Chương 2 Chúng ta ngày ấy
Tốt nghiệp trường nghề, tôi vào học việc ở xưởng của bố. Đương nhiên là làm không lương. Thu nhập của xưởng chẳng nhiều nhặn gì nên điều ấy cũng dễ hiểu.
Thế nên ngoài phụ giúp bố, tôi bắt buộc phải tìm một nguồn thu nhập cho riêng mình.
Vì giỏi thủ công, vẽ tranh cũng tạm được nên tôi thử khá nhiều thứ. Tôi làm những vật dụng nhỏ trong nhà và các món đồ chơi, thứ trước nay vốn chỉ là nghề tay trái của bố, như chao đèn hay hộp khảm gỗ. Ngoài ra tôi còn sao chép những bức họa nổi tiếng như Cây cầu Langlois của Van Gogh hay Vũ nữ của Degas. Nhưng chẳng việc nào hợp với tôi cả. Tôi những muốn trưng ra sự độc đáo của bản thân.
Trong một khoảng thời gian, tôi liên tục mày mò thử nghiệm một cách vô định, chính vào lúc ấy, tôi đã tình cờ đụng trúng mạch vàng. Nói mạch vàng nhưng thực tế đó chỉ là một mạch nước nhỏ, vừa đủ làm dịu cơn khát. Dẫu vậy, mạch nước ấy vẫn đều đặn chảy khá lâu.
Tôi đã kiếm cơm nhờ những chiếc kính vạn hoa. Thiết kế độc đáo của riêng tôi. Những chiếc kính vạn hoa sử dụng thấu kính và lăng kính, có thể nhìn bằng cả hai mắt. Chúng được nhiều cửa hàng ưa chuộng đặt hàng.
Tôi trao đổi với xưởng sản xuất thấu kính, mua sĩ thấu kính lõm với giá rẻ. Thêm nữa lại mua được lượng cần thiết lăng kính rẻ tiền thường dùng cho các thí nghiệm khoa học. Tôi không làm những sản phẩm cần đến độ chính xác cao như kính hiển vi nên vật liệu như vậy là quá đủ rồi.
Cảm giác thật kỳ lạ. Một vật tôi chế tạo trong lớp vẽ thời cấp hai lại có thể nâng đỡ cuộc sống sau này của tôi.
Nếu mình có thể làm kính vạn hoa nhìn được bằng hai mắt với kích cỡ hiện tại thì sao nhỉ, ý tưởng nảy ra hồi ấy đã làm nên sự khác biệt giữa sản phẩm của tôi với đối thủ cạnh tranh, và biến kính vạn hoa thành mạch nước của tôi.
Kính vạn hoa nhìn bằng hai mắt, hình trụ thuôn dần về một đầu, có ba mặt gương. Đây là mặt hàng chủ lực, nhưng tôi vẫn tiếp tục phát triển sản phẩm mới.
“Máy chế tạo hoàng hôn” tôi trao nàng ngày nào tiếp tục có bước tiến hóa độc đáo. Thay vì giấy washi, tôi sử dụng những tấm gương phản xạ có họa tiết nổi ngẫu nhiên trên bề mặt để tạo ra sản phẩm mới. Trong số đó, “Solaris” và “Thần khúc” gây được tiếng vang nhất, thậm chí có một khoảng thời gian tôi chỉ tập trung sản xuất hai mặt hàng đó.
Giờ nghĩ lại, tôi cảm giác trong đầu mình đã có trước những hình dung về khung cảnh tận thế.
Ấy là một khung cảnh tráng lệ như khi ta nhìn xuống một biển mây đen đỏ lẫn lộn, cuộn vào nhau tạo hình xoắn ốc. Nhưng người nhìn vào ống kính sẽ mất đi cảm giác về độ xa gần, tuồng như đang tận mắt chứng kiến sự diệt vong của một hành tinh xa xôi nào đó. Nhìn chung, đó là một sản phẩm khá hợp với những người hưng cảm.
Đến năm thứ hai, tôi ra ngoài ở và có xưởng riêng. Xưởng mới của tôi nằm cạnh chỗ làm việc của bố.
Có một vài sự tình xoay quanh chuyện tôi ra riêng.
Tòa nhà cũ kỹ đó được xây cất từ năm mươi năm trước, phải dùng chung sảnh và nhà vệ sinh, đã vậy lại không có bồn tắm, dẫu khá nhiều bất lợi nhưng tiền thuê rẻ đến ngỡ ngàng nên trong tám phòng thì năm phòng đã có chủ (tôi chiếm phòng số sáu).
Những người dân của tòa nhà tồn tại như những hồn ma vật vờ trong những căn phòng trống trải. Thỉnh thoảng chạm mặt nhau nơi hành lang tù mù, họ lướt qua tôi, thậm chí không liếc nhìn lấy một cái, lầm bầm gì đó với chất giọng trầm đục, đường nét của họ còn chẳng rõ ràng (nhưng có lẽ trong mắt họ, tôi cũng chẳng khác gì).
Các bạn có thể thấy khó tin, nhưng tòa nhà này đã bị trộm đột nhập những hai lần nên chủ nhà bắt buộc phải ra tay củng cố an ninh.
