ra chiều đồng tình.

“Đúng thật.” Tôi bảo. “Công nhận cũng gần bằng nhỉ”.

“Ừ,” nàng tiếp lời. “Hai đứa mình xêm xêm nhau.”

Tôi và nàng cứ thế trở nên thân thiết. Đám bạn học chẳng thích thú gì chuyện này và quấy nhiễu tôi ra mặt. (Mày nghĩ mày là ai chứ. Không đến lượt mày đâu, vân vân.) Nhưng tôi coi những lời thóa mạ ấy là một cái giá rất nhỏ phải trả để đổi lấy vận may không tưởng này (người ta gọi là quy luật bù trừ). Vậy nên có phiền nhiễu thế nào tôi cũng chịu được hết.

Việc nàng tham gia câu lạc bộ nhiếp ảnh cũng có lý do.

“Tớ thích mây.” Nàng nói.

Khi ấy đang là giờ tự quản, lớp học khá ầm ĩ. Chúng tôi hơi chụm đầu vào nhau và nói chuyện thật khẽ.

“Mây, ý là mây bay trên trời ấy hả?”

“Ừ.” Nàng đáp. “Mây bình minh, mây ban trưa, mây hoàng hôn, mây đêm trăng. Mỗi đám mây chỉ có một, không lần nào giống lần nào. Từ bé tớ đã ngắm mây không biết chán.”

Tôi hừm một tiếng. Trước nay chưa bao giờ tôi ngắm mây một cách nghiêm túc.

“Cậu có thấy cảnh mặt trời lặn rất đẹp không?” Nàng hỏi.

“Ừ, đẹp thật.”

“Nhưng không chỉ có vậy đâu. Sáng sớm cũng đẹp, mây trước khi trời nổi bão cũng tuyệt đến độ làm tim mình đập rộn lên ấy.”

“Tuyệt? Mây lúc bão ấy hả?”

“Ừ, cậu không nghĩ thế à?”

“Tớ còn chưa nghĩ đến chuyện đó bao giờ.”

“Thế lần sau cậu thử nghĩ xem. Bầu trời là tấm vải khổng lồ còn mây là những mảng màu. Có màu trắng, màu đỏ thẩm. Cả màu tím và màu vàng nữa. Người khổng lồ đã vẽ tranh lên bầu trời đấy. Ông ấy chính là họa sĩ thiên tài làm rung động lòng người.”

“Thế người khổng lồ là đàn ông à?”

“Chắc vậy”, nàng trả lời.

“Như thế hay hơn hả?”

“Ừ, tớ nghĩ thế.”

“Con người cùng lắm chỉ vẽ được vệt mây máy bay thôi.”

Nhưng mà, nàng phản bác. “Vệt mây máy bay lúc hoàng hôn được nhuộm màu cam đẹp vô cùng ấy. Nhìn như thể mình gạch lên trời bằng bút dạ quang vậy.”

“Mấy chú phi công chắc toàn người ham học nhỉ.’

Nghe tôi nói vậy, nàng cười thật tươi và khẽ lắc đầu. Tôi yêu vô cùng dáng điệu của nàng khi vui đùa.

Ngày hôm sau, tôi đến chậm một tiết như mọi khi (tôi chẳng ưa gì con đường tới trường nhộn nhạo bởi đám học sinh đi học đúng giờ nên lúc nào cũng rời nhà muộn hơn mọi người. Tôi duy trì thói quen đó trong sáu năm ròng, từ cấp hai đến hết cấp ba). Nàng nhìn tôi đầy ẩn ý và gõ cộp cộp vào ghế của tôi, bộ dạng hớn hở. Đoán chắc nàng có ý giục tôi mau ngồi xuống, tôi vội vã treo cặp bên cạnh bàn và yên vị trên ghế.

Trong chốc lát, nàng giả bộ chăm chú nghe giảng những đôi mắt vẫn hấp háy cười. Tôi rút sách vở từ trong cặp ra và bày lên bàn, còn nàng vẫn nhìn thẳng về phía trước. Tôi lơ đễnh nhìn giáo viên Anh ngữ đang giảng bài trên bục giảng và chờ nàng ra tín hiệu.

Một phút, rồi hai phút trôi qua, không có gì xảy ra cả. Cuối cùng tôi chán chẳng chờ đợi nữa và bắt đầu vẽ nhăng cuội ra vở như mọi khi.

