← Quay lại trang sách

Chương 2 (tt) Chúng ta ngày ấy

Rốt cuộc, tôi và nàng hội ngộ cũng ở dưới chân tòa tháp thép đó.

Từ ngày nàng ra đi, tôi vẫn tới tòa tháp và quanh quẩn ở đó một mình đến khi mặt trời lặn.

Mùa thu đã về tới, tiết trời hôm ấy hơi lành lạnh. Mây trôi lững lờ gần rặng núi, điều kiện thời tiết “thuận lợi” để ngắm được hoàng hôn. Mây mà dày quá, che hết cả ánh nắng mặt trời thì sẽ chẳng lấy đâu ra hoàng hôn cả. Nhưng nếu mỏng quá, bầu trời sẽ cứ mãi là tấm vải nhuộm vàng, chẳng thể đổi sang sắc đỏ, giống như thứ phẩm màu bị thiếu mất thành phần hóa học nào đó vậy.

Khi tôi tới chỗ tòa tháp, bầu trời đã dần chuyển từ vàng sang đỏ. Một sắc đỏ son làm tim ta đập rộn ràng.

Ngắm hoàng hôn, tôi lại hồi tưởng nhiều điều.

Chuyện tôi và nàng đã từng chụp ảnh kỷ niệm ở đây. Cú nhảy chẳng ra hồn của Hiroyuki khi cậu ta cố biến thành con sóc bay nhưng không thành. Bài ca nhạc folk xưa cũ nàng lẩm nhẩm hát (nàng đã nói ấy là một khúc hát kể về người con gái rơi lệ khi nghĩ về người yêu nơi phương xa). Chuyện vào lễ bế mạc năm học, tôi đã đứng đây đợi nàng mãi, sau đó nằm bẹp vì sốt (tôi suýt bị viêm phổi).

Bỗng dưng thấy hoài niệm, tôi lẩm nhẩm hát bài “Holdiridia” như khi trước.

Ngày xuân tươi đẹp, Holdiridia, Holdiridia...

Mây trắng bay, Holdiridia, Holdiridia...

Đối với tôi, bài hát ấy như nhạc nền cho những tháng ngày êm đẹp đã trôi xa. Ngân nga bài hát, nỗi đau nhức nhối lại lan tỏa trong lồng ngực, nước mắt như sắp trào ra tới nơi.

Tôi khụt khịt mũi, bất giác đưa mắt liếc nhìn con đường có hàng cây hai bên thì thấy bóng người đang đi lại gần mình. Một cô gái trẻ.

Chẳng có lẽ nào...

Tôi nhanh chóng phủ nhận ý nghĩ mới hiển hiện trong đầu. Không thể có chuyện đó được. Nhưng mà...

Tôi đứng chôn chân tại chỗ, gần như hóa đá. Dẫu vậy tôi vẫn tiếp tục hát. Cứ như thể trong lồng ngực tôi có một chiếc bánh đà nhỏ, sử dụng cơ cấu cam hay ống bễ gì đó để tự động phát ra tiếng hát.

Cuối cùng người con gái ấy cũng rời con đường có hàng cây và bước về phía bụi rậm nơi tôi đang đứng. Bất chợt tôi có một cảm giác vô cùng quen thuộc.

“Yoshizawa,” nàng gọi tôi. “Cậu làm gì thế? Tập hát à?”

“Shira... kawa?”

Giọng tôi nghe khá ngớ ngẩn.

Nàng đã trưởng thành tới mức khó lòng nhận ra được. Nàng cao lên, ngực nở, vòng hông cũng đầy đặn hơn hẳn thời cấp hai. Vóc dáng vẫn mảnh khảnh, nhưng có lẽ bởi vậy nên những đường cong trên cơ thể mềm mại của nàng lại càng thêm phần quyến rũ.

Nàng mặc chiếc áo sơ mi vô cùng đơn giản cùng chân váy màu nâu đỏ và khoác một chiếc áo cardigan màu vàng kem. Nàng không đeo kính (sau đó hỏi ra mới biết nàng đã chuyển sang dùng kính áp tròng).

“Trùng hợp thật nhỉ...”

Nghe tôi nói thế, nàng cũng nhẹ nhàng đáp lại, “Ừ, trùng hợp thật.”

Sau đó hai đứa phá lên cười ngặt nghẽo. Cười đến mức tôi còn tự hỏi chẳng biết lần cuối mình cười thế này là bao giờ.

Tôi nghĩ chúng tôi đã nhẹ nhõm hơn rất nhiều, theo một vài ý nghĩa nào đó.

Tỉ như chuyện chúng tôi đã diễn tròn vai mình trong cuộc tái ngộ của hai đứa (trong khi hoàn toàn có khả năng tôi đỏ lựng mặt và cúi gằm xuống như lần đầu gặp nàng, cái tính nhút nhát đến mức độ bệnh lý chính là như vậy), hay chuyện chúng tôi vẫn chạm được vào tóc mai của nữ thần duyên phận (tôi và nàng chẳng hứa hẹn gì. Dù có ước mong được gặp nhau đến nhường nào thì việc lời nguyện cầu ấy trở thành sự thật cũng chỉ có thể là do một chút ngẫu hứng của định mệnh. Thế nên chuyện chúng tôi có thể gặp lại nhau nơi đây chính là một phép mầu. Điều đó có nghĩa tôi và nàng vẫn chưa bị nữ thần duyên phận bỏ rơi), tất cả đơn giản đều làm tôi vui sướng khôn cùng. Đây chẳng phải bài hát của ai cả, nhưng khi không có nàng, thế giới chẳng hề toàn vẹn, lúc nào cảm xúc trong tôi cũng nửa vời. Khoảng trống trong bản thân ta lại được một người khác lấp đầy, ấy quả là một điều tuyệt diệu.