Vấn để ở chỗ, thỉnh thoảng cứ đến đêm tòa nhà lại hoàn toàn chẳng có người.
Cư dân ở đây chủ yếu thuộc kiểu lữ hành ban đêm. Khi màn đêm buông xuống, họ nhẹ nhàng rời tổ, vẩn vơ dạo bước vô định trong bóng tối. Hầu hết các phòng thậm chí còn chẳng khóa cửa. Dù biết những đồ mất cắp chẳng có giá trị gì nhiều nhặn (đài radio bán dẫn cũ, áo len bị thủng, số ngân hàng còn chừng hai mươi nghìn yên, vân vân), nhưng không thể không có biện pháp phòng chống gì.
Thế nên chủ nhà đề nghị cho tôi thuê phòng với giá rẻ bất ngờ, với điều kiện đêm phải ngủ lại, không để trống căn hộ.
Cậu cứ làm thế nào cho hoành tráng vào, người chủ nhà tầm bốn mươi tuổi, hom hem như bộ xương gà di động nói với tôi. Mở tiệc cũng được. Dắt gái về nhà cũng không vấn đề gì. Miễn làm sao cho nhà này có vẻ có người ở.
Thực ra tôi chẳng hề làm gì, nhưng không hiểu sao kẻ gian không còn xuất hiện nữa. Có lẽ đến giờ bọn trộm đều biết tòa nhà này chẳng có gì mà khoắng.
Cuộc sống một mình của tôi đại khái bắt đầu như vậy. Ấy là mùa xuân năm tôi hai mươi tuổi.
Nói vậy nhưng nếp sinh hoạt vẫn không thay đổi gì nhiều. Tôi vẫn ăn cơm cùng bố, dùng bồn tắm ở nhà, thường xuyên qua lại giữa xưởng tôi và xưởng bố để mượn dụng cụ và vật liệu. Tôi vẫn là con chim non mỏ vàng, đuôi hẵng còn dính vỏ trứng.
Công việc của bố dần dần đi xuống. Những chiếc đồng hồ bị kẹt bánh răng ít dần, con người không còn trân trọng đồ vật nữa. Xu thế ấy thể hiện rõ đến mức ngỡ ngàng.
Trong thời đại ngày nay, vứt bỏ đồ đạc mới được coi là đức hạnh. Bởi có thế thì mới làm cho “kinh tế vận hành” được. Vì mục đích cao cả ấy mà cụm từ “mốt năm nay” được sinh ra, con người có thể an tâm mà bỏ đồ mua năm ngoái đi.
Việc sửa chữa thật chẳng cần thiết. Mua rồi bỏ, mua rồi bỏ, khi ta lặp đi lặp lại vòng quay ấy, thế giới quyết liệt tiến nhanh theo hình đồ thị hướng lên cao mãi.
Nhà tôi hoàn toàn đi ngược lại với thời đại. Hầu như không có đồ gì mới, đồ đạc tất thảy đều như những người lính lâu năm, thân thể chằng chịt vết thương, lúc nào cũng tiên phong chinh chiến.
Bình thủy của nhà tôi thoạt nhìn cứ tưởng tủ lạnh cỡ nhỏ. Chẳng biết nó thuộc thời nào. Chúng tôi hay rót nước đã đun sôi vào đó để giữ nóng. Không có dây điện, cũng không có nút rót nước. Nhưng nhà tôi gọi nó là bình thủy nên tên nó là vậy.
Dao thái thịt mài nhiều quá nên giờ cùn như dao gọt hoa quả.
“Bố mua cái này hồi mới cưới.” Bố kể. “Những đồ vật của ký ức nhỉ.”
Những vật dụng được mua đồng thời khi ấy: máy giặt, tủ lạnh, nồi cơm, vân vân, tất cả đều đang được sử dụng một cách nghiễm nhiên. Cái nào cũng rất đơn giản, thậm chí còn toát lên một cảm giác hiện đại.
Kể cả khi có những thứ đã hỏng hẳn, không còn thực hiện được tính năng nguyên bản của chúng nữa, gia đình tôi lại giao cho chúng một nhiệm vụ mới và giúp chúng tái sinh.
Đến giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, nhà tôi hồi đó có một chiếc máy hút bụi bị cháy động cơ, không dùng được nữa, nhưng sau khi gắn vào đó một chiếc vô lăng tự chế, nó đã chuyển hóa thành ô tô đồ chơi cho trẻ con. Khi đạp hai chân xuống đất, chiếc xe sẽ tiến về phía trước, nó có sự thanh lịch (thân xe hẹp, dáng thuôn) vốn không tồn tại ở những chiếc xe gắn bàn đạp.
Khi tôi cưỡi xe tới công viên, lũ trẻ xung quanh nhìn tôi với ánh mắt ghen tị. Tôi tự hào lắm. Thậm chí có đứa còn hỏi “Cái này bán ở đâu thế?” Thiết kế của món đồ chơi đó độc đáo tới vậy đấy.
Máy khâu, bàn là và máy nướng bánh mì được truyền từ thời ông nội tới giờ. Còn có những vật dụng kỳ bí, không biết sử dụng thế nào. Ông nội tôi làm chủ một xưởng dệt, nên có lẽ cái máy đó dùng để cuốn hoặc nhả sợi cũng nên.
