← Quay lại trang sách

Chương 2 (tt 2) Chúng ta ngày ấy

Chúng tôi bắt tay vào làm một chiếc đồng hồ quả lắc khổng lồ.

Đó là một chiếc đồng hồ treo tường, độ lớn ngang bằng một tấm chiếu tatami. Những đường ray làm từ dây đồng có đường kính mười lăm milimet được lắp rất công phu lên bề mặt gỗ óc chó. Vài quả bóng bằng đồng thau lăn trên đó. Đường ray được gắn ba thanh chắn, bóng lăn đến đó sẽ bị chặn lại. Ở thanh chắn đầu tiên, một quả bóng sẽ biểu thị một phút. Khi đủ mười quả dồn lại, thanh chắn sẽ bị lệch ra, bóng lăn đi liển một lúc. Chín quả sẽ chạy thẳng xuống điểm tập kết ở bên dưới, còn một quả sẽ bị chặn lại ở thanh chắn số hai. Đây là mười phút. Đủ sáu quả dổn lại ở điểm này, bóng sẽ lại lăn đi một lượt, trong đó một quả sẽ lăn tới thanh chắn số ba. Khi mười hai trái bóng tới được thanh chắn cuối cùng, lúc này tất cả bóng sẽ chạy vể điểm tập kết, vậy là nửa ngày đã trôi qua.

Những trái bóng ở điểm tập kết sẽ dần được chuyển lên phía trên cùng bằng một hệ thống trục xoay trông giống như vô số vòng đu quay nhỏ. Những vòng đu quay chuyển bóng vận hành theo cơ chế lên dây cót, nên làm chúng xoay được chính xác là một việc vô cùng khó. Ở đây ngoài bố ra chẳng ai làm được.

Chiếc đồng hồ này được thiết kế sao cho mỗi giờ chuông lại reo một lần. Có nghĩa chuông sẽ điểm khi năm trong số sáu quả bóng có giá trị tương đương mười phút lãn về điểm tập kết. Mỗi hòa âm lại biểu thị một khung giờ, chứ không đơn thuần chỉ khác nhau về số lượng tiếng chuông. Những thanh âm lên bổng xuống trâm tạo thành hợp âm, chỉ nghe là biết được giờ giấc. Người dùng cổ thể tự do thay đổi tiếng chuông, chỉ cần chọn hợp âm theo ý mình. Giả dụ hợp âm Đô trưởng cho sáu giờ sáng vui tươi sôi động hay Mi thứ man mác buồn cho năm giờ chiếu chẳng hạn.

Bố tôi từ xưa đã làm nhiều thứ nhỏ gọn và có cấu trúc đơn giản hơn chiếc đồng hồ này. Một họa sĩ giàu có đã thấy những sản phẩm chế tác của bố ở đâu đó và đặt hàng một chiếc đồng hồ để treo ở phòng vẽ.

Lần này, tôi phụ trách việc liên lạc với khách hàng. Để bố làm chắc mọi sự lại rối beng lên mất.

Phòng vẽ của họa sĩ nọ rộng đến ngỡ ngàng, trần nhà cũng cao. Một bức tường được ốp đá hoàn toàn. Tôi nghe nói những viên đá cũ kỹ đó là vật liệu đã xây nên những tòa lâu đài ở Đức hay Thụy Sĩ. Chiếc đồng hồ của bố tôi sẽ được treo lên bức tường này. Cũng không đến nỗi nào.

Tôi và nàng phụ trách phần đường ray.

Bố gia công những bộ phận chính ở xưởng của mình. Ván lót đặt ở xưởng tôi, đến sau cùng mới lắp ráp bộ phận chính bố làm vào đó.

Thế nên ở giai đoạn này, chỉ cố hai đứa làm việc với nhau. Bố tôi kể từ ngày gặp mặt luôn cẩn trọng giữ khoảng cách với nàng. Dẫu vậy ông không thể kiềm chế sự tò mò, nên nhiều lần tôi đã bắt gặp bố liếc mắt nhìn nàng từ xa. Có lẽ đến bản thân bố cũng chẳng nhận ra điều đó, nhưng quả thật ông vô cùng lộ liễu, dễ hiểu như cậu thanh niên mặt đầy mụn trứng cá vậy.

Tôi nhờ nàng cắt dây đồng. Khi dây đã được chia thành từng đoạn bằng kéo cắt kim loại, nàng sẽ dùng giũa, mài các đầu dây cho nhẵn nhụi.

Không có bản vẽ. Hai bố con tôi làm gì cũng không cần vẽ trước. Sản phẩm hoàn thiện đã có hết trong đầu. Dù cấu trúc có phức tạp chăng nữa, bố và tôi vẫn có thể hình dung nó. Có lẽ não nghệ nhân ai cũng như ai. Giống như nhân viên ngân hàng có đầu óc của nhân viên ngân hàng, kế toán có đầu óc của kế toán. Trí nhớ của bố con tôi tệ phát sợ, nhưng riêng trong công việc thì đặc điểm đó không gây nhiều bất lợi lắm.

Từ sáng, bố đã dặn tôi những việc phải làm ngày hôm đó. Lắp đường ray từ đây đến đây, chỗ này phải cong như thế. Phải dốc xuống chừng này. Sau đó tôi chuyển những số liệu đó sang đơn vị centimet và thông báo với nàng.

Tôi hàn những đoạn dây đồng đã được cắt vào ván lót để cố định chúng. Khi không tự làm một mình được, tôi nhờ nàng giữ dây hộ. Đương nhiên, hai đứa lúc đó đứng sát rạt nhau. Điều này làm tôi sung sướng vô ngần. Thế này người ta gọi là tình cảnh bất khả kháng, cảm xúc của hai đứa không liên quan gì tới hành động này cả. Dẫu vậy tôi vẫn chẳng tin được mình cổ thể cảm nhận nàng gần bên đến thế.