Tập vở của tôi kín đặc những hình vẽ linh tinh: những bức phác họa tự tôi nghĩ ra, những chữ cái được tô vẽ tỉ mẩn, những tòa nhà tưởng tượng, rồi cả các họa tiết spirograph theo kiểu tự do nữa.

Tôi yêu tính đối xứng vô cùng. Cũng chẳng biết tại sao nữa. Có thể là vì tôi vốn thuận tay trái, nhưng hồi nhỏ lại bị ép chuyển sang tay phải. Kể từ đó, những hình ảnh phản chiếu kỳ lạ bắt đầu trú ngụ trong tôi. Tôi viết chữ ngược và luôn nhầm lẫn các bộ bên trái với bên phải trong Hán tự. Đến tuổi này rồi mà tôi vẫn thường viết ngược chữ D và E (cả số 5 nữa), chính bởi vậy, tôi bị coi là một đứa trẻ kém cỏi hơn so với bình thường.

Tôi đang mải mê nguệch ngoạc vào vở thì nàng thúc đầu ngón chân vào chân tôi. Tôi ngẩng mặt lên nhìn nàng. Nàng vẫn hướng mặt về phía bảng đen, nhẹ nhàng chuyền cho tôi thứ gì đó dưới hộc bàn. Tôi đặt nó lên đùi và mở ra xem. Bên trong có vài tấm hình.

Đó là hình chụp mây. Mây trong ráng chiều. Trên nền trời hoàng hôn lam xám, vài đám mây rời rạc đã bớt ánh đỏ mà ngả sang màu tím nối đuôi nhau lơ lửng. Đám mây nào cũng được viền quanh bởi một dải sắc vàng kim. Nếu nhìn rõ từng chi tiết thế này thì quả nhiên mây đẹp thật (dù không có tính đối xứng đi nữa).

Tấm thứ hai là những đám mây xám cuộn xoáy trông hơi đáng sợ. Vô số tia sáng từ đó rọi xuống mặt đất. Khi tôi đang chăm chú ngắm bức ảnh, nàng viết gì đó vào một mẩu giấy và đưa cho tôi.

“Cái này là ‘tia hoàng hôn’ đấy. Có người còn gọi là thang thiên sứ nữa cơ.”

Tôi vẫn nhìn vào bức ảnh, gật đầu và không nói gì cả. (Đương nhiên lúc đó có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng nổi sau này mình sẽ phải nhìn ánh sáng ấy nhiều đến phát ngấy.)

Tấm thứ ba là vệt mây đằng sau máy bay. Một dải mầy màu hổ phách như được thảo một nét phất, vắt trên nền trời hoàng hôn đỏ thẫm pha màu xanh đậm. Trông hơi giống sao chổi, cũng không tệ lắm.

Thế nên tôi viết vào mẩu giẩy “Trông giống sao chổi nhỉ”, vẽ bên cạnh đó một ngôi sao năm cánh kéo theo chiếc đuôi dài rồi nhẹ nhàng đưa cho nàng.

Tôi biết gương mặt nàng đang sáng bừng lên. Nàng lại trao tôi mẩu giấy.

“Nhỉ? Ngoài đời còn đẹp hơn cơ. Tớ muốn cho cậu xem quá.”

“Ừ, tớ cũng muốn xem.” Tôi viết lại và trả mẩu giấy cho nàng.

Nhưng hai đứa không hứa hẹn gì cả.

Tôi và nàng đều dè dặt mấy chuyện kiểu này đến độ ngạc nhiên. Cả hai vốn không rụt rè gì (nhát cáy và rụt rè không đồng nghĩa. Mong mọi người đừng nhầm lẫn cho). Thế nhưng chỉ trong cảnh huống ấy, bỗng nhiên tôi trở nên yếu đuối. Biến thành một con người e dè đến độ sửng sốt, khách sáo đến mức đáng buồn.

Có lẽ bởi bản năng đã mách bảo tôi không giỏi giang gì chuyện yêu đương. Phương châm “Được đến đâu hay đến đấy” không áp dụng cho tôi và nàng. Nhỡ chẳng may sơ sẩy, nhiều khả năng chuyện sẽ kết thúc luôn tại đó.

Thế nên phải sau đó một thời gian hai đứa mới đi ngắm hoàng hôn cùng nhau.