Kể cả quần áo giày dép cũng vậy. Trang phục mỗi khi bị rách sẽ được khâu lại đâu vào đấy, nếu không sửa được thì tách nhỏ ra thành từng phần, biến thành vật liệu cho các bộ quần áo khác. Nếu vẫn không được nữa thì cho làm giẻ lau, dùng nhiệt tình cho đến khi chỉ bung hết, vải mủn ra. Nguyên nhân lìa đời của chúng ắt hẳn chỉ là tuổi già. Ôm ấp đồ đạc cho đến ngày chúng tận số. Đó là tôn chỉ của gia đình tôi.
Bố quyết định làm nghề “sửa chữa” chắc chắn cũng vì bản tính này của ông. Bố là thợ chuyên nghiệp nên tay nghề sửa chữa rất hoàn hảo, không những thế bố cũng vô cùng chỉn chu trong công đoạn hoàn thiện sản phẩm. Vậy nên đồ đạc nhà tôi dù cũ kỹ nhưng không hề xấu xí. Cũng giống như chiếc máy hút bụi tôi vừa kể, chúng sẽ được thêm thắt những chi tiết mới, thậm chí được tái sinh trong hình hài duyên dáng hơn cả trước đây.
“Một khi đã kết duyên, cả đời không cắt đứt.” Bố lúc nào cũng nói vậy. “Với đồ vật cũng thế, mà con người cũng vậy.”
“Vậy với mẹ cũng thế ạ?” Tôi từng hỏi khi còn nhỏ.
“Đúng rồi. Đến giờ vẫn kết nối đấy.”
“Nhưng mẹ mất rồi mà.”
“Ừ, nhưng chuyện đó không liên quan gì.”
“Thế hả bố?”
“Bố thấy thời gian như dòng chảy của con sông nên nghĩ như vậy đấy.”
“Là sao ạ?”
“Bố sống trong mọi thời điểm như đang sống trong hiện tại. Con không thế à?”
“Con không rõ lắm.”
“Hình như trong nghiên cứu hoạt động của não bộ người ta gọi đây là ‘bộc phát ký ức’ thì phải. Nhưng bố đơn giản chỉ đồng thời sống mọi thời đại trong cùng một thời điểm thôi. Não bộ con người ngay từ đầu đã có tính năng ấy rồi mà. Trái tim của chúng ta du hành trong thời gian. Nhanh hơn cả ánh sáng nữa con à.”
“Vậy ạ?”
“Ừ. Tim ta không phải đồ vật. Nên nó tự do.”
“Vâng...”
“Mà giờ con chưa hiểu cũng không sao cả. Đại khái là, đến tận giờ phút này mẹ vẫn ở cùng bố. Khi nói chuyện với con, bố lại bị hớp hồn bởi vẻ đẹp rạng rỡ của mẹ con hồi mười lăm tuổi.”
“Mẹ có ở đó ạ?”
“Ừ. Mẹ nhìn hoàng hôn và mỉm cười rất nhẹ.”
“Nhưng con không nhìn thấy.”
“Một lúc nào đó con cũng sẽ nhìn thấy thôi.”
Nhưng hình như tôi không có được năng lực ấy. Dù gặp hình bóng mẹ trong mơ, tôi vẫn ước gì khi tỉnh giấc cũng nhìn thấy mẹ, nhưng điều ấy quả thực bất khả thi. Có lẽ trái tim tôi không tự do bằng bố.
Mẹ tôi rất đẹp. Nhưng không phải kiểu đẹp giống mẹ Hiroyuki. Mẹ đẹp mạnh mẽ, giản dị như bông hoa đồng nội thân rung rinh ngẩng cao đầu trước gió. Tôi yêu vẻ đẹp ấy của mẹ vô cùng.
Đáng tiếc thay, tôi giống bố. Tuy dáng người cao gầy giống mẹ (bố tôi lùn, vạm vỡ), nhưng mặt thì giống bố như đúc. Lông mày đậm, mắt như mắt vẹt, mũi nhọn (từa tựa mủi tên trỏ xuống chỉ ‘dưới này có miệng’ vậy), gò má lõm vào như chiếc thìa.
Nhà của mẹ cách đây không xa lắm. Bố mẹ quen nhau từ ngày nhỏ.
Hai người học chung lớp mấy lần hồi cấp một, cấp hai. Lên cấp ba học khác trường, nhưng vẫn giữ mối quan hệ xã giao đến tận lúc trưởng thành.
Mẹ thời ấy là nàng Madonna trong lòng đám nam sinh và được cả các bạn nữ ngưỡng mộ. Trong mắt một cậu trai thô kệch như bố tôi, mẹ tồn tại như một sinh thể xa vời, hoàn toàn chẳng hề có mối liên hệ nào giữa hai người (ít nhất, ấy là bố nghĩ vậy).
Thế thì tại sao hai người lại đến với nhau?
Từ những điều bố mẹ kể cho nghe từ nhỏ, tôi tổng hợp được câu chuyện như sau (cũng thêm thắt khá nhiều tưởng tượng của riêng tôi nữa, nhưng chắc không sai lệch nhiều lắm). Câu chuyện này đã tiếp cho tôi rất nhiều dũng khí.