Với một người như tôi, đây là phương cách tiếp cận tuyệt vời nhất có thể. Chính tình cảnh ấy đã gắn kết hai đứa.

Những cá nhân như tôi và nàng thường e sợ khi trở thành đối tượng liên đới trực tiếp. Chúng tối chỉ muỗn mãi làm người ngoài cuộc. Thế nhưng khi phải lòng ai đó thì chẳng nói vậy được nữa. Khi ấy, mâu thuẫn phức tạp sẽ nảy sinh, chúng tôi sẽ vì những thôi thúc không cách nào ngăn chặn mà luôn hành động như thể đang né tránh đối phương.

Tôi nghĩ những người như vậy khó lòng nghĩ ra được chiến thuật để tìm kiếm nửa kia của đời mình. Bởi quá cẩn trọng nên đánh mất mục tiêu ban đầu. Chắc hẳn những con người đã tiến triển theo hướng này trước tôi, từ lâu đã được giải phóng khỏi sự bối rối này và lặng lẽ sống đời độc thằn.

Tôi treo tấm ván lên tường, bởi như thế sẽ tiện hơn khi muốn kiểm tra xem bóng lăn thể nào.

Nàng thấp hơn tôi hai mươi phân nên khi giữ dây đồng, nàng phải chen vào giữa tôi và tấm ván. Kiểu gì lưng nàng cũng chạm vào ngực tôi, có để ý đến mấy thì phần thân dưới của hai đứa thỉnh thoảng vẫn chạm nhau. Cảm giác như là...

Tôi nhớ tới trò Twister mình từng chơi hồi bé. Người chơi sẽ xoay kim trên vòng tròn chỉ màu, rồi đặt chân và tay lên bốn điểm màu tương ứng in trên tấm thảm. Công việc chúng tôi đang làm cũng gần giống trò chơi đó.

“Cậu giữ đường ray này nhé” hay “Đỡ trụ bên dưới giùm tớ”, mỗi lần tôi đưa ra chỉ thị, nàng lại sột soạt chuyên động giữa tôi và tấm ván.

Khi cơ thể vô tình chạm nhau, chúng tôi vẫn nói đầy khách khí, “A, xin lỗi cậu” hay “Không sao đâu”, nhưng sau đó dần dần cả tôi và nàng đều chẳng bận tâm nữa. Nhìn từ xa có khi còn nhầm tưởng hai đứa là đôi trai gái đang đùa giỡn.

Tóc nàng chạm vào mũi tôi, cảm giác buổn buổn. Mùi hương ngọt ngào ấy đến giờ vẫn không thay đổi. Ấy là môt mùi hương đáng yêu, thuần khiết, làm người ta liên tưởng tới một nữ thần mới chào đời.

Khi xong xuôi công việc, trán tôi ướt đẫm mồ hôi. Nàng nhìn tôi và cười.

“Sao ra mồ hôi thế kia?”

“Chẳng hiểu sao,” tôi đáp. “Tớ cứ thấy lo lắng thế nào

“Thế à?”

“Còn tớ thì vui,” nàng nói. “Vui cực kỳ.”

Câu nói của nàng có vẻ nhiêu ẩn ý, nhưng tôi chẳng hỏi thêm gì.

“Ừ, thế thì tốt. Mà nghỉ trưa thôi chứ hả?”

Trong lúc tập trung vào công việc, bố hầu như chẳng ăn uống đầy đủ. Thế nên tôi làm cơm nắm hay bánh mì kẹp cho bố rồi đặt trước lên bàn làm việc.

Bố thâm chí không quay qua nhìn. Có khi còn chẳng nhận ra tôi đang đứng đó. Khả năng tập trung thật đáng nể.

Tôi và nàng cùng ăn trưa. Sau đó nàng tới trường. Có hôm học sáng, có hôm đến tối mới đi. Thời gian biểu khá thoải mái.

Ngày đầu tiên, chúng tôi nghe nhạc từ chiếc đầu cassette cổ lỗ sĩ và cùng nhau ăn pasta xốt kem.

“Cái này là băng cassette à?”

“Đúng đấy. Nó ở trong nhà từ lúc tớ còn bé cơ. Cứ hỏng là bố lại sửa nên đến giờ vẫn dùng.”

“Âm thanh nghe hoài niệm nhỉ.”

“Ừ, nó cũng mệt rồi. Băng cassette cũng già đi như người thôi mà.”

Đó là bài hát yêu thích của mẹ. Ca sĩ nước ngoài hát mấy câu đại loại “Anh lại một mình, nhưng ấy là lẽ đương nhiên”, giọng nghe như cậu trai ngạt mũi. Cứ nghe bài này tôi lại nghĩ đến mẹ. Thế nên khi ở một ninh chẳng mấy khi tôi nghe, bởi nó làm tôi muốn khóc lên được.

Ăn xong vẫn còn thời gian nên tôi rủ nàng sang phòng riêng ngay bên cạnh xưởng. Tất nhiên đây là lần đầu tiên tói mời con gái vào phòng mình.

Tôi bỏ nệm ra và để nàng ngồi bên cạnh cửa sổ. Chỗ đó dễ chịu nhất phòng.

Từ cửa sổ có thể ngắm nhìn bạt ngàn sắc xanh của rặng cây đằng sau khu căn hộ, còn nghe thấy tiếng chim hót nữa. Đêm đến, ngồi đó cũng ngắm được trăng sao.