“Tớ muốn chụp hình giỏi hơn nên mới vào câu lạc bộ nhiếp ảnh để học hỏi,” nàng viết.

“Kazuki lúc nào cũng đi chung với cậu nhỉ? Cậu ấy giỏi không?” tôi hỏi nàng.

Kazuki là tên cậu trai hay bám dính lấy nàng.

“Giỏi chứ. Cậu ấy chỉ tớ nhiều cái lắm. Nhưng mà...”

Tôi muốn biết nàng định nói gì đằng sau chữ “nhưng mà” ấy. Nhưng cảm giác hỏi thế có hơi trơ trẽn nên cuối cùng tôi chẳng viết gì cả.

“Yoshizawa vẽ đẹp nhỉ,” nàng viết tiếp và chuyền giấy cho tôi.

“Thì tớ đi học vẽ mà,” tôi trả lời.

“Thật á? Tuyệt ghê!”

“Tại sao cơ? Ai chẳng đi học được?”

“Kể cả thế chứ. Yoshizawa sau này có định làm họa sĩ không?”

“Chưa biết được, nhưng mà tớ thích vẽ.”

Tôi viết lại và khẽ dịch cuốn sổ đầy hình vẽ về phía nàng.

Đúng lúc ấy, bất chợt thầy giáo gọi tên tôi, yêu cầu tôi đọc trang cả lớp đang học.

Trang cả lớp đang học ư?

“Trang 43. Từ chương 11 ấy,” nàng thầm thì. Khi tôi ngạc nhiên quay qua nhìn, nàng vẫn thản nhiên nhìn bảng như không có gì xảy ra.

Tôi đứng dậy và bắt đầu đọc sách giáo khoa. Nàng chỉ đúng chỗ nhưng có vài từ tôi không biết nên ấp úng mất mấy lần.

“Phần từ vựng này học lâu lắm rồi đấy. Ôn tập cho cẩn thận vào.” Thầy giáo nói và cho tôi ngồi xuống.

“Sao cậu biết hay thế,” tôi ngồi xuống và nói nhỏ với nàng.

“Vì tớ vẫn nhìn sách giáo khoa cẩn thận đấy chứ,” nàng khẽ đáp.

Nàng là kiểu người như thế đấy. Không giống tôi, cái gì nàng cũng làm đâu ra đấy, lúc nào cũng nỗ lực hết mình.

Hai đứa đều là con một, nhưng nàng cư xử đĩnh đạc như người chị có em trai hay em gái trong nhà vậy. Tôi sinh trước nàng ba tháng (sinh nhật của tôi vào tháng Mười), nhưng lúc nào nàng cũng đối xử như thể tôi kém tuổi nàng.

❖ ❖ ❖

Ngày tàn chóng vánh. Kể từ khi đám mây kia bao trùm cả thế giới, trời tối rất nhanh. Giờ vẫn còn là mùa thu, nhưng đến ba giờ chiều hoàng hôn đã bắt đầu buông.

Màu sắc của góc trời phía Tây thật lạ lùng... Nào đỏ, nào tím, nào vàng, lại nhuộm sắc son đỏ như máu và màu đồng nữa. Quả là một cảnh tượng đáng chiêm ngưỡng. Chỉ ngắm thôi cũng đủ khiến lồng ngực chộn rộn. Tôi bán tín bán nghi, nếu cứ chăm chú nhìn thế này, biết đâu lại thấy được cả cỗ xe ngựa của thần chết phi nước kiệu bên trong đám mây hình xoắn ốc. Đến giờ phút này, dẫu có gì xảy ra tôi cũng chẳng ngạc nhiên.

Đây là vùng đất canh tác ở nông thôn, nhưng có vẻ người dân đã bỏ làng ra đi từ lâu lắm rồi. Những bức tường đắp bùn đã sụp xuống, các viên ngói trên mái nhà cũng rơi ra, đồng ruộng um tùm những loài cỏ dại như cỏ gấu và cỏ đuôi cáo. Cột điện và cây vườn bị che lấp trong rác rưởi và dây leo. Chúng đứng sừng sững trong bóng tối nhá nhem, nhìn chẳng khác nào những người lính gác khổng lồ canh giữ lãnh thổ khi chủ nhân vắng nhà.

Tôi xuống sông xách nước để nấu cơm tối. Lượng gạo mang từ nhà đi đang cạn dần. Tôi có mang theo tiền, nhưng từ nay về sau việc tìm lương thực chắc hẳn sẽ chỉ mỗi lúc một khó khăn thêm.