Ngày xửa ngày xưa, mà nói vậy thôi chứ thực ra mới nửa thế kỷ trước, ở thị trấn này có một cậu trai nhỏ người và một thiếu nữ rất xinh đẹp.
Tên thiếu nữ đó là Yumiko.
Nàng không chỉ đẹp mà còn học giỏi, đến thể thao cũng là thế mạnh của nàng. Yumiko là vận động viên nhảy cao, dáng vẻ nàng khi chạy nhìn như con hoẵng.
Nhưng tôi lại chạy chậm.
Có lần tôi hỏi bố về chuyện này, bố gật đầu nói.
“Ừ. Con giống bố. Bố con mình đi bộ chứ không chạy. Giữa thỏ với rùa thì chúng ta giống rùa. Bản chất là vậy mà.”
“Thế là tốt hả bố?”
“Chẳng tốt cũng chẳng xấu. Con người luôn sống cùng bản tính ấy mà. Rất lặng lẽ con à. Người ta chẳng nói con cua lượng kích cỡ mai mình để đào hố còn gì?”
“Con không biết có câu đó. Lần đầu con nghe đấy.”
“Thế à, vậy là lại học thêm được một cách nói mới rồi nhé.”
“Vâng. Vậy tóm lại đây là câu chuyện của hoẵng, rùa và cua phải không bố?”
“Ừ, đúng thế đấy.”
Yumiko rất nổi tiếng trong đám bạn. Trái lại, Takurou (tên bố tôi) nói thẳng ra là một cậu trai bình thường, nhỏ thó, chìm nghỉm dưới hạng bét lớp.
Tại sao lại thế? Cũng giống như tôi, bạn học của hai người quả nhiên đều nghĩ vậy. Đến bản thân Takurou còn thắc mắc.
Kỳ lạ thật. Tại sao mình chỉ có thế này mà nàng vẫn đối xử tốt đến như vậy? Ít nhất thì cậu không phải kiểu người thu hút phái nữ. Vận động cũng yếu. Học không nổi trội. Chỉ riêng chuyện máy móc thì rất rành, nhưng con gái bình thường không hứng thú với mấy thứ đó.
Nhưng Yumiko thì khác.
Có lẽ bởi nàng chịu ảnh hưởng từ cha mình (ông ngoại tôi) cũng nên.
Cha của Yumiko là một nhà toán học nghiên cứu về vô cực. Duy có điều dường như vấn đề ông thử thách bản thân có phần hơi quá sức, nên chẳng bao lâu ông mắc chứng rối loạn tâm lý, sau đó tự mình vào viện an dưỡng dành cho những đối tượng bệnh nhân như thế.
Vào viện rồi, ông vẫn cứng nhắc như mọi khi. Cho đến những ngày cuối, ông vẫn một mực giữ trọn phẩm giá, miệt mài nghiên cứu mãi tận khi lìa đời.
Ông cả đời chưa một lần thay đổi trang phục gồm bộ com-lê và chiếc mũ nỉ màu đen. Bất kể ngày nắng hay ngày mưa, ông không bao giờ rời tay khỏi chiếc ô đen. Ông lẩm bẩm một mình điều gì đó và nguệch ngoạc những chữ số lên mặt đất bằng đầu nhọn của chiếc ô. Ấy là bộ dạng cố hữu của ông trong viện an dưỡng.
Yumiko lớn lên với hình bóng một người cha như vậy nên hơi có xu hướng “bị thu hút bởi những kẻ lập dị”.
Từ quan điểm đánh giá của nàng, Takurou là một người tuyệt đỉnh đẹp trai.
“Vậy hóa ra là mẹ để ý bố trước à?” Tôi hỏi.
“Ừ, chắc thế,” bố đáp. “Tất nhiên bố cũng chú ý tới sự hiện diện của mẹ từ trước, nhưng mẹ rực rỡ quá nên không sao nhìn cho rõ được. Hồi đó bố còn nghĩ, nhìn mẹ con trực diện chắc võng mạc bố cũng đến nước bốc hỏa, lúc ấy chẳng còn đường nào mà rút nữa.”
Takurou khi ấy lòng đầy hoài nghi, nhưng Yumiko đối xử với cậu vô cùng tốt. Nàng chép bài hộ khi cậu lơ đễnh trong giờ học. Cậu quên cơm hộp ở nhà, nàng sẻ phần của mình cho cậu.
Cả bữa ăn, nàng chăm chú ngắm gương mặt cậu. Takurou ngại ngùng không sao tả xiết, thậm chí còn chẳng biết mình đang ăn gì. Lũ bạn học trong lớp xôn xao. Bỗng dưng trở thành tâm điểm chú ý của mọi người, Takurou bối rối vô cùng...
Yumiko cứ bám dính lấy cậu mọi lúc như thế. Nếu đi dã ngoại cùng cả lớp, nàng luôn đi bên cạnh Takurou như một lẽ đương nhiên. Khi ghép cặp nam nữ trong giờ sinh hoạt để làm bài tập nuôi cây dương xỉ từ tế bào, nàng cũng chọn Takurou làm bạn cùng cặp.