“Cậu về từ khi nào thế?” Tôi hỏi.

“Từ tuần trước,” nàng đáp. “Tớ tới đây ba lần rồi.”

“Thế à,” tôi nói. “May mà gặp được cậu.”

“Ừ, đúng thế...”

“Cậu khỏe không?” Tôi hỏi.

“Tớ khỏe,” nàng trả lời với một nụ cười có chút gượng gạo. “Yoshizawa thì sao?”

“Tớ cũng khỏe. Giờ tớ có xưởng riêng rồi.”

“Xưởng? Cậu làm gì thế?”

“Kính vạn hoa,” tôi đáp.

Gương mặt nàng bỗng sáng bừng lên. Nụ cười nàng đẹp nhất trên đời. Cái gì của nàng cũng nhất. Trò chuyện cùng nhau thế này, tôi cảm giác như lấy lại được niềm hạnh phúc đã để vuột mất trong sáu năm qua. Tôi mừng đến mức không sao kiềm chế nổi. Cái gì thế này không biết? Cảm giác như vậy đấy.

“Hay quá! Thật không?” Nàng cảm thán.

“Thật mà. Từ dạo đó tớ làm nhiều kính vạn hoa lắm. Công việc của tớ mà.”

“Tớ muốn xem quá.”

“Được. Cậu muốn xem bao nhiêu cũng được.”

“Cảm ơn cậu. Tớ mong đến lúc ấy quá.”

“Ừ. Mà cậu về đây ở luôn à?”

“Không,” nàng lắc đầu. Giọng nàng có vẻ hơi kém vui. “Tớ chỉ về đây để học thôi.”

“Học?”

“Học chụp ảnh ấy,” nàng đáp. “Khóa học sáu tháng ở trường dạy nghề.”

“Thế thì...”

“Ừ. Sau sáu tháng tớ sẽ lại về nhà.”

“Ở đâu cơ?”

“Bí mật,” nàng trả lời, “Yoshizawa vẫn liên lạc với Bác sĩ chứ gì?”

“Hả?” Tôi thốt lên đầy ngạc nhiên. Nàng chỉ cười rất vui vẻ.

“Làm sao cậu biết?”

“Tớ không biết. Nhưng kiểu gì Bác sĩ chẳng đi gặp Yoshizawa, mà gặp rồi hai người chắc chắn sẽ tâm đầu ý hợp. Nếu thế thì chắc đến giờ cậu và chú ấy vẫn liên lạc với nhau chứ, tớ đoán thế đấy.”

Siêu thật, tôi thầm nghĩ.

“Đúng thế đấy.”

“Biết ngay mà,” nàng gật đầu nói. “Bác sĩ khỏe không?”

“Vẫn khỏe.” Rồi tôi nói nàng nghe tên thị trấn nơi Bác sĩ đang ở.

“Tớ biết rồi,” nàng nói.

“Biết rồi á?”

“Ừ,” nàng gật đầu. “Bạn của mẹ nói cho biết mà.”

“Thế à...”

“Hai người ở xa nhau quá. Bác sĩ và mẹ ấy.”

“Ừ.”

Tôi không biết nàng đang ám chỉ mối quan hệ của hai người hay khoảng cách địa lý giữa họ. Có lẽ là cả hai.

“Mẹ không thể gặp Bác sĩ được nữa.” Nàng nói. “Bà bị bệnh, mẹ tớ ấy.”

“Thế à?”

“Ừ. Mẹ vốn không khỏe mạnh gì mà.”

“Thế nhưng mà...”

“Với cả, đến tuổi mẹ bây giờ thì không sinh con cho chú ấy được nữa đúng không?”

“Nhưng chuyện ấy đâu liên quan gì. Bác sĩ yêu mẹ cậu lắm kia mà?”

“Tớ biết,” nàng nói. Giọng nàng phảng phất buồn. “Nhưng chính vì thế mẹ mới nói không thể gặp Bác sĩ được nữa. Mẹ bảo nếu để chú ấy phải lãng phí cuộc đời quý báu của mình cho một người như mẹ thì mẹ thấy tội lỗi lắm.”

“Nghe kỳ quá.”

“Ừ,” nàng đáp.

“Đúng nhỉ.”

“Nhưng mà,” nàng tiếp tục và thở dài đánh thượt. Mẹ tớ là người như thế đấy...”

Con người càng khiêm nhường thì lại càng vì yêu mà đánh giá đối phương cao quá, cứ tự mặc định trong đầu rằng mình chẳng thể làm gì nhiều cho người ta... Cũng giống như bố tôi ngày trước vậy.

Cứ trơ trẽn hơn một tí có phải tốt không, tôi trộm nghĩ. Nhưng những con người kiểu đó vốn chẳng có tham vọng, suy nghĩ muốn làm gì đó cho đối phương lại vô cùng mạnh mẽ nên không thể trở nên ích kỷ. Nghe vậy chứ tính cách này cũng khá phiền phức.

“Tớ nghĩ Bác sĩ sẽ chờ mãi đấy. Vì chú ấy là người như thế mà.”

“Thế à?”

“Ừ. Tớ hiểu rõ mà. Cảm xúc của Bác sĩ ấy.”

“Thế Yoshizawa cũng vậy à?”

Hả, tôi nghĩ. “Ý cậu là sao?”