Bên khung cửa sổ có đặt vài chậu dương xỉ. Đó là con cháu của những cây dương xỉ bố mẹ từng trồng cho bài tập ở trường, nên có thể nói chúng cũng giống như anh em của tôi.

“Phòng đẹp thật đấy,” nàng nối, đoạn nhìn quanh phòng đầy hứng thú.

Những chiếc kệ được gắn lên ba bức tường. Trên đó bày bừa các sản phẩm tôi làm vì công việc hay sở thích cùng toàn thứ ba lăng nhăng không được hoàn thiện.

Con bọ ba thùy bằng gỗ uốn mình duyên dáng nhờ bánh răng và cơ cấu cam, nhạc cụ hơi tự chế tác, bức tranh sao chép nửa chừng kiệt tác của họa sĩ nổi tiếng, dụng cụ mô phỏng cầu vồng sử dụng lăng kính, một thành phổ nhỏ xỉu đặt trên lòng cuốn sách, búp bê tự động bằng đóng thau, rất nhiêu sách tranh ảnh và bách khoa thư tối mang từ nhà đi để làm tài liệu tham khảp.

... Rồi cả kính vạn hoa nữa.

Như đã hứa, tôi cho nàng xem vài chiếc tối làm từ trước đến nay.

Đầu tiên là tầc phẩm mới nhất: “Sợi Ngân Hà”. Đúng như tên gọi, chiếc kính vạn hoa này có chủ đề là vũ trụ. Rồi sử dụng nhiều lăng kính và bánh răng, làm hàng ngàn tia sáng nhỏ tắt bật tùy hứng. Đã vậy ánh sáng còn tạo thành vòng xoáy và chầm chậm thay đổi hình dạng.

“Tuyệt quá!” Nàng reo lên. “Cứ như thể đang ở giữa vũ trụ ấy. Kỳ diệu ghê.”

Tôi phập phồng cánh mũi đẫy tự hào và giải thích cho nàng vể sự phức tạp trong cấu trúc đã giúp những vì sao dịch chuyển. Tớ đã dùng mười lăm bánh răng và cơ cấu cam đấy. Đúng vậy, xong rồi nhé, minh vặn nút này một cái, cậu thấy không, màu của ánh sáng đã thay đổi rồi kìa...

Giải thích xong, tôi lại chuyên cho nàng sản phẩm tiếp theo.

Thế rồi tôi lần lượt mang hết những thứ mình làm trong quá khứ ra cho nàng xem. Nàng có vẻ hứng thú với hầu hết kính vạn hoa, nhưng “Thần khúc” có gì đó hơi khác.

“Cứ sợ sợ thế nào ấy,” nàng nói. “Tớ đã mơ thế này một lần rồi. Mơ thế giới kết thúc ấy.”

“Như thế nào cơ?”

“Sao nhỉ. Như này nhé. Sản phẩm của Yoshizawa, cái nào cũng y hệt một giấc mơ. Có cảm giác rất mơ màng.”

“Cũng có thể. Đối với tớ, kính vạn hoa là dụng cụ để mình có thể nhìn thấy nơi nào đó khác với nơi này.”

“Tớ hiểu mà. Tớ cũng hay ngắm nó lắm, máy chế tạo hoàng hôn Yoshizawa tặng ấy.”

“Thế à.”

“Ừ. Mỗi lần nhìn vào tớ lại cảm giác có gì đó rất kỳ cục. Kiểu như một con người khác trong mình thức giấc khi mình đang ngủ vậy... chắc không thể diễn tả bằng lời được. Quan trọng lắm đấy nhé. Phải có một thứ làm lòng nhẹ nhõm hơn khi bản thân sắp bị vùi lấp trong chuỗi ngày nhàm tẻ...”

“Ừ,” tôi đáp. “Mừng quá, thật đấy, không ngờ nó, chiếc kính vạn hoa đó lại được sử dụng như vậy.”

“Yoshizawa tốt bụng thật đấy. Tớ cảm giác như...”

“Hả?”

“Không có gì đâu. Chẳng hiểu sao tớ thấy lúc nào mình cũng được Yoshizawa chiều chuộng.”

“Không có,” tôi nói. “Làm gì có chuyện đó đâu.”

“Thế à?”

“Ừ, một tí cũng không.”

Nàng rời thị trấn trước khi học kỳ hai kết thúc nên không có album ảnh tốt nghiệp. Vậy nên đây là lần đầu nàng ngắm bức ảnh tập thể cả lớp chụp hồi đó.

“May là còn kịp,” nàng nói. “Nếu đi trước lúc chụp ảnh, chắc một mình tớ sẽ bị dán đâu đó trong góc khung hình mất.”

“Thế thì nản thật nhỉ.”

“Ừ. Hơi buồn nữa ấy.”

Ngắm bức ảnh chụp cả lớp trên bãi cỏ dốc xuống, nàng reo lên mừng rỡ.

“Ô, bọn mình cũng chụp tấm này nữa này!”

“Ừ.”

“Trông tớ cao thật đấy.”

“Thì cậu kiễng chân mà.”

“Kể cả thế thì nhìn vẫn rất tự nhiên mà? Trông bọn mình rất cân xứng.”

“Thế à?”

“Ừ. Bọn mình đang nhìn cùng một hướng nhĩ?”

“Ừ. Tớ cũng nhận ra điều đó.”

“Chẳng biết có gì nhỉ? Cậu nhớ không?”

“Không,” tôi đáp. “Chẳng có gì đâu. Thế mà cứ như thể bọn mình cùng nhìn một thứ vậy.”

“Đúng nhỉ, kỳ lạ thật đẩy. Không hiểu tại sao...”

Chẳng biết tự khi nào, mặt hai đứa đã sát rạt nhau.

Đã vậy, ngay ở khoảng cách ấy, tôi và nàng lại chạm mắt nhau.

Tôi vội vã nhìn xuống bức ảnh, một lát sau mới lại ngước lên.

Nàng vẫn nhìn tôi. Tim tôi đập dồn dập.

“Gì thế?” nàng hỏi.

“Không,” tôi trả lời. “Không có gì đâu.”

Nói không có gì, nhưng tôi đâu còn cách trả lời nào khác. Tinh huống phát triển quá nhanh. Tôi bối rối cúi gằm mặt xuống.

Nàng im lặng ít lâu, đoạn thở hắt ra và nói, “Thôi tớ đi đây.”

“Ừ.”

“Gặp cậu ngày mai nhé.”

“Ừ, mai gặp.”

Đương nhiên, đây là lần đầu tiên tôi ở một mình với một người con gái lâu đến như vậy. Khi ấy tôi còn nghiêm túc cho rằng, từ nay về sau chắc chắn cả đời sẽ không còn có được cơ hội này nữa.

Nàng đã nói kỳ nghỉ này là món quà mẹ tặng cho nàng. Chút tự do cuối cùng kỷ niệm dịp nàng trưởng thành. Nhưng đây cũng là món quà cuối cùng nàng trao tôi, thậm chí tôi đã nghĩ vậy.

Thực ra, tôi đã luôn cảm giác thế. ơn huệ của nữ thần. Nữ thần tình yêu đã mang đến cho tôi, một cậu thanh niên hai mươi tuổi nhút nhát, không có duyên với phụ nữ những “hổi ức thanh xuân thoáng qua”. Miễn có kỷ niệm này, cả đời tôi sễ chẳng bao giờ cô đơn nữa.

Với tôi, ký ức quá khứ cũng là một tài sản đáng giá. Phải trân trọng kỷ niệm mà sống. Nếu diệt vong và kiến tạo là hai bánh xe đang tiến về phía trước, tôi chắc hẳn là con rùa ngốc nghếch chậm chạp tự bò đi trên đôi chân mình. Bánh xe quả đúng tiện hơn thật, nhưng tôi đâu cần phải vội nên chẳng bao giờ ghen tị với những người sở hữu thứ đó.

Tiến lên phía trước một chút, ngoảnh đầu lại và nhìn đoạn đường mình vừa đi qua với ánh mắt hoài niệm, kể ra cũng không tệ lắm. “Nào đi thôi”, tự cổ vũ mình như vậy và mỉm cười bước tiếp. Với tôi, cuộc đời là vậy. Dù tốt hay xấu thi cũng chẳng thể sống theo cách nào khác. Như con cua lượng kích cỡ mai mình để đào hổ, phải không nhĩ? Đại loại vậy.

Thế nên tôi cố gắng tận hưởng hết minh. Không nghĩ ngợi gì cả. Gạt hết mọi thứ sang bên. Tôi sống trong hiện tại vì những hồi ức thanh xuân thoáng qua... Chỉ có vậy thôi.

Khoảng thời gian ở bên nàng là điếu tuyệt vời nhất xảy đến trong cuộc đời tôi. Ca khúc nhạc pop xưa cũ hai đứa cùng nghe. Sự hiện diện của nàng lấp đầy phòng làm việc. Bầu trời hoàng hôn hai đứa cùng nhau ngắm...

Trong khuôn khổ thời gian cho phép, chúng tôi thường ở bên nhau dưới chân tòa tháp mỗi buổi chiểu tà.

Nàng chụp rất nhiều ảnh hoàng hôn. Trong lúc đó, tôi cứ mải mê ngắm góc nghiêng của gương mặt nàng mãi.

Tôi những muốn hôn nàng. Lên gò má trắng trẻo ấy. Lên bờ môi mềm mại ấy (khi ấn, nút chụp, môi nàng hơi dẩu lên như đòi hôn vậy).

Nhưng tôi chẳng làm gì cả. Tôi không nghĩ ngày đó sẽ tới, đến tưởng tượng cũng đã thấy khó khăn rồi.

Đối với tôi, nàng tựa như nữ thần hay thiên sứ vậy. Một sinh vật bí ẩn, giống một câu đố vĩnh viễn không tim ta lời giải đáp. Hình bóng nàng như một ảo ảnh mà nếu ta không chăm chú nhìn, có lẽ sẽ bị một cơn gió bất chợt uốn bay đi mất...

Đương nhiên tôi cũng biết sự thực không phải vậy. Nàng chỉ là một thiếu nữ hai mươi tuổi giống tôi, mang trong mình những hoài bão và trăn trở của tuổi đôi mươi và gồng mình lên để sống. Chẳng hề có chút gì phi phàm như nữ thần trên trời. Dưới làn da trắng như tuyết ấy vẫn là dòng máu nóng, và những giọt nước mắt buồn cũng có lúc tràn bờ mi.

Thế nên suy nghĩ ấy xuất hiện trong trí tưởng tượng của riêng tôi, chắc hẳn bởi lẽ tôi đã yêu nàng. Chẳng phải yêu ai đó là vậy hay sao? Bởi yêu mà cho rằng đối phương là một người đặc biệt, cảm giác nàng là một người con gái bí ẩn hơn thực tế nhiều. Chính bởi sự tồn tại của nàng không có gì thay thế nổi, nỗi sợ mất nàng khiến tôi không sao rời mắt khỏi con người ấy được.

Trên đời cũng có những chàng trai không như vậy, có lẽ họ là số nhiêu, còn những người như tôi chắc hiếm hoi vô cùng. Tôi thần thánh hóa nàng quá đỗi nên sự non nớt trong tôi lại càng thêm trầm trọng.

Trước khi trời tối hẳn, hai đứa cùng nhau đi dạo trong rừng thông bao quanh viện điếu dưỡng. Chúng tôi tập huýt sáo, ném đá, ngồi trên xích đu ở công viên trong rừng và ngắm sao trời.

Tôi đã rất hạnh phúc. Thực sự vậy.

Mình còn muốn gì hơn thế nữa đây? Tôi vốn là người chẳng tham vọng gì nhiều nhặn, nếu trong tay có nhiều quá tôi lại thành ra bất an. Cảm giác như thể mình đã nhận quá nhiều.

Thế nên khi sự việc đó xảy ra, tôi chỉ thầm nghĩ “Biết ngay mà”. Ra vậy. Nhưng chính vì thế tôi còn yêu nàng hơn nữa. Nàng càng cách xa, cảm xúc trong tôi càng mãnh liệt, như thể ngược lại với trọng lực.

Tình cảm càng lúc càng cháy bỏng, nâng lên cùng lũy thừa bậc hai của khoảng cách.

“Sự việc đó” phát sinh khi nàng tới đây được hai tuần. Cứ vài ngày nàng lại gọi về nhà từ bốt điện thoại công cộng, nhưng cửa hàng tiện lợi có điện thoại lại cách căn hộ trước ga của nàng khá xa. Thêm nữa ở bãi đỗ xe lúc nào cũng có đám học sinh hư hỏng và mấy tay đua xe tụ tập nên về đêm hơi nguy hiểm, bởi vậy tôi bảo nàng dùng điện thoại của khu nhà tôi đang ở.

“Nó cũng giống điện thoại công cộng thôi. Cậu cho tiền vào cái hộp bên cạnh điện thoại rồi bấm số gọi. Ba phút mười yên. Có đặt đồng hồ cát ở đấy, dùng nó để tính thời gian.”

Ở khu căn hộ cũ kỹ khó tin này, người ta không thể kéo đường dây điện thoại về từng phòng được nên chúng tôi dùng chung chiếc điện thoại đen đặt ngoài hành lang. Nhưng những người thuê nhà khác hình như cũng có cách giải quyết của riêng họ, thành ra chiếc điện thoại này chỉ có bố con tôi dùng.

“Thế thì tớ xin phép,” nàng nói, kể từ đó nàng gọi điện về nhà từ khu căn hộ này.

Thỉnh thoảng lại thấy tiếng nàng nói chuyện với mẹ vọng vào từ hành lang, cách một cánh cửa nên nghe rì rầm không rõ.

Thế nên hôm đó tình cờ thay, những sự trùng hợp xúi xẻo lại nối tiếp nhau (có lẽ cũng không nói thế được, vì đằng nào cũng là chuyện tôi sẽ sớm biết).

Khi công đoạn làm việc ban tối đầu tiên đã xong, nàng nói “Tớ đi gọi điện thoại chút nhé” và rời phòng. Tôi đứng trước tấm ván, nghĩ vẩn vơ về các bước của công đoạn sắp tới.

Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy giọng nàng từ ngoài hành lang. Khác với mọi khi, hôm nay tiếng nàng nghe rất rõ.

“Vâng, mẹ ạ? Mẹ thế nào rồi? Vâng. À, vậy ạ. May quá...”

Tôi xoay lưng nhìn vể phía cửa. Một khe hở rất nhỏ lộ ra. Chắc nàng vẫn chưa đóng kín cửa.

Tôi đi ra, đặt tay lên nắm đấm và nhẹ nhàng kéo cửa vào. Cảm giác như có gì đẩy lại. Cúi xuống sàn nhà mới thấy một mẩu gỗ kẹt giữa cánh và khung cửa. “Ra là cái này...” tôi lẩm bẩm và cúi xuống nhặt mẩu gỗ lên.

Đúng lúc đó.

“... Seiji đến nhà mình ạ?”

Trong lời nàng nói có điềm chẳng lành. Chỉ nghe một câu thôi, tôi đã cảm nhận được điều gì đó. Tôi vẫn khom lưng, cả người đông cứng lại, dỏng tai lên nghe trong vô thức.

“Tại sao ạ? Không, con có liên lạc với anh ấy đâu. Tại vì... vâng, con biết vậy nhưng mà...”

Sao thế nhỉ? Lồng ngực tôi chộn rộn không nguôi. Một chút cáu kỉnh và cảm giác tội lỗi lan tỏa trong tông giọng của nàng.

“Khi nào về con sẽ nói chuyên đàng hoàng với Seiji. Không, đang nhiên chạy đến không có nghĩa là anh ấy - vâng, đúng rồi. Thế nên mẹ đừng bận tâm nữa. Vâng, vâng, vậy nên là... vâng, không sao đâu, con nói thật đấy. Con đã nói bao nhiêu lần rồi mà? Đây là chuyên con tự quyết định. Đúng vậy, cả chuyện bé Satomi nữa... vâng, đúng đấy. Con bé ngoan lắm. Nhưng gà trống nuôi con thì quả là... đúng rồi, vâng...”

Tim tôi đập rộn lên. “Đây là chuyện con tự quyết định”... tự quyết định gì cơ? Mẹ nàng có vẻ không hào hứng lắm. Từ cuộc hội thoại, tôi cảm giác bà đang nhẹ nhàng phản đối nàng. Bỗng nhiên tôi muốn ủng hộ bà.

“Con đã nói mà, không phải ngay bây giờ. Đúng không nào? Vâng, thế nên không cần phải bận tâm đến chú Nagase làm gì... Sao cơ ạ? Vâng, chuyện đó để khi nào con về hẵng tính...”

Giờ lại đến cái tên Nagase xuất hiện. Không biết là ai nhỉ?

Cuối cùng cuộc hội thoại cũng chuyển sang chủ đề khác. Tôi nhẹ nhàng mở cửa, dõi nhìn bóng nàng đứng im lìm trên hành lang. Nàng quay lưng lại phía tôi, nghiêng người dựa vai vào tường. Mỗi lần nói gì đó, mái tóc dài của nàng lại đung đưa.

Tôi thu đầu lại và đóng cửa. Loạng choạng quay về trước tấm ván, tôi chống tay lên tường để đứng cho vững và suy nghĩ.

Chuyện nàng vừa nói tôi đã hiểu đại khái. Nêu không phải người quá chậm hiểu thi ai nghe xong cũng đoán ra được. Hóa ra nàng nói “kỳ nghỉ cuối cùng” là vì thế.

Không phải ngay bây giờ, nhưng chẳng bao lâu nữa, nàng sẽ thành cô dâu của một người đàn ông tôi không quen biết.

Ngẫm mới thấy, chuyện này rất thường gặp. Hai me con họ không nơi nương tựa, nên có lẽ đây là giải pháp tối ưu. Tôi không biết tình cảm của nàng (hay tình cảm cùa anh chàng Seiji nọ) như thế nào. Những lúc thế này, tình cảm thực ra chẳng có ý nghĩa gì lắm cũng nên. Điều quan trọng là mỗi bên đều có được cái mình cần và giải quyết được vấn để trước mắt.

Tôi không thể trở thành cứu cánh của nàng.

Tôi thiếu tiền đến độ kiếm cái ăn mỗi ngày cũng đủ khó khăn, đã vậy còn phải gánh thêm ông bố lập dị đến giờ vẫn chưa quen được với cách thế giới vận hành. Chưa kể bản thân tôi cũng chông chênh chẳng khác gì bố (do di truyến cả đấy!), thế nên kể cả khi không có những vấn đề kia, chắc tôi cũng chẳng hỗ trợ cho hai mẹ con nàng được. Thực sự rất cay đắng. Nước mắt như sắp trào ra tới nơi. Bản thân tôi cũng đã có những dự cảm mơ hồ, nhưng chính tai mình nghe thế này, quả nhiên tôi chịu không thấu, cảm giác đau đớn đến cùng cực.

Nghe tiếng nàng quay lại phòng, tôi vội vã quệt mắt.

“Sao rồi?” Tôi hỏi, lưng vẫn quay lại phía nàng.

“Ừm,” nàng nói. Giọng chẳng vui mừng cũng không ảm đạm. “Mẹ tớ khỏe. Tinh hình dạo này có vẻ ổn.”

“Thế à, may quá.”

Bị thúc bách bởi khoảng im lặng dường như chẩt chứa điều gì đó, tôi hỏi nàng.

“Sao thế?”

“Hả? Sao cơ?”

“Không, chỉ là giọng cậu có hơi...”

“Thế à?”

“Ừ.”

Trống ngực tôi lại đập thình thịch. Tôi hỏi nàng những cũng sợ nàng nói ra. Tôi chẳng muốn nghe gì cả.

“Có chút chuyện,” nàng nói.

“Thế à,” tôi hỏi lại. “Chuyện gì cơ?”

Đầu gối tôi run lẩy bẩy. Tôi nhắm mắt, cắn chặt môi.

“Đại loại... mấy chuyện ở quê ấy mà. Chuyện quan hệ con người rồi đủ thứ khác...”

“Thế à?”

“Ừ. Rốt cuộc là, hình như có đi đâu thì cũng không được tự do.”

“Ừ...”

Sau đó nàng lẩm bẩm như độc thoại.

“Tớ muốn ở đây mãi cơ...”

Tôi ngẫm nghĩ một lát và hỏi nàng.

“Nhưng cậu sẽ không làm thế đâu đúng không?”

“Ừ,” nàng đáp. “Nếu làm thế, tớ sẽ không tha thứ cho bản thân được mất. Làm sao có thể xây dựng hạnh phúc của mình trên nỗi bất hạnh của người khác kia chứ?”

“Nhưng ai chẳng làm vậy?”

“Đúng thế. Nhưng bọn mình thì khác. Phải vậy không?”

Tôi quay lại nhìn nàng. Mắt nàng ướt hơn mọi khi.

“Ừ,” tôi gật đầu. “Đúng rồi, bọn mình khác.”

Có lẽ chính bởi chuyện hôm đó mà vài ngày sau, tôi làm một việc mình vốn không quen và phải gánh hậu quả.

Ban ngày, tôi nhận được cuộc gọi từ chủ phòng triển lãm đã giới thiệu công việc hiện giờ cho bố con tôi (từ chiếc điện thoại màu đen tôi đề cập bên trên). Tối đó, tôi tới gặp người họa sĩ đã đặt hàng chiếc đồng hồ. Bố mải mê tập trung vào công việc nên trong mắt chẳng còn thấy gì cả, có để ông một mình ở xưởng chắc cũng không sao. Cứ đặt sẵn bánh mì kẹp trên bàn làm việc là được. Bố tôi thích bánh mì nướng giòn rụm, hơi xém. Nhân là thịt xông khói và thật nhiều rau xà lách. Thế là ăn được rồi.

Độ hơn năm giờ chiểu, chủ phòng triển lãm đi taxi tới đón tôi. Cả đời đây là lần thứ hai tôi đi taxi (lần đầu tiên là do mẹ yếu quá, tôi đã cùng mẹ tới bệnh viện. Mẹ ghét gọi xe cấp cứu nên tôi đã chạy ra đường cái để bắt taxi).

Xe chạy mất hai mươi phút thì tới chỗ hẹn. Đó là một cửa hàng vô cùng sang trọng giữa thành phố lớn. Tôi chẳng biết tên nó là gì. Trong đó bày nhiều loại rượu, những con người hào nhoáng khoác lên người bộ cánh lộng lẫy, to giọng huênh hoang... cửa hàng đó là vậy.

Người ta dẫn tôi tới chỗ ngồi. Chiếc sofa xa xỉ hơn mức cần thiết, mùi hương của nó áp đảo tôi hoàn toàn. Chắc là do sáp thơm. Bộ sofa màu hồng hạc sáng bóng lên như bộ đồ ăn tráng men.

Họa sĩ xuất hiện sau ba mươi phút chờ đợi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh ta (hôm tôi đến xem tường phòng tranh, họa sĩ đi nước ngoài không ở nhà). Khác với những gì tôi tưởng tượng, anh ta trông giống một doanh nhân thành đạt hơn một người vẽ tranh. Vóc dáng phương phi béo tốt, mái tóc thẳng được chải chuốt chỉn chu. Gương mặt rám nắng trông rất khỏe khoắn.

Nói đến họa sĩ có tài, trong lòng tôi chỉ có Hiroyuki, nên ngay từ giây phút gặp mặt một người vẽ tranh có ngoại hình trái ngược hẳn với cậu ấy, tôi đã bắt đầu nghi ngờ thẩm mỹ của người ta.

Anh ta dắt theo hai cô gái. Tầm tuổi tôi chăng? Tôi cũng chẳng rõ nữa. Hai người trông đẹp theo kiểu hơi thiếu tự nhiên, lại giống nhau như thể sinh đôi vậy.

Họa sĩ có vẻ đang trong tâm trạng tốt, vừa ngồi xuống ghế đã hỏi luôn tiến độ công việc.

“Vẫn ổn ạ,” tôi đáp. “Xong được tám phần rồi. Chỉ còn chút nữa sẽ hoàn thành.”

“Tôi rất trông đợi đấy,” anh ta nói. “Bố cậu là người có tài. Tôi muốn tài năng của ông ấy được nhiều người biết đến hơn.”

“Thật ạ?”

“Phải,” anh ta đáp. “Thật đấy.”

“Nếu vậy thì,” tôi nói. “Ngoài chiếc đồng hồ này ra, anh còn muốn đặt hàng gì thêm không ạ?

Đây là lý do lớn nhất khiến tôi cố ép mình tới nơi này. Tôi muốn nhiều việc làm hơn nữa. Nếu có thu nhập lớn hơn hiện giờ, biết đâu tương lai của tôi và nàng lại có thay đổi gì đó thì sao. Tôi muốn trở thành cứu cánh của nàng.

“Hiện giờ thì chỉ chiếc đồng hồ đó là đủ rồi,” họa sĩ nói. “Phòng tranh có nhiều người ghé thăm lắm. Khả năng ai đó sẽ có hứng thú. Trong trường hợp đó tôi sẽ giới thiệu bên cậu cho họ.”

“Thật ạ?”

“Thật chứ.”

Nghe những lời ấy, lồng ngực tôi như căng phổng lên vì hy vọng. Đơn hàng sẽ đến tới tấp. Khi ấy tối có thể giữ nàng ở xưởng mãi, rồi thậm chí muốn đón mẹ nàng về đây cũng được...

Nhưng thực tế không được như vậy. Bố con tôi chẳng có lấy một đơn hàng, lúc nào cũng phải dè sẻn từng đồng mà sống... đúng như ý bố muốn.

Chuyên này mãi sau tôi mới biết, chẳng được đến nửa năm, anh họa sĩ nọ đã dỡ chiếc đồng hổ bố con tôi làm ra khỏi bức tường. Thay vào đó là một bức in thạch bản của một nghệ nhân anh ta rất mực quý trọng. Tác phẩm đó chắc phải đắt gấp hàng trăm lần chiếc đồng hồ của bố con tôi.

Nhưng chuyện cũng dễ hiểu thôi. Tính đồng bóng của nhà giàu là vậy mà.

Đương nhiên, tôi chẳng thể biết trước chuyện sẽ thành ra như thế. Đêm đó, tôi cư xử không giống mọi ngày chút nào, liên tục gồng mình lên để mong đối phương nghĩ tốt về mình.

Dường như họa sĩ nọ cực kỳ phấn khích khi được những người xung quanh ca ngợi. Dù lời xu nịnh không đúng trọng tâm cũng chẳng sao. Chỉ cần được người khác tâng bốc, anh ta đã thỏa mãn lắm rồi. Hai cô gái đi cùng anh ta rất giỏi việc này. Không biết chừng đó lại là nghề của họ. Chuyên gia nịnh hót chẳng hạn (nhưng cuối cùng, chẳng ai giới thiệu cho tôi biêt hai người đó làm gì). Ông chủ phòng triển lãm cũng buông những lời phỉnh nịnh một cách rất chừng mực, không làm cho người ta khó chịu, nên người kém khoản này nhất ở đây đương nhiên là tôi.

Tôi là kiểu người không thể bợ đỡ ai được.

Tôi đã ngắm tranh của anh họa sĩ kia nhiều lần, nhưng đó là những tác phẩm trừu tượng khá khó hiểu, tôi có muốn cũng không tài nào lý giải nổi. Bài phân tích có quá nhiều cụm từ chuyên môn, đọc thôi đã thấy hãi hùng. Tôi vả Hiroyuki đều theo trường phái hiện thực thuần phác. Sao chép lại nguyên si thế giới trong mắt mình. Chỉ cần vậy thôi, thế giới đã đẹp lắm rồi... giống như hai đầu gối trắng muốt vậy.

Thế nên tôi chẳng thể nói gì khác ngoài những câu vô hại, hay có thể nói là vô thưởng vô phạt.

“Anh dùng nhiều màu đỏ nhỉ”, hay “À, tôi cũng biết tác phẩm đó”, mấy câu đại loại vây. Để nói được thế, tôi cũng đã cố gắng hết sức, nghĩ lại mới thấy, thay vì ca ngợi họa sĩ nọ, tôi chỉ đơn thuẩn nêu ra những sự hiển nhiên. Trong mắt anh ta, chắc hẳn tôi là một kẻ thiếu tinh tế. Tôi không giỏi luồn lách trong đời, ắt cũng bởi dòng máu gia đình.

Có lẽ họa sĩ đó gọi tôi ra đây vì tôi với anh ta cùng nghề (sáng tạo toàn bộ. Vả lại thỉnh thoảng tôi cũng vẽ tranh), nhưng tôi chỉ là một thanh niên xoàng xĩnh với cuộc đời nhàm tẻ. Vậy nên chắc hẳn anh ta đã kỳ vọng một cậu trai như tôi đây sẽ dành một sự ngưỡng mộ ngây thơ cho những người đã thành công lớn trong cuộc sống thực, sẽ nhuộm hồng đôi má anh ta bằng những lời ghen tị khiến anh ta vui mừng và cứ thế thao thao bất tuyệt mãi.

Nhưng tôi đã hoàn toàn đi ngược lại kỳ vọng đó.

Anh họa sĩ bởi vậy mà rắp tâm giở trò ranh mãnh. Biết được tôi đã hai mươi tuổi, anh ta nói “Thế thì phải nhớ mùi rượu mới được” và ép tôi uống một ly brandy hay whiskey gì đó.

Tôi không muốn từ chối rồi làm anh ta ghét mình hơn, thế nên lần đầu tiên trong đời, tôi thử uống thứ người ta gọi là rượu. Chẳng ngon chút nào. Nói thẳng ra là dở tệ. Tôi chẳng hiểu đám người lớn nghĩ gì mà si mê nó đến thế.

Tôi cố nhấp từng ngụm một, nhưng anh ta nói “Thế không được. Phải nốc cạn trong một hơi đi chứ, một hơi thôi đấy”. Mắt anh ta cười, nhưng giọng nói chẳng hiếu sao lại có chút phẫn nộ. Hai cô gái anh ta dẫn đến vừa cười vừa vỗ tay thúc giục tôi.

Ép uổng người ta làm điều không muốn, mấy người này quá đáng thật. Mặt thì đẹp, nhưng khác xa mẹ và nàng.

Cứ thế, chẳng biết tôi đã uống mấy ly? Tôi là kiểu người không biết từ chối, nên dù có vật vã đi chăng nữa, khi bị người ta thúc ép tôi cũng cố uống tiếp. Thế rồi, bỗng nhiên tôi cảm thấy trong người rất khó chịu, mổ hôi lạnh vã ra như tắm.

Trước lúc đó, tim tôi đã đập loạn lên, phát ra âm thanh tựa tiếng máy tán đinh ở phía dưới mạng sườn. Thở cũng thấy khó khăn, lại còn buồn nôn nữa. Chưa kể cảm giác ngứa không chịu nổi chạy dọc toàn thân, làm tôi như hóa điên.

“Tôi thấy khó chịu quá...” Nghe tôi phàn nàn vậy, chủ phòng triển lãm sáp mặt lại gần tôi và thốt lên hốt hoảng.

“Mẩn nổi lên hết cả mặt rồi kìa! Cậu ổn chứ?” Ông ta hỏi.

“Không ổn lắm,” tôi đáp. Không muốn làm ai lo lẳng nên tôi cố gượng cười, nhưng mặt tôi cứng đơ, không biểu cảm được gì nữa.

Họa sĩ nọ chán nản nổi với ông chủ phòng triển lãm, “Thôi cho cậu ta đi về đi.” Chắc anh ta chán bày trò ăn hiếp tôi rồi. Thế là chủ phòng triển lãm gọi taxi chở tôi về nhà.

Khi đứng dậy và bước đi, tôi còn cảm thấy tệ hơn. Chỉ có ông chủ kia đi cùng tôi ra ngoài cửa quán. Hai cô gái đi cùng họa sĩ nhìn tôi với con mắt thờ ơ.

Lên xe rồi, tôi lại càng buồn nôn. Tôi đã cố chịu đựng nhưng được chừng mười phút thì chịu hết nổi, phải nhờ tài xế dừng xe lại. Cửa vừa mở, tôi phi ra ngoài, lao vể phía cột điện mà nôn thổc nôn tháo. Cả người run lẩy bẩy, nước mắt trào ra giàn giụa.

Cảm giác mình còn buồn nôn dài dài nên tôi cho taxi đi trước.

Nhìn theo đèn hậu của chiếc xe đang chạy xa dẩn, tôi trút một tiếng thở dài. Vẫn còn một đoạn xa nữa mới vể tới căn hộ. Bình thường thì khoảng cách đó chẳng có gì ghê gớm, nhưng với tôi bây giờ, đoạn đường ấy như trải dài vô tận.