Thế nhưng, lựa chọn này của Yumiko lại hoàn toàn chính xác. Takurou đã nhiều lần trồng thành công loài cây này. Nhà cậu trồng khá nhiều dương xỉ. Biết điều đó, nàng ngạc nhiên và mừng rỡ vô cùng.
Đương nhiên, bài tập nuôi dương xỉ của Takurou và Yumiko đã thành công rực rỡ. Hai người làm nhiều tế bào nảy mầm hơn tất cả các nhóm khác, đã vậy cây nào cây nấy còn lớn gần bằng thể bào tử.
Vốn hiểu biết của Takurou bị lệch nặng. Cậu tinh thông những mảng kỹ thuật máy móc, sinh học, địa lý, thiên văn đến mức làm người ta ngỡ ngàng, nhưng học đến cấp hai rồi mà vẫn không biết chính phủ nước mình gồm hai nghị viện độc lập. Tên thủ tướng cậu không biết, tên của những nam diễn viên và nữ minh tinh mà các bạn học đồng trang lứa đều mê mẩn cậu cũng chẳng rõ nốt.
Sách yêu thích của Takurou là vô số những cuốn bách khoa thư và sách có tranh minh họa chất đầy ở nhà (con trai của Takurou là tôi đây cũng đâm ra mê thích chúng). Trong đó thậm chí có cả cuốn Bách khoa thư Britannica bản tiếng Anh do Công ty Sears & Roebuck phát hành. Cha Takurou đã mua tất cả chỗ sách đó khi việc làm ăn của xưởng hẵng còn khấm khá.
Lớn lên giữa sách và máy móc dệt may, Takurou trở thành một chàng thanh niên có bộ óc phản chiếu đúng môi trường đã nuôi nấng mình. Cậu thường trò chuyện với Yumiko về tên của những loài thực vật và côn trùng, nguồn gốc của những vì sao, về mối liên hệ giữa màu sắc của đèn phóng điện và khí trơ, về bộ chuyển động Tourbillon của đồng hồ cơ, vân vân... hoàn toàn không phải những chủ đề mà các cặp nam nữ sắp đến tuổi dựng vợ gả chồng thường bàn luận.
Nhưng dù thế... hay nói đúng hơn là chính vì vậy, Yumiko chưa bao giờ rời xa Takurou. Dù hai người học khác trường cấp ba, kể cả khi Takurou đi học nghề sửa chữa đồng hồ (gia cảnh nhà cậu khi ấy đã hoàn toàn khánh kiệt), còn bản thân nàng thì vào Đại học Mỹ thuật, Yumiko vẫn tiếp tục thường xuyên qua lại chỗ Takurou.
Thế nhưng, giữa hai người đó cũng có một lần xảy ra trục trặc. Yumiko là một người phụ nữ quá đỗi tuyệt vời, chính điều ấy đã làm Takurou e sợ.
Sau khi tốt nghiệp đại học một thời gian, Yumiko bắt đầu vào làm cho một xưởng thiết kế nhỏ ở thị trấn lân cận, đúng như nguyên vọng của nàng. Quy mô tuy nhỏ, nhưng đó là một xưởng thiết kế rất nổi tiếng, đã sản xuất những mẫu logo và bao bì mà ai nấy đều biết tới.
Nàng nhanh chóng được giao những trọng trách lớn. Tất cả các mẫu thiết kế của nàng đều được đánh giá cao, sự xuất hiện của nàng trong giới trở thành chủ đề cho người ta bàn tán. Những con người hào nhoáng vây quanh nàng như đám mây bảy sắc.
Trong mắt Takurou, Yumiko khi ấy chói lóa vô cùng. Nàng mới chỉ bắt đầu đưa mái chèo hướng con thuyền ra đại dương tiềm năng. Từ nay về sau thế giới của nàng sẽ còn mở rộng thêm ngàn lần. Nơi nàng hướng tới là một chân trời xa tít tắp.
Trái lại, cuộc sống của Takurou chỉ mỗi lúc một nhàm tẻ, thế giới của cậu thậm chí trông như thể đang thu hẹp lại. Những mối quan hệ bị dồn ép đến giới hạn tối thiểu, đời sống thường nhật tuồng như đã bị đóng dấu niêm phong, tiền đồ tương lai mù mịt... nhưng đương nhiên, đó là điều chính bản thân Takurou mong muốn.
Cậu là con người của thói quen. Cậu yêu thích việc lặp đi lặp lại những điều đã được định sẵn. Cùng một nơi chốn, cùng một công việc, cùng những mối thân quen cũ. Một lần kết duyên, cả đời không cắt đứt. Tóm lại là vậy.
Hằng ngày, vào cùng một thời điểm, Takurou mặc cùng một kiểu quần áo, đi một con đường duy nhất tới chỗ làm. Cậu mua sẵn năm chiếc áo sơ mi trắng cơ bản của cùng một hãng, hai chiếc áo khoác màu xám mặc mùa đông và thu xuân. Nửa đầu năm cậu mặc luân phiên hai chiếc quần cotton, nửa cuối năm cậu thay bằng hai chiếc quần len.