“Cậu có mãi mãi chờ đợi một ai đó giống như Bác sĩ không?”

Bất chợt tôi nhìn vào mắt nàng. Vào đôi mắt to dưới hàng mi cong vút.

Chắc hẳn đây chính là con mắt hút hồn người, tôi thầm nghĩ. Một bộ phận rất mềm ở đâu đó trong cơ thể tôi như tan chảy chút ít. Nhìn lâu quá sẽ nguy mất.

“Có thể,” tôi nói và dửng dưng nhìn qua chỗ khác. “Tớ đoán chắc tớ không phải kiểu người đó đâu.”

“Kiểu người đó?”

“Ừ. Là kiểu... chờ đợi ai đó mãi ấy.”

“Thế à,” nàng đáp. “Làm được vậy thì tuyệt thật ấy nhỉ.”

“Vậy ư?”

“Ừ, chắc chắn đấy.”

Cuối cùng nàng cũng giải thoát cho tôi và chuyển chủ đề. Nói chuyện người khác thì trơn tru là thế, vậy nhưng cứ nói về mình là lại ấp úng. Phải chăng đây cũng là biểu hiện của bản năng phòng vệ bản thân quá đà?

“Tớ thuê căn hộ ở trước ga đấy,” nàng nói. “Tại từ đó đi tàu đến trường mất có mười lăm phút thôi.”

“Thế à,” tôi đáp. “Chắc cậu háo hức lắm nhỉ.”

“Ừ, đây là món quà mẹ tặng cho tớ. Thế nên phải hưởng thụ hết mình mới được.”

“Món quà?”

“Đúng thế. Quà mừng trưởng thành đấy.”

“Ừm. Ra thế.”

“Mẹ tặng cho tớ tự do. Nửa năm tự do.”

“Nghe cứ như là...”

“Như chim trong lồng chứ gì? Thực ra lúc nào mẹ tớ cũng bảo, con cứ làm gì con thích đi. Nhưng mà,” nàng lắc đầu. “Sao tớ làm vậy được chứ? Làm sao bỏ mặc mẹ đang ốm yếu rồi tự do sống theo ý mình được?”

“Ừ,” tôi gật đầu. “Tớ hiểu cảm giác của cậu.”

“Yoshizawa cũng vậy à?” Nàng hỏi. “Cậu cũng nghĩ về bố cậu như thế à?”

“Có chứ,” tôi đáp. “Bố mẹ sinh tớ khá muộn. Bố tớ cũng có tuổi rồi. Với cả...”

“Ừ,” nàng nói. “Với cả sao cơ?”

“Ông không được bình thường cho lắm.”

“Không bình thường ư?”

“Ừ, bố tớ lập dị lắm. Suy nghĩ của ông về tiền bạc kỳ cục vô cùng... Nhiều khi ông không lấy phí sửa chữa, rồi còn đập mấy thứ đồ chính tay mình làm, cứ như thể căm ghét tiền lắm ấy.”

“Thế thì chẳng phải bố cậu là một người rất tuyệt hay sao?”

“Ừ. Nhưng trong gia đình thì cái nết ấy của bố khá phiền phức đấy. Thỉnh thoảng tớ cũng bối rối lắm. Chẳng hiểu trước mẹ tớ làm thế nào nữa? Cứ để mặc vậy thì bố sẽ gầy xọp đi. Một khi đã bắt tay vào việc thì chuyện ăn uống ông cũng thấy phiền phức, thành ra chỉ ăn ngũ cốc thôi. Cứ như trẻ con vậy.”

“Lớn tuổi rồi mà bố cậu vẫn trẻ con nhỉ?”

“Đúng rồi đấy.”

“Nhưng mà,” tôi tiếp tục. “Không thể để mặc bố được.”

“Đúng rồi,” nàng nói. “Tớ cũng vậy. Mẹ tớ là người kiên định, nhưng sức khỏe lại yếu đúng không? Thế nên... tớ nghĩ chắc đây là lần cuối rồi. Chuyện tớ được phép vòi vĩnh cũng thế. Sau đó tớ...”

“Ừ...”

“Mình dừng ở đây thôi,” nàng nói. “Không nói chuyện này nữa. Đây mới là khởi đầu thôi mà? Khởi đầu cho kỳ nghỉ của tớ ấy.”

“Thế à, ra đây là kỳ nghỉ ư?”

“Đúng rồi. Những sáu tháng đấy. Dài đến độ còn chẳng thua vĩnh cửu ấy chứ.”

“Công nhận nhỉ.”

“Này,” nàng gọi tôi. “Hiro-kun thì sao? Từ lúc ấy đến giờ có tin gì không?”

“Chẳng có gì cả,” tôi trả lời.

“Thế à.”

“Ừ. Nhưng chắc chắn cậu ấy đang sống khỏe mạnh ở đâu đó thôi. Hiroyuki là như thế mà.”

“Đúng rồi, đúng rồi nhỉ.”

“Chắc chắn luôn đấy.”

Sau đó chúng tôi cùng chụp ảnh. Kỷ niệm dịp tái ngộ.

Hai đứa đứng bên nhau, quay lưng về phía hoàng hôn.

“Quả nhiên là vậy mà,” nàng nói.

“Gì cơ?”

“Lần nào gặp Yoshizawa, hoàng hôn cũng đẹp cả...”

“Vì tớ là chàng trai hoàng hôn à?”

“Chẳng phải thế sao?”

“Nếu được vậy thì mừng quá.”

