Chương 12 CHỮA BỆNH CHO CHÍNH MÌNH
Bác sĩ D. nói rằng ông đang điều trị cho những người khác trong khi không thể chữa cho chính mình. Các vấn đề khiến bệnh nhân ông rối loạn cũng gây rối loạn cho ông y hệt. Ông có thể giải quyết vấn đề cho người khác, giúp đỡ họ,… nhưng lại không thể làm vậy cho bản thân… Ông không cảm thấy bình an từ bên trong.
Thật dễ dàng biết bao khi dùng lời nói để giúp người khác điều trị, chữa lành cho chính họ! Nhưng thật khó làm sao khi chữa cho chính mình! Để chữa cho bản thân, để có bình an bên trong, người ta phải hạ đổ các hàng rào ngăn cách mà họ đã cần mẫn xây dựng quanh mình, chẳng hạn danh vọng, lề thói giàu sang và tất cả những gì nó mang lại: bạn bè, mối quan hệ, tiếng tăm, đường học vấn thành công. Những điều tôi chỉ ra đây vị bác sĩ kia đều có hết, như chính ông đã thừa nhận. Các tính chất bề ngoài nông cạn này – tức là những lớp chồng chất của thói vị kỷ được tinh lọc – đã ngăn cản ông nhận ra sự bình an mà ông đang khát khao.
Bác sĩ D. hiểu điều tôi nói là đúng, nhưng ông thấy khó mà gạt những thứ này qua một bên: Chúng đã trở thành một phần trong bản chất của ông rồi.
Tôi chỉ ra rằng hoặc ông tiếp tục củng cố bản chất đó và tiếp tục đau khổ ngày càng nhiều hơn nữa, hoặc ông phải bắt đầu làm suy yếu nó, hóa giải nó. Điều ông đang tạo ra là một quãng tạm lắng đau buồn, một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai cuộc xung đột, một sự bình an, hay đúng ra là tình trạng mệt mỏi vì tranh đấu. Là một bác sĩ tâm thần, ông hiểu rõ rằng bình an ở nội tâm phải có được thông qua nhận thức về khả năng tự tri, không phải bằng cách kìm nén, mà thông qua sự hòa hợp. Và chính nhận thức này sinh ra thiền định.
Dĩ nhiên là bác sĩ D. chưa bao giờ thiền định. Ông biết cách tập trung tư tưởng, nhưng không phải là thiền định.
Thiền định và tập trung tư tưởng là hai thứ khác biệt. Tập trung tư tưởng là hướng vào thứ gì đó, còn thiền định là nhận thức về bản ngã, về cái “tôi” và cái “của tôi” với tất cả các nội dung và hàm ý của nó. Điều đó mang lại sự hiểu biết sinh ra từ tư duy đúng. Sự nhận thức này có tính tập trung khác với tập trung tư tưởng vào một thứ, dù cao quý tới đâu đi nữa. Một đằng mang lại sự hòa hợp nội tại sâu sắc, vượt qua những trạng thái đối lập, trong khi đằng kia gây ra