Takurou chặt chẽ về thời gian, trung thành với quyển lịch. Nói cậu sinh ra để làm thợ sửa chữa đồng hồ cũng chẳng ngoa.
Cậu được cha tặng một chiếc đồng hồ quả quýt. Một chiếc đồng hồ chronograph của hãng Lemania.
Hồi nhỏ, Takurou có thói quen sử dụng chức năng bấm giờ của đồng hồ để đo nhịp mạch đập.
Cậu mày mò nhiều cách thức để kiểm soát mạch của mình.
Takurou nín thở hoặc thở ngắt từng nhịp một. Sáu mươi giây, sáu mươi nhịp, đó là số đo lý tưởng của cậu. Khi làm vậy, cậu cảm giác mình có thể trở thành một con người vô cùng chuẩn xác.
Cậu gắn đồng hồ và lịch lên con người mình. Cuộc đời cậu như thể được vạch sẵn thời gian biểu. Ấy vậy nhưng đó mới là cách sống lý tưởng của Takurou.
Cách nghĩ đó của bố tôi đến giờ vẫn y nguyên.
Ông ghét sự thay đổi nên ghét luôn cả sự trưởng thành và mở rộng. Thế nên ông chỉ mong sống chắt bóp hết mức có thể. Tiền chỉ cần đủ cho nhu cầu tối thiểu là được. Ông tin rằng phú quý là một thứ đáng khinh, bao nhiêu bất hạnh cũng từ đó mà sinh sôi cả.
Có ông chủ một phòng triển lãm ở đâu đó đã nhìn ra giá trị nghệ thuật trong món đồ chơi gắn bộ máy chuyển động, sản phẩm từ nghề tay trái của bố - một con cá nhà táng bằng đồng thau nhẹ nhàng ngụp lặn giữa đại dương màu đồng. Khi ông ta tỏ ý muốn mua món đồ chơi đó với mức giá cao đến giật mình, bố tôi hiếm khi nổi giận như thế và thẳng thừng từ chối.
“Đây là đồ chơi cho trẻ con, không phải thứ làm ra để mua vui cho lũ nhà giàu!”
Mọi sự đều diễn ra như thế, tiền tài lúc nào cũng lướt ngang qua nhà tôi, không ghé lại.
Quay về chuyện chính...
Takurou cũng nhận thức được chuẩn mực của bản thân cậu rất khác người.
Cậu sống ở một thời đại xa xăm nào đó, dựa vào những tiêu chuẩn đạo đức và quan điểm thẩm mỹ của một vương quốc hoàn toàn cách biệt với nơi đây. Ở đất nước nơi tiền bạc và quyền lực được ca tụng này, người như cậu bị người ta đối xử như những kẻ thua cuộc.
Và rồi cậu nghĩ. Liệu cậu có thể kéo nàng vào cuộc sống hiện giờ của mình hay chăng? Chẳng phải một người đàn ông khác, một người có thể nâng nàng lên cao hơn, mới phù hợp với vị trí hiện tại của cậu, tức là ở bên cạnh nàng, hay sao?
Bình thường Takurou chẳng lo lắng gì. Cậu khi nào cũng điềm đạm tới độ người xung quanh còn thắc mắc, chẳng hiểu đó là sự bình tĩnh của một kẻ trắng tay, hay do đầu óc cậu ta không nhạy bén.
Thế nhưng lúc đó, Takurou vẫn còn trẻ đến nỗi có thể gọi là còn non xanh, tương lai mở ra trước mắt cậu và nàng, muốn chọn lựa thế nào tùy thích. Takurou sợ hãi khi nhìn thấy viễn cảnh Yumiko trượt khỏi cuộc đời mình.
Cậu thực sự có thể nhìn rõ mồn một cảnh huống ấy (Takurou hơi có chiều hướng tưởng tượng quá đà).
Takurou vốn chẳng tham lam nên không ôm hy vọng gì nhiều nhặn về hạnh phúc của bản thân. Ở thời điểm đó, cậu còn cảm giác rằng Yumiko đã cho cậu quá đủ rồi. Đến mức cậu nghĩ, từ giờ trở đi chúng sẽ chỉ hao bớt từng chút một như tiền lương hưu.
Giờ đã đến lượt nàng nắm giữ hạnh phúc cho riêng mình.
Takurou nghĩ vậy nên gọi Yumiko ra nói chuyện, bảo nàng anh muốn chúng ta giữ khoảng cách một thời gian. Cậu không thể nói “Mình chia tay đi” được. Mà chính cậu cũng không biết chắc liệu hai người thế đã là hẹn hò chưa, Takurou cho rằng nếu giữ khoảng cách, hình bóng cậu sẽ dần mờ phai, đến một lúc nào đó Yumiko cũng sẽ vui tươi trở lại.
Ngay sau đó, nước mắt trào ra từ hai khóe mi nàng.
“Em xin lỗi,” nàng nói. “Em phiền phức quá phải không?”
“Không phải vậy đâu...” Takurou đáp, nhưng giọng nói của cậu hình như chẳng chạm đến tai nàng.
“Anh thích ai đó khác rồi à?” Nàng hỏi.
Takurou lắc đầu nhưng Yumiko không nhìn thấy. Nàng nắm chặt phần dưới của chiếc váy liền thân, cúi gằm mặt xuống, nước mắt lã chã rơi.