Thành thực mà nói, cái tôi muốn không phải hoàng hôn, mà là nụ cười em khi ngắm mặt trời lặn kia. Nếu tôi nói thế, biểu cảm nào sẽ hiện ra trên gương mặt nàng đây? Sẽ ra sao nếu tôi nói, khi em không ở bên, thậm chí những ngày vô vị những buổi chiều chẳng có mây cũng chẳng có mưa, chẳng có gì đặc biệt còn nhiều vô kể?

Nhưng đó là bí mật của riêng tôi. Bởi nếu thốt ra thành lời, chắc chắn ma thuật sẽ mất đi công lực.

Nàng đứng hơi xa tôi một chút. Giữa hai đứa có một khoảng cách nhỏ. Phải chăng ấy chính là khoảng cách của sáu năm qua?

Hai đứa không còn là trẻ con nữa. Bạn bè cùng lứa có người đã kết hôn. Cả hai đều phải phụng dưỡng cha mẹ, tự gánh vác kinh tế gia đình. Thế nên chúng tôi không thể tự do như trước kia được nữa. Có quá nhiều điều phải nghĩ nên bây giờ hai đứa lại càng cẩn trọng hơn.

Vậy nên tôi quyết định không hỏi nàng. Tại sao đi học nhiếp ảnh mà lại đến ở thị trấn này? (Phải chăng đơn giản vì hoài niệm?) Nửa năm nữa, nàng sẽ lại rời thị trấn, sau đó sẽ sống tiếp thế nào? (Ở đâu cũng cô đơn vò võ như vậy hay sao?) Tôi cũng cảm giác nàng có bí mật gì đó chưa thổ lộ. Tôi vừa muốn biết, lại vừa nghĩ có khi biết rồi mình chỉ buồn hơn mà thôi.

Nhưng tôi tự nhủ bây giờ nàng đang ttong kỳ nghỉ, mình chỉ cần phó mặc bản thân cho niềm vui hội ngộ là được.

Khi trời tối hẳn, chúng tôi rời tòa tháp và cùng nhau đi bộ về căn hộ của nàng.

“Yoshizawa cao lên à?” Nàng hỏi.

“Ừ,” tôi đáp. “Tầm mười phân.”

Nàng đặt tay lên trên đỉnh đầu mình, đoạn nhanh chóng dịch chuyển bàn tay lên phía trên đầu tôi.

“Chênh lệch chiều cao của bọn mình vẫn giống như lúc trước nhỉ. Không bớt đi tí nào cả.”

“Ừ nhỉ.”

“Cậu gầy đi à?”

“Tớ cũng không biết.” Tôi đáp. “Tớ chưa cân bao giờ. Ở nhà không có cân.”

“Cậu có ăn uống tử tế không thế? Có suốt ngày ăn ngũ cốc không?”

“Không đâu, không đến mức thiếu cân bằng thế. Nhưng nhà toàn đàn ông, chỉ quanh đi quẩn lại bằng ấy tiết mục. Nấu ăn với tớ đơn giản chỉ là cho nguyên liệu lên bếp, bày ra đĩa rồi chan đầy xốt lên thôi.”

“Thế thì,” nàng nói, đoạn dừng lại trong đúng một tích tắc và hỏi tôi. “Cậu đến nhà tớ không?”

Tim tôi như hụt mất một nhịp nhỏ.

“Nhà cậu á?”

“Đến căn hộ của tớ ấy. Chẳng có gì hảo hạng cả đâu nhưng tớ cũng biết nấu ăn.”

“Được không?”

“Được chứ, cậu đến đi.”

Thế nên hai đứa mua nguyên liệu cho bữa tối ở khu phố mua sắm trước ga.

Khu phố vẫn chẳng thay đổi gì so với sáu năm trước. Tựa như một lễ hội không có hồi kết. Đèn dây trang trí vài chỗ bị hỏng mất bóng, cờ của các quốc gia đã phai màu đi đôi chút, nhưng những ánh sáng lấp lánh đầy màu sắc kia vẫn làm dậy lên trong lòng chúng tôi bao cảm xúc.

Nàng đang trong kỳ nghỉ, nếu vậy thì với nàng, đây hẳn là con phố nhộn nhịp của một đất nước xa lạ kỳ thú nào dó. Nếu là bây giờ, nếu là trong giây phút này đây khi được ở cạnh nàng, tôi hoàn toàn có khả năng nghĩ được như thế. Kỳ lạ thật, chỉ cần có nàng kể bên, thế giới trong mắt tôi đã khác hẳn (nếu vậy, thế giới thực chất là nhỉ?).

Tôi và nàng ngắm nghía những món hàng qua cửa kính và trò chuyện vài câu với nhân viên cửa hàng như thể một cặp đôi trẻ tuổi đang trên đường du lịch tìm mua quà lưu niệm cho mọi người ở nhà.

Đến cửa hàng đồ điện, hai đứa dừng lại xem bản tin chiếu trên những chiếc tivi đặt trên kệ.

Bất ngờ thay, thế giới vẫn tham lam và tàn ác y như sáu năm về trước (thậm chí còn hơn thế). Các chính trị gia vẫn lấy việc khiển trách và bới móc ai đó làm chỗ dựa cho sự nghiệp của mình. Ở mọi nơi trên thế giới này, con người vẫn cần mẫn lợi dụng người khác để thỏa mãn tham vọng bản thân.

“Chẳng tử tế gì cả,” nàng thầm thì. “Chẳng tử tế gì cả,” tôi đáp lại. Rồi chúng tôi nghe thấy một giọng nói văng vẳng trong tim. “Ừ, chẳng tử tế tẹo nào cả.”