Thế giới có thể dung chứa sự tồn tại của tôi ngày một nhỏ hẹp và khốn khó hơn. Số người tôi gặp cũng giảm đi, đến hôm nay cả ngày tôi chưa gặp một ai.

Tuyết không rơi nhưng trời vẫn đổ mưa. Đêm hôm qua mưa rơi không ngớt. Con đường đầy bùn đất dẫn ra sườn dốc phía sau núi lầy lội vô cùng, tôi mấy lần trượt chân ngã ngửa.

Vửa nhìn thấy sông, tôi lưu ý ngay dòng chảy đã đục ngầu. Có lẽ cơn mưa đêm qua đã làm nước dâng lên. Tôi linh cảm sắp có chuyện chẳng lành (những lúc thế này, linh cảm thường chính xác).

Y như rằng, mới định lại gần mặt nước thì bỗng đất dưới chân tôi sụt xuống. Thậm chí tôi còn chưa kịp hét lên. Tôi trượt trên mặt đất ướt nhẹp với một tốc độ đáng kinh ngạc. Tôi cuống quýt vươn tay ra, nhưng chỉ nắm được mấy chiếc lá dương xỉ. Chúng nát vụn trong tích tắc, không một tiếng động.

Đôi chân tôi lao xuống dòng nước. Đầu ngón chân vừa chạm đáy thì bắp chân đã bị kẹt trong dòng chảy xiết, tôi ngã hẳn vào lòng sông.

Nước lạnh đến không tưởng. Trong nháy mắt, cơ bắp toàn thân co rút. Tôi đã trút ra cho bằng hết lượng không khí quý báu còn sót lại trong phổi. Tôi rối rít hít vào, nên lần này nước lại lũ lượt tràn vào cuống phổi. Tôi vừa ho sặc sụa, vừa cố hết sức bình sinh lội nước.

Dòng chảy đẩy tôi mỗi lúc một xa ra giữa sông. Tới đó rồi chân sẽ không chạm được đáy nữa.

Tôi đã ở bước đường cùng, cứ thế bị dòng nước cuốn xuống hạ nguồn.

Tôi không nghĩ nhiều đến cái chết. Khi lạnh cóng và nghẹt thở, chẳng ai còn tâm trí nghĩ đến chuyện đó.

Cuối cùng tôi nhìn thấy một cây cầu bằng đá bắc giữa hai bờ sông. Độ cao từ đó xuống mặt nước khoảng mười mét. Tôi thấy có người đứng ngay giữa cầu, quay lưng lại với ánh hoàng hôn. Khi tôi đang vùng vẫy thoát thân, người đó đột ngột lao xuống dòng nước.

Trong thoáng chốc, tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra. Mất một lúc mới hiểu được người đó nhảy xuống sông để cứu mình. Hai cánh tay khỏe mạnh dần kéo tôi vào gần bờ.

Cuối cùng, tôi nghe tiếng người nói, “Chân chạm đáy được rồi đấy”. Tôi thử kiểm tra thì đúng là như thế thật. Tôi đứng thẳng lên, lội ngược dòng nước khoảng năm mét là tới bờ sông khúc hạ lưu.

Cơn ho chưa dứt nhưng ít nhất tôi đã thở dược. Tôi lồm cồm bò lên một tảng đá to, gom hết sức bình sinh hít không khí vào buồng phổi. Khi ấy, tôi nhận ra người ban nãy cũng vừa ngồi xuống gần mình.

“Cậu có sao không?” Anh ta hỏi.

“Vâng, tôi không sao,” tôi đáp.

“Cảm ơn anh.”

Khi thở lại được bình thường, tôi ngồi thẳng dậy trên tảng đá và quay sang nhìn ân nhân cứu mạng mình lần nữa. Ngoài chiếc quần đùi kẻ sọc, trên người anh ta chẳng có gì. Anh ta rất gầy, bộ dạng trông như người hành hương vừa dầm mình dưới sông Hằng. Để ý thấy tôi đang nhìn, anh ta khuyên tôi vắt quần áo cho ráo nước.

“Mau đi lên trên rồi nhóm lửa thôi.”

“Vâng,” tôi đáp. Đoạn tôi hỏi anh ta, “Tại sao? Tại sao anh lại cứu tôi?”

“Tại sao ư?” anh ta nhìn tôi tò mò rồi khẽ nhún vai. “Nếu cậu là tôi thì cậu cũng sẽ làm vậy thôi mà? Mấy chuyện thế này làm gì có lý do.”

Thực ra tôi rất nghi ngờ mình có nhảy xuống sông được như anh ta hay không (tôi bơi rất tệ), nhưng vẫn gật đầu và cảm ơn lần nữa.

Anh ta huơ tay ra chiều phiền phức.

“Tôi lên trước đây nhé.”

Anh ta nói, đoạn biến mất sau rặng cây, trên người vẫn độc một chiếc quần đùi.

Chúng tôi nhóm một đống lửa khổng lồ, lửa to đến mức tôi còn nghĩ chẳng biết mình có hơi quá tay không.

Ngọn lửa thỉnh thoảng bốc lên cao bằng tôi. Quanh khu này, riêng gỗ để thảy vào lửa muốn bao nhiêu cũng có. Chúng tôi hong khô đồ và đun nước. Anh chàng nọ rót rượu gin, còn tôi thả mấy cục đường vào đó rồi cả hai cùng uống.

Khi đã bình tâm lại hẳn, chúng tôi ngồi đối diện nhau bên ngọn lửa. Địa điểm hiện giờ là khu vườn của một hộ nhà nông, bao quanh bởi một hàng rào hoa trà.

Anh ta tên Mizuki, hơn tôi năm tuổi. Năm nay hai mươi chín. Mặt mũi già dặn hơn tuổi thật nhiều. Trán hình trái tim, đường chân tóc kéo khá sâu ra đằng sau. Gò má lún phún râu chưa cạo. Anh ta cao và gầy gò. Nhìn hơi khó tính và có chút ranh ma.

Nói chuyện một lúc, tôi cảm giác tính cách anh ta có phần như vậy thật. Anh ta gọi mình là phường lang bạt, quân vô công rồi nghề, chẳng được tích sự gì ráo trọi. Vốn từ vô cùng phong phú.

“Ư thì, chuyện nó thế đấy. Từ khi sinh ra tôi đã là giống lạc loài. Công việc tử tế không có, mà tôi cũng chẳng nỗ lực bao giờ.”

Bản tính là thế, nhưng đến lần này anh ta có nghĩ ngợi lại đôi chút.

“Nếu mọi thứ sắp kết thúc tại đây thật thì lần cuối rồi, thử nghiêm túc một tẹo cũng không phải ý tồi. Tôi nghĩ vậy đấy.

“Nghiêm túc là sao?”

‘Thì đàn bà đó mà.”

À, tôi khẽ cảm thán. Cũng hơi bất ngờ.

“Ban nãy chú em mới nói đang trên đường đi gặp người yêu nhỉ?”

“Không phải người yêu,” tôi sửa lại. Có lẽ thế. “Có thích nhau thật mà chưa hôn được lần nào.”

“Nhưng yêu nghiêm túc đấy phải không?”

Tôi lẳng lặng gật đầu. Riêng chuyện đó thì tôi thừa tự tin. Tôi yêu nàng ròng rã mười năm rồi.

“Thế là đủ,” Mizuki nói. “Thế giới cận kề hồi kết mà vẫn có người mình muốn gặp dù phải đánh đổi cả mạng sống, ấy là điều tuyệt diệu.”

“Vâng,” tôi gật đầu. “Em cũng nghĩ vậy.”

“Đúng nhỉ?” anh ta nói và toét miệng cười. Khóe mắt hằn vài vết chân chim. Nụ cười rất dễ gây thiện cảm.

“Nàng tên Eriko,” Mizuki tiếp lời.

“Tên người yêu anh ạ?”

“Không,” anh lắc đầu. “Đây cũng không phải người yêu. Nói cho chính xác thì là vậy.”

“Thế thì...”

“Là người yêu cũ. Quen nhau từ hồi còn trẻ con. Hai nhà là hàng xóm. Nhà tôi làm nông thôi còn nhà nàng mở tiệm chụp ảnh. Xịn phết đấy.”

“Ồ, hay quá nhỉ,” tôi đáp. “Chắc chị ấy tuyệt lắm.”

“Ừ,” Mizuki lại cười và khẽ lắc vai.

“Nàng tử tế lắm. Chẳng khôn khéo gì, lại dễ mềm lòng. Lúc nào cũng bị người ta lợi dụng. Bởi ở đâu chẳng có những kẻ vừa tham lam vừa ranh mãnh. Ở lớp chú em chắc cũng có chứ gì? Như mấy đứa con gái hay làm màu đong đưa lũ con giai ấy, có kỹ thuật cả đấy. Cậu ơi, giúp tớ cái này được không? Cảm ơn cậu, tiện thể làm hộ tớ cái kia luôn nhé? Tớ cảm kích vô cùng luôn đấy, kiểu kiểu thế. Tôi nhìn mà phát cáu. Phải chống đối lại chúng nó một tí đi chứ. Giờ nàng làm việc cho một tổ chức tín dụng ở quê nhà, à mà giờ không làm nữa, đã từng thôi. Chỗ làm nghiêm túc, hợp với tính thật thà chân chất của nàng. Cái phường nay đây mai đó như tôi làm sao mà xứng chứ.”

“Vậy hả anh?”

“Ừ, đại khái thế,” Mizuki nói. “Mà nàng bất chấp hết, kiên nhẫn ở cạnh tôi biết bao nhiêu lần. Nhưng lần nào tôi cũng làm nàng khóc. Chuyện tiền nong, trai gái rồi công việc, hết cái này đến cái kia. Nàng cũng hơi kỳ vọng ở tôi quá. Lúc nào cũng một mực tin tưởng rồi sẽ có lúc tôi nên người, mà cuối cùng niềm tin ấy cũng bị phản bội. Tội nghiệp nàng lắm. Bởi cứ hẹn hò với cái loại tôi nên đám đàn ông chẳng dám lại gần. Tôi nổi tiếng vì tính bốc đồng nên chắc chúng nó nghĩ cứ léng phéng khéo lại bị ăn đập.”

“Thế chị Eriko giờ vẫn một mình ạ?”

“Chịu chả biết,” Mizuki đáp. “Tôi rời thị trấn cũng lâu rồi. Lần cuối nói chuyện... hình như qua điện thoại, cũng phải nửa năm trước. Tôi quấy rầy nàng chuyện tiền nong. Mà nàng từ chối thẳng thừng luôn. Mấy chuyện kiểu này nàng lại cứng đầu cứng cổ đến sững sờ. Cứ như con lừa vậy. Kể ra nàng có từ chối cũng là lẽ đương nhiên thôi...”

“Vâng,” tôi nói. “Em cũng có chút thông cảm với chị ấy.”

“Ừ,” giọng Mizuki bỗng hiền lành một cách bất thường. “Thật sự đấy, tôi cũng chán tôi lắm rồi.”

“Nhưng mà,” anh nói, gãi sồn sột phần ống chân của chiếc quần vừa được hong khô, làm hơi nước nhẹ nhàng bay lên. “Khi ấy việc buôn bán của tôi mới vào guồng. Tôi tin chắc nếu có thêm ít vốn kiểu gì mọi thứ cũng đâu vào đấy.

“Buôn bán gì cơ?”

“À, một loại kinh doanh khiêu dâm. Cái ngành này lúc nào cũng có xu hướng lạm phát. Gọi là cung vượt quá cầu đấy mà. Thế nên tôi mới đi ngược lại số đông.”

“Nghĩa là sao?” tôi hỏi.

“Công tác đọc sách,” Mizuki đáp.

“Đọc sách?” tôi lại thắc mắc. “Là cầm sách lên rồi đọc ấy ạ?”

“Ừ, đúng rồi. Chẳng nó thì cái gì nữa?”

“Em biết nhưng mà, đọc sách thì liên quan gì đến kinh doanh khiêu dâm?”

“Chính nó là mấu chốt đấy,” Mizuki nói.

“Dạ?”

“Đối tượng là những người già chỉn chu khuôn phép của thế hệ trước. Họ lịch thiệp quá nên cứ thế sống mà chẳng liên quan gì đến cái thế giới này, luôn nhíu mày trước những mời gọi quá lộ liễu. Nhưng nghe ‘công tác đọc sách’ vừa sang trọng lại học thức đúng không? Rồi người này rỉ tai người kia, khách hàng sẽ lũ lượt kéo nhau đến.”

“Tóm lại là sao ạ?”

“Tóm lại là nhé,” Mizuki nói. “Người đọc là phụ nữ tầm khoảng hai mươi, ba mươi tuổi. Họ sẽ đến phòng của khách và đọc tiểu thuyết cho khách nghe. Sách gì tùy khách chọn, nhưng phía người đọc cũng phải mời mọc chút đỉnh. Cả ở khoản kia nữa... mà khoản đó đương nhiên là phần khiêu dâm rồi... phải mỉm cười để ra hiệu ‘Được mà anh’ ấy. Hay dạng như, em có mang vài cuốn sách, giờ em đọc anh nghe nhé? Sau đó họ trưng ra bộ mặt vui vẻ là ông chú kia sẽ trở thành một thính giả tuyệt vời thôi.”

“À ra vậy ạ.”

“Thế đấy. Ban đầu khách hàng gửi mail trực tiếp đến địa chỉ ghi trên danh thiếp, nhưng sớm muộn gì họ cũng truyền tai nhau thôi. Mấy chuyện kiểu này khó mà giữ im lặng được lắm.”

“Thế... thực tế ra sao hả anh?”

“Mới chỉ bắt đầu thôi. Nếu thuê được văn phòng rộng hơn, có nhiều nhân lực hơn thì chắc đã đáp ứng được nhu cầu của khách rồi... Nhưng người làm không đủ, phải từ chối nhiều lắm.”

“Nhưng mà,” Mizuki nói, ngón tay dài day vầng trán đang dần hói. “Cũng kết thúc cả rồi. Cuộc đời mãi mới có tí hay ho, thế mà cơ sự lại thành ra thế này. Cảm giác như thể được gái rắc thính, mới ngoe nguẩy cái đuôi thì bị cho ăn ngay phát cùi chỏ vậy.”

Tôi bật cười.

“Nhưng chị Eriko nghĩ sao về chuyện đó hả anh?”

Mizuki nhún vai.

“Nàng không quen nổi mấy thứ kiểu này đâu. Dạng như mắc bệnh sạch sẽ quá đà ấy. Tôi có bảo cái việc kinh doanh này xuất phát từ lòng thương người thì nàng cũng chẳng thèm nghe. Tôi nói nghiêm túc ấy chứ. Chẳng đúng thế sao? Những cô gái trẻ với giọng nói êm ái sẽ xoa dịu nỗi thống khổ của người già neo đơn (ít người có vợ rồi mà vẫn liên lạc với bọn tôi lắm). Thậm chí còn kéo dài được cả tuổi thọ ấy chứ. Việc tôi làm là thổi bùng ngọn lửa cho ngọn nến phập phù sắp tắt tới nơi. Nghe cũng tệ lắm đâu? Nàng cứng nhắc quá đáng ấy.”

“Cũng có thể,” tôi nói.

Tôi thử nghĩ về người con gái chẳng phải người yêu của mình. Không biết trong cảnh huống này nàng sẽ nói gì nhỉ? Ý tưởng nghe chừng thú vị nhỉ, hay tớ cũng thử cho biết? Hay nàng sẽ nhíu mày và lẳng lặng lắc đầu đây?

“Mà kể ra,” Mizuki tiếp lời. “Ấy cũng là điểm tốt của nàng...”

Anh vươn vai thật mạnh, đoạn giục tôi đi ngủ.

Chúng tôi thảy hết đám củi còn lại vào đống lửa và chui vào túi ngủ của mình.

“À mà,” Mizuki thốt lên như chợt nhớ ra điều gì. “Tên chú em là gì thế?”

“Yuu ạ,” tôi đáp. “Yuu như trong chữ ‘hiền lành’ ấy.”

“Ừ,” Mizuki đáp. “Tên hợp với cậu đấy. Chẳng cảm giác có gì lạ lùng cả.”

“Vâng. Em là kiểu người ở đâu cũng có, chỉ ước được sống bình thường thôi anh.”

“Sống bình thường à,” Mizuki nói và bật cười, “Ừ, quan trọng nhất là cái đấy mà. Trong cái thế giới đảo điên này ấy.

Anh quay lưng lại phía đống lửa, kéo tấm giữ nhiệt của túi ngủ lên tận đầu.

“Tôi ngủ đây, cậu ngủ ngon nhé.”

“Vâng,” tôi gật đầu và kéo khóa túi ngủ đến cằm. “Anh ngủ ngon.”

Tôi chìm vào giấc ngủ ngay sau đó.