“Chẳng hiểu sao,” cuối cùng nàng nghẹn ngào. “Bây giờ, em không còn...”
Sau đó nàng òa lên khóc như đứa trẻ con.
Đây là lần đầu tiên Takurou nhìn thấy nàng mất bình tĩnh đến nhường này. Cậu bối rối vô cùng bởi trước nay chỉ biết tới hình ảnh một Yumiko chín chắn.
Tim cậu đập rộn lên. Ấy là một cảm giác rất đỗi lạ lùng. Cậu thấy bộ dạng nàng khi nức nở đáng yêu vô ngần, đồng thời cũng nhận ra mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp.
Một sự ngạc nhiên mới mẻ dấy lên trong lòng Takurou.
Người con gái mà cậu cứ ngỡ mình đã hiểu quá rõ, hóa ra là một người sâu sắc hơn cậu tưởng nhiều... Giây phút cậu nhận ra điều đó có thể coi là một khoảnh khắc thần thánh.
Trong khi bản thân chẳng hề nhận ra, lần đầu trong đời Takurou đã rơi vào tình yêu. Một cú rơi rất mạnh, cả người lộn nhào. Lực hấp dẫn của nàng ngang ngửa dải Ngân Hà.
Takurou là ông vua dậy thì muộn. Nhưng sau đó nghĩ lại thì cậu còn phát triển sớm nữa là khác.
Thực lòng mà nói, cậu không biết Yumiko lại ngờ nghệch đến thế này. Thậm chí còn hơn cả mình nữa, cậu trộm nghĩ.
Nàng hoàn toàn không nhận ra sự quyến rũ của mình. Thế giới có lộn nhào đi chăng nữa thì cũng chẳng đời nào có chuyện Takurou rung động trước người con gái nào khác ngoài nàng kia mà.
Cậu không muốn xa nàng. Suy nghĩ ấy bùng lên mạnh mẽ trong lòng Takurou.
Ý nghĩ đó chuyển hóa thành hành động. Cậu vươn tay ra, những muốn níu lấy cánh tay Yumiko. Nhưng đúng lúc ấy, nàng xoay lưng và chạy vụt đi. Bàn tay Takurou chộp được một vốc không khí. Sau đó chỉ còn nghe mùi hương nàng phảng phất.
Takurou cố đuổi theo Yumiko chừng mười mét, nhưng nàng đã lao biến đi với vận tốc gấp mấy lần cậu.
Có đáng buồn không cơ chứ... Rùa làm sao đuổi kịp hoẵng được.
Đêm đó, Takurou suy nghĩ rất lung rồi quyết định viết thư.
“Xin lỗi em về chuyện ban sáng,” cậu viết.
“Anh bị làm sao mất rồi. Cứ nghĩ mình không xứng với em rồi hoài nghi mãi. Anh đã không còn nhìn thấy ý nghĩa của niềm hạnh phúc, đã quên mất rằng nam nữ cuốn hút nhau và sống cùng nhau không phải để tạo ra thành tựu vật chất, mà ngược lại, để tâm trí luôn được trong sáng với suy nghĩ ngoài chuyện hai ta ở bên nhau thì chẳng cần điều gì khác nữa cả.
Mỉa mai thật đấy. Khi ném những lời đó vào em, lòng anh lại mang những suy nghĩ trái ngược hẳn với những câu từ chính miệng anh thốt ra. Anh biết anh không muốn em rời xa..
Nếu em tha thứ cho anh, anh mong em từ giờ luôn ở bên anh. Nếu được như vậy, anh sẽ vì em mà xướng tên sao trời. Anh sẽ thuật lại bí mật chuyện yêu đương của loài bươm bướm, sẽ tiết lộ vận mệnh của chiếc đồng hồ được đặt theo tên nữ hoàng Marie Antoinette.
Thế nên, em làm ơn tha thứ cho anh...
Tái bút: Anh sẽ không bao giờ phải lòng người con gái nào khác ngoài em, Không đời nào, không đời nào, không đời nào!
Yoshizawa Takurou.”
Lá thư vẫn nằm lặng lẽ trong ngăn kéo bàn trang điểm của mẹ. Lần đầu đọc nó tôi đã hỏi bố.
“Thật ạ? Bố viết thư này thật ạ?”
“Ừ,” bố đáp. “Có gì không ổn hả con?”
“Không ạ...”
Tôi sẽ không bao giờ viết được một lá thư như thế. Không đời nào, không đời nào...
Đôi khi tôi không hiểu nổi bố. Phải chăng đâu đó trong con người mong muốn một cuộc đời vạch sẵn thời gian biểu như bố cũng ẩn giấu ngần này lãng mạn? Trong sâu thẳm lồng ngực đều đặn phát ra những âm thanh tích tắc theo nhịp sáu mươi lần trên sáu mươi giây ấy, có lẽ sự lãng mạn vẫn lẩn khuất trong những khe hở nhỏ giữa vô vàn bánh răng và lò xo? Ấy là một sự phối hợp không mấy chuẩn xác, nhưng chắc chắn chính tay bố tôi đã viết bức thư đó.