Thời điểm đó, nếu chú ý xem tin tức hơn thì có lẽ tôi cũng nhận ra tận thế đã đến rồi.

Tôi nhớ rằng mình đã nhìn lướt qua những hình ảnh đó. Ở một thị trấn nọ, bầu trời hoàn toàn bị bao bọc trong những đám mây dày đặc, suốt vài chục ngày mà chưa thấy mặt trời. Chuyện chẳng hiếm lắm, mà lại xảy ra ở một đất nước tận mạn phía Bắc nên tôi chẳng lưu tâm. Đến một chút dự cảm cũng chẳng có.

Chắc chắn mọi người xung quanh cũng như tôi (ấy là nếu tôi không phải một kẻ đặc biệt thiếu nhạy cảm). Thế nhưng, tận thế đã bắt đầu ngay từ lúc đó.

Thế gian còn chẳng hay biết đó là những đám sương mù, cứ tiếp tục phung phí quãng thời gian quý báu còn sót lại như trước nay vẫn thế.

Hai đứa mua thịt băm và trứng ở hàng thịt, sang hàng rau bên cạnh mua hành tây và bắp cải rồi rời phố mua sắm. Nàng bảo nhà vẫn còn vụn bánh mì nên không cần mua (đương nhiên, chúng tôi định làm thịt băm viên nướng, món yêu thích của tôi).

Căn hộ của nàng là kiểu nhà hai tầng có cầu thang bên ngoài khá phổ biến, nhìn mới hơn khu nhà tôi chừng năm chục năm.

“Phòng tớ ở ngay đầu tầng hai,” nàng nói và bước lên cầu thang trước tôi.

Nhìn bắp chân nàng đưa qua đưa lại ngay trước mắt là một trải nghiêm vô cùng mới mẻ đối với tôi. Trước nay tôi đã sống một cuộc đời chẳng hề có mối liên quan nào tới bắp chân phụ nữ. Đương nhiên ý tôi không nói về mỗi bắp chân.

Căn phòng diện tích hơn bảy mét vuông, có hai gian, bên cạnh lối ra vào là một căn bếp nhỏ. Đối diện bếp là toilet và bồn tắm nhựa composit.

“Phòng được nhỉ,” tôi nhận xét.

“Nhưng tiền nhà khá mắc đấy,” nàng đáp.

Chúng tôi chẳng phải con ông cháu cha giàu có, nên chẳng bao giờ thoát được khỏi vấn đề tiền nong. Để dành dụm cho kỳ nghỉ nửa năm này, không biết nàng đã phải làm việc nhiều đến thế nào?

“Cậu ngồi kia đi,” nàng nói và cởi chiếc áo cardigan ra. Tôi đi tới góc phòng và nhẹ nhàng ngồi xuống bên cửa sổ. Căn phòng thoang thoảng một mùi hương rất nữ tính, nhưng hóa ra đó chỉ là mùi chiếu tatami cũ.

Nàng đeo tạp dề và đi vào bếp.

“Cậu không cần tớ giúp gì à?” Tôi hỏi.

“Bếp chẳng rộng đến thế đâu,” nàng đáp.

“Ừ, công nhận nhỉ.”

Căn phòng thực sự trống trơn. Một chiếc bàn tròn có chân gập. Một chiếc kệ rẻ tiền màu xanh lá. Gian bên cạnh có giăng chéo một sợi dây phơi quần áo. Trên dây đang vắt một thứ đồ gì đó màu trắng, khẽ đung đưa. Túi xách và chăn nệm chắc ở trong tủ quần áo.

“Phòng chẳng có gì nhỉ,” tôi nói.

“Chỗ này chỉ để ngủ thôi,” nàng giải thích. “Ở đây vẫn rẻ hơn so với ở khách sạn. Tớ phải tiết kiệm hết mức mà.”

“Ừ, đúng thật nhỉ. Ở bên đó,” tôi hỏi nàng (bên đó ở đâu tôi không biết, nhưng tôi chẳng còn cách nói nào khác). “Cậu làm gì? Ý là... công việc ấy?”

“Nhiều lắm. Làm việc văn phòng rồi thu ngân ở siêu thị,” tiếng dao thái hành tây vọng ra từ bếp.

“Còn trường học thì sao?”

“Tớ không đi học được. Từ đợt đó, sức khỏe của mẹ yếu đi thấy rõ nên chẳng nghĩ được tới việc ấy.”

“Thế cậu đi làm từ hồi học xong cấp hai luôn à?”

“Ừ.”

“Vất vả quá nhỉ.”

“Có thể vậy nhưng... tớ có cảm giác kiểu như... không ngờ sống mà không bị ai khiển trách lại thanh thản đến thế.”

“Cậu cũng viết trong thư rồi nhỉ,” tôi tiếp tục. “Cực lắm à? Hồi cậu còn ở đây ấy.”

“Cậu đọc rồi à?” Nàng hỏi lại, gương mặt thoáng vẻ ngạc nhiên.

“Ừ,” tôi đáp. “Đọc rất cẩn thận.”

“Cảm ơn cậu,” nàng nói. “Cũng đáng công tớ dồn hết dũng khí để viết.”

“Ừ, nhờ thế mà tớ cũng không bị bối rối.”

Nàng ngại ngùng gật đầu rồi giả vờ đằng hắng.

“Ừ,” nàng tiếp tục. “Chắc cũng tùy người thôi nhưng mà... tớ chịu không nổi. Tớ không thể chịu đựng được khi thấy con người ta căm ghét ai đó từ tận đáy lòng, kể cả khi đối tượng hứng chịu không phải là mẹ tớ chăng nữa. Cảm giác như muốn hóa điên lên được ấy.”

“Ừ, tớ hiểu mà,” tôi đáp. “Cái kiểu đó cứ đáng sợ thế nào ấy nhỉ. Tớ chỉ cần nhìn người ta nổi nóng là tim đã đập liên hồi rồi.”

“Liệu bọn mình có bị ấm đầu không nhỉ?”

“Cũng có thể. Mà nếu ai cũng như bọn mình, thế giới chắc chắn sẽ khác xa hiện giờ. Có khi chẳng còn những người suốt ngày quát tháo từ sáng đến tối như ban nãy xem trên tivi nữa.”

“Cảnh tượng đấy nghe hơi siêu thực nhỉ.”

“Ừ, coi bộ vậy mà chắc nó cũng là cơn ác mộng của ai đó đấy.”

Một lúc sau, thức ăn đã sẵn sàng.

“Xong rồi nhé,” nàng tắt bếp và nói vọng ra.

“Mừng quá! Tớ đói ngấu rồi đây.”

Nàng làm món thịt băm viên nướng từ thịt bò và thịt heo xay nhuyễn, trộn thật đều với nhiều vụn bánh mì, đậm đà “hương vị mẹ nấu”. Đi kèm với món thịt là một chồng bắp cải xắt chỉ chất như núi. Tôi rưới đẫm xốt lên đĩa thức ăn.

“Cậu thích nước xốt thật đấy nhỉ?”

“Thích lắm ấy. Tớ còn chan cả lên đậu phụ ấy.”

“Thật á?”

“Thật.”

Nàng nhíu mày và khẽ lắc đầu. Biểu cảm ấy đối với tôi vô cùng mới mẻ và đáng yêu.

Không có đủ bát nhỏ cho hai người nên tôi dùng tô lớn để ăn cơm. “Bằng này được chưa?” nàng vừa hỏi vừa xới cơm cho tôi. “Ừ, một xíu nữa. Rồi, thế đủ rồi. Cảm ơn cậu,” tôi trả lời.

“Chẳng giấu gì cậu, độ này tớ chẳng có tiền nên cũng không ăn nhiều lắm.”

“Thế à?”

“Ừ.”

“Vậy cậu ngồi đây mà nạp dinh dưỡng cho đầy đủ nhé.”

“Cảm ơn cậu. Tớ ăn đây.”

“Ừ, cậu ăn đi.”

Chẳng hiểu sao, tất cả mọi điều đều làm tôi cảm động.

Được nàng xới cơm cho. Được nếm món thịt băm viên nướng chính tay nàng làm (cực kỳ ngon. Tay nghề nấu nướng của nàng rất khá). Ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn tròn, cùng nhau ăn cơm chiều. Cảm giác như vợ chồng vậy. Bữa cơm đầu tiên của cặp đôi mới cưới.

Bố tôi luôn yêu mẹ như thể đó là ngày đầu tiên hay là ngày cuối cùng vậy. Đó không phải phương cách để kéo dài cuộc hôn nhân hay gì cả, đơn giản chỉ là bố không thể yêu theo cách khác.

Mỗi ngày bố lại khám phá được một điều mới mẻ ở mẹ, mỗi lần như thế ông những muốn nhảy múa vì vui sướng và cảm kích bởi sự may mắn của bản thân. Mỗi ngày ông như được tái sinh, gặp vợ mình, rồi lại yêu bà thêm lần nữa.

Cứ liên tục như thế mười năm, hai mươi năm, bố tôi quả có chút khác với mọi người. Nhưng ông vốn lập dị trên mọi mặt nên khả năng ấy là rất cao.

Còn tôi thì sao nhỉ? Cuộc sống từ giờ trở đi bên con người này, bên người phụ nữ quá đỗi quyến rũ này...

Ăn xong, hai đứa nhâm nhi trà nóng và trò chuyện đôi chút. Thỉnh thoảng lại nghe văng vẳng ngoài cửa sổ tiếng tàu chầm chậm vào ga rồi rời đi. Ngoài âm thanh đó thì bốn bể yên tĩnh lạ thường. Thậm chí còn nghe thấy cả tiếng kim đồng hồ chạy.

“Tớ đang tìm việc làm thêm ở đây,” nàng nói. “Tuy là trường dạy nghề nhưng khóa học của tớ cũng không khác gì lớp văn hóa dành cho đối tượng không chuyên nên nhiều thời gian rảnh lắm. Không làm gì thì thành ra phí phạm.”

“Cũng có lý, nhưng cậu đang đi nghỉ kia mà?”

“Đúng thế,” nàng khẽ mỉm cười. “Nhưng đến nàng Lọ Lem cũng thế kia mà? Cả trong đêm dạ hội mà nàng vẫn làm việc tới sát giờ còn gì? Bọn mình làm gì có quyền được sống xa xỉ chứ.”

“Thế thì,” tôi nói. “Cậu đến giúp việc cho xưởng tớ đi? Đơn hàng đợt này về nhiều, hiếm lắm tớ mới bận đấy. Lần này tớ sẽ lấy tiền công nghiêm chỉnh nên lương làm thêm cũng khá đấy.”

“Thế có được không?”

“Đương nhiên rồi,” tôi đáp. “Cậu chịu làm là giúp tớ đấy. Dạo này tớ không ăn đủ bữa, các việc khác phải dời lại cũng vì mới nhận đơn hàng này. Việc chưa hoàn thành thì thậm chí đến tiền ăn còn chẳng có ấy.”

“Thật không?” Nàng hỏi.

“Thật mà.”

“Thế thì,” mặt nàng rạng rỡ hẳn lên. “Tớ cứ nuông chiều bản thân thôi nhỉ.”

“Ừ, làm thế đi. Coi như đang giúp đỡ người khác vậy.”

“Cứ như mơ ấy nhỉ.”

“Cậu cứ nói quá.”

“Tớ vẫn chưa quen,” nàng nói.

“Với gì cơ?”

“Việc hưởng thụ ấy.”

“A,” tôi nói. “Nhưng đây là kỳ nghỉ kia mà.”

“Đúng thế,” nàng đáp. “Cảm ơn cậu.”

“Ừ.”

“Giờ nghĩ lại mới thấy, những khi tớ vui vẻ lúc nào cũng có Yoshizawa ở bên.”

Ôi, tôi nghĩ thầm. Nghe nàng nói vậy, tôi chẳng thốt ra được lời nào.

“Gì thế?”

“Ừ?”

“Mặt cậu đỏ lắm.”

Tôi vội vã lấy hai tay áp lên má. Có thể cảm nhận được hơi nóng từ gò má truyền sang đầu ngón tay. Nàng bật cười.

“Này, nói thật đi, cậu làm sao thế hả?” Nàng nói vẻ đắc chí.

Chắc đang trêu tôi hay sao?

“Tớ cảm kích lắm,” nàng nói. “Này, cậu có tin không?”

“Tin gì cơ?”

“Bọn mình bây giờ ấy.”

“Là sao kia?”

“Ba hôm nay, ngày nào tớ cũng vừa bước tới tòa tháp đó vừa nghĩ: Rõ chưa hả? Đã sáu năm rồi đầy? Yoshizawa có lẽ chẳng còn ở thị trấn này nữa cũng nên. Mà kể cả vẫn ở đây thì cậu ấy cũng có cuộc đời của riêng mình, ắt hẳn đã quên nơi này từ lâu rồi. Thế nên... nhất định không được kỳ vọng gì cả. Kỳ vọng chắc chắn sẽ chỉ thêm buồn thôi...”

“Làm gì có chuyện...”

“Ừ đúng,” nàng nói. “Bọn mình đã gặp nhau kia mà. Thế nhưng cậu nghĩ xem, chuyện đó chẳng phải rất kỳ diệu hay sao?”

“Ừ,” tôi gật đầu. “Tớ cũng giật cả mình. Tại cầu được ước thấy mà.”

“Vậy Yoshizawa cũng ước à? Ước được gặp lại tớ ấy?”

“Hả? Ừ.”

“Gì thế hả?” Nàng lại vui vẻ cười. “Cảm giác như thể giữa bọn mình có một khoảng cách hơi kỳ cục ấy.”

“Làm gì có đâu,” tôi nói. “Hoàn toàn không có.”

“Thế à?”

“Ừ, một tí cũng không.”

Nàng giờ đã là một phụ nữ trưởng thành. Chỉ nhìn nàng trong vóc dáng ấy cũng làm tim tôi đập rộn lên một cách đáng ngờ. Khoảng thời gian sáu năm đã thay đổi nàng. Sự thay đổi ấy quá mạnh mẽ, làm tôi mỗi lúc một thêm ngượng ngập, không giữ nổi bình tĩnh. Những lời nói như mời gọi của nàng đã biến tôi thành một con người nhạy cảm quá độ. Tôi nghĩ rất lung để tìm cách ứng phó, mãi chẳng thốt nên lời.

“Tớ phải về đây,” tôi nói.

“Thế à?”

“Ừ.”

Chúng tôi trao đổi về lịch làm việc kể từ ngày mai rồi chào tạm biệt nhau ở lối ra vào.

“Thế nhé. Cảm ơn cậu vì bữa ăn ngon.”

“Ừ, cậu ngủ ngon nhé.”

“Ngủ ngon, mai gặp.”

“Ừ, mai gặp...”

Câu chào tạm biệt rất đỗi bình thường, nhưng cụm từ này chẳng phải rất kỳ diệu hay sao? Cứ như thể bùa chú tình yêu vậy... Bởi chỉ cần nói ra, đến ngày mai hai đứa sẽ lại được gặp nhau.

Hôm sau, nàng trở thành người làm trong xưởng của bố con tôi.

Vừa nhìn thấy mặt bố tôi, nàng bật cười.

“Cháu xin lỗi,” nàng cố nhịn cười và giải thích. “Tại cháu không ngờ Yoshizawa lại giống bố y hệt thế này.”

“Thế à?”

“Hai người chẳng cần gương đâu ạ. Đến kiểu tóc cũng giống nhau nữa. Mong bác giúp đỡ,” nàng nói và chìa tay ra trước mặt bố tôi. Ông cuống quýt chùi lấy chùi để tay vào quần và rụt rè nắm lấy bàn tay nàng.

“Mong cháu giúp đỡ...”

Giọng ông khàn đi. Ánh mắt đặt nơi cổ họng nàng, chẳng hiểu vì lẽ gì ông cứ gật đầu liên tục. Ông lẩm bẩm như độc thoại mấy câu “không phải”, rồi “ừ à” gì đó. Bỗng bố rụt tay lại, nhanh đến mức sửng sốt, điệu bộ kỳ cục. Ông vòng hai tay ra sau đầu liên tục vặn vẹo, đoạn cứ đưa cổ về phía trước trông như con gà. Dường như bố đang muốn nói điều gì đó, nhưng những nỗ lực của ông đều kết thúc trong thất bại. Rồi bố bất chợt ngừng chuyển động, cứ thế quay lưng rời phòng mà chẳng nói câu nào.

Lúc sau, khi vắng mặt nàng, ông mới thì thầm với tôi.

“Cô bé đó giống y hệt mẹ con hồi còn trẻ. Sao con không giới thiệu nó cho bố biết sớm hơn? Thật sự,” bố nói và xoa xoa má bằng những ngón tay ngắn ngủn. “Thật sự, đúng là... cái gì thế không biết...”

Ra thế, tôi vỡ lẽ. Chính bởi thế mà ban nãy bố bối rối tới vậy.

Bố nhìn thấy hình ảnh mẹ trong nàng, bản thân cũng vì thế mà ngay lập tức quay về tuổi mười lăm. Bố không thể nhìn thẳng vào mắt nàng. Chắc bởi ông hẵng còn e sợ võng mạc mình sẽ bị thiêu rụi. Đến giờ bố vẫn là ông vua chậm lớn.

Thế nhưng hình như nàng lại cảm giác mình bị xa lánh. Mà cũng dễ hiểu, nhìn kiểu cư xử ấy, ai chẳng nghĩ như vậy.

“Đáng lẽ ra tớ không được cười như thế đúng không?” Nàng có vẻ lo lắng nên tôi quyết định cho nàng biết sự thật.

“Không phải đâu,” tôi nói.

“Hả? Thế thì tại sao?”

“Bố tớ ngại đấy. Vì Shirakawa, ừm... quyến rũ quá mà.”

“Thế á?”

“Ừ. Bố bứt rứt lắm. Còn bảo tớ ‘Thôi xong rồi’ cơ. Bố rất dễ ngượng mà.”

“Thật sao?”

“Thật đấy. Lần sau ở cạnh bố tớ cậu thử nhìn kỹ mà xem. Má bố đỏ lựng ấy chứ.”

“Thế hả?” Nàng nói và cười sung sướng. “Bố cậu đáng yêu nhỉ.”

“Ừ. Trẻ con lắm luôn.”

Kể ra, đây có thể tính là một dạng phản bội, nhưng bố phải tha thứ cho tôi thôi. Tôi không giỏi nói dối, vả lại trong trường hợp này, cảm xúc của nàng quan trọng hơn. Nếu nàng có thể thoải mái làm việc ở đây, đến màu quần đùi của bố chắc tôi cũng tiết lộ được mất.

Nhưng tôi không nói ra lý do còn lại, rằng vì nàng giống mẹ. Tôi không muốn nàng nghĩ mình có phức cảm Oedipus (dù thực ra tôi cũng có kha khá phức cảm Oedipus), vả lại cũng chẳng biết liệu hai người có giống nhau thật không.

Bầu không khí bao trùm quanh mẹ và nàng quả thật có chỗ tương đồng, nhưng nếu nhìn kỹ thì giữa hai người có rất nhiều điểm khác biệt.

Da mẹ không trắng bằng nàng, tóc cũng sáng màu hơn. Mắt nàng to tròn, còn mắt mẹ người ta hay miêu tả là “con ngươi lạnh lùng”, lông mi cũng không dài bằng nàng. Cả hai đều có đôi tai to, cổ thon dài, nhưng nhìn tổng thể thì nàng toát ra vẻ hiện đại hơn (mẹ tôi nghiêng về vẻ đẹp kiểu cổ điển).

Có lẽ bố đã nắm bắt được bầu không khí toát ra từ nàng, một cử chỉ nào đó, hay thậm chí một phần sâu thẳm trong tâm hồn - trái tim hiền hậu, sự công bằng không lẫn thiển kiến - và nhìn ra ở nàng những nét giống mẹ.

Tôi cũng hiểu điều đó. Cả nàng và mẹ đều có một sở thích kỳ quặc, ấy là hỗ trợ những người đàn ông lập dị. Một kiểu phụ nữ khá hiếm hoi. Đã vậy hai người đều đẹp, nên chỉ nhìn vào điểm đó thôi đã thấy họ giống nhau rồi.

Có lẽ đứa con trai này đã thừa hưởng mắt nhìn phụ nữ của cha nó, bấy lâu nay vẫn đuổi theo hình bóng mẹ trong trạng thái vô thức cũng nên.

Nàng bật cười khi nhìn thấy bộ đồ tôi mặc trong xưởng.

“Cái gì thế hả?”

“Ừ? À, dạo này thấy trời trở lạnh ấy mà.”

“Chuyện đó tớ hiểu, nhưng tại sao lại mặc bộ đó? Đám cưới ai à?”

Tôi đang mặc chiếc áo vest đuôi tôm từ thời ông nội. Ống quần dài làm vướng víu công việc nên tôi đã cắt ngắn đi, nhưng những chỗ khác thì để nguyên không động đến. Quả nhiên người khác nhìn vào có chút kỳ lạ thật.

“Nhà tớ lúc nào cũng thế đấy. Lễ phục thành đồ đi chơi, đồ đi chơi thành đồ mặc nhà, đến cuối cùng thì thành đồ ngủ.”

“Cảm giác như thể ở đây có một dòng thời gian hoàn toàn khác vậy.”

“Có khả năng. Bộ đồ này cũng phải từ gần năm chục năm trước rồi. Nhưng chất vải tốt nên mặc thích lắm.”

“Hợp với cậu mà. Ngày nào cũng như lễ ăn mừng, cũng tốt chứ sao.”

“Ừ. Có thể.” Tôi đáp.

... Từ đó trở đi...