Takurou bỏ lá thư mới viết vào túi áo trước ngực rồi phóng xe đạp tới nhà Yumiko. Hai nhà cách nhau chừng năm phút. Lúc ấy đã tầm nửa đêm.
Phòng nàng ở tầng hai. Takurou nhặt một hòn đá kích cỡ thích hợp lăn lóc bên vệ đường, buộc lá thư vào đó rồi nhắm hướng phòng nàng mà ném (cậu đã thấy người ta dùng chiêu này trên phim).
Nhưng vấn đề ở chỗ, Takurou kém cỏi trong khoản vận động đến độ vô vọng. Cậu còn chưa chơi ném bắt bóng với bạn bao giờ.
Lá thư cậu buộc vào hòn đá không đạt được lộ trình mong muốn và hạ cánh xuống cửa sổ tầng một. Những cảm xúc nồng nhiệt của Takurou vạch một đường gần như thẳng tưng, bay xuyên qua cửa kính và lọt hẳn vào nhà nàng.
Một âm thanh lớn đến sững sờ vang lên. Ngay lập tức, tất cả các phòng đều bật điện, Takurou biết rõ trong nhà đang rối rít hết cả.
Cậu bỏ chạy.
Bởi không còn cách nào khác. Nếu bị hỏi tại sao lại đi làm loạn nhà người ta thì cậu đâu biết phải giải trình thế nào.
Chiều tối hôm sau, Yumiko ghé nhà Takurou. Nàng lẳng lặng chìa ra một tờ giấy. Cậu cầm lấy và liếc sơ qua, ấy là hóa đơn tiền thay kính.
“Của mẹ em đấy,” nàng nói. “Còn cái này là của em.”
Đoạn nàng hơi nghiêng người một chút và đặt một nụ hôn lên má Takurou.
Giây phút ấy, Takurou đã nhận ra một điều. Rằng mối nhân duyên một lần kết nối sẽ không bao giờ bị cắt đứt.
Hai người trở thành một cặp đôi rất hòa hợp, gần mười năm sau thì kết nghĩa vợ chồng. Lý do họ cưới muộn là bởi Yumiko còn phải chăm sóc cha mình - nhà toán học dũng cảm thách thức vô cực. Ngoài toán ra, nhà toán học đại tài ấy chỉ sở hữu năng lực ngang bằng học sinh tiểu học trong mọi lĩnh vực khác. Mẹ nàng - hay bà ngoại tôi - sức khỏe cũng không tốt lắm nên con gái đầu lòng là mẹ phải lo cho cả hai vị thân sinh.
Mãi đến khi cha Yumiko tự quyết định vào viện an dưỡng, Yumiko và Takurou mới có thể cử hành hôn lễ. Bảy năm sau, hai người chào đón sự ra đời của một bé trai (đương nhiên đó là tôi).
Có lần bố đã nói với tôi thế này.
“Chẳng có hạnh phúc nào sánh bằng niềm vui sướng khi có người mình yêu, đồng thời cũng là người nói yêu mình ở bên đâu con ạ. Bố yêu mẹ con như thể không có ngày mai vậy. Để không sót lại dù chỉ một phần hối tiếc ấy mà. Thế nên khi mẹ con qua đời, không thấy bố khóc, mọi người nói bố lạnh lùng, nhưng thực ra khi ấy trong bố đầy ắp cảm tưởng mình đã làm trọn được bổn phận. Đời sống tằn tiện thật (vì thu nhập của mẹ phần nhiều gửi về nhà ngoại), nhưng chúng ta giàu có như vua chúa vậy. Những báu vật ngập tràn lãnh thổ nhỏ xíu này, ấy chính là tình yêu, sự cảm thông và cảm giác viên mãn rất bình yên. Bố là vua, mẹ là hoàng hậu, còn con là hoàng tử đáng yêu của bố mẹ.”
“Con là hoàng tử ư?”
“Đúng rồi. Trẻ con trên đời ai cũng là hoàng tử hết. Trong vương quốc tình yêu ấy mà. Ở một phương diện nào đó, tất cả chúng ta đều ngậm thìa bạc từ trong trứng nước. Khác biệt chỉ ở chỗ chiếc thìa bạc ấy vô hình hay hữu hình mà thôi.”
“Vậy hả bố?”
“Ừ,” bố đáp. “Nếu hữu hình thì chẳng có gì to tát lắm. Nó có giới hạn, một ngày nào đó cũng phải biến mất thôi. Nhưng nếu vô hình thì...”
Bố nói và vung cánh tay rộng hết cỡ.
“Chẳng có tận cùng, cũng chẳng có kết thúc.”
❖ ❖ ❖
Từ lúc đó trở đi, trong đầu tôi chỉ có đúng một suy nghĩ.
Nàng với tôi chẳng phải cũng giống như mẹ với bố sao? Một lần kết duyên, cả đời không cắt đứt. Mãi mãi.
Sáu năm đã trôi qua từ ngày nàng rời thị trấn. Nhưng cảm xúc chưa hề đổi khác, vẫn nằm nguyên trong trái tim tôi.
Bố đã viết lá thư đó. Vậy tôi cũng viết được. Nhưng gửi đi đâu bây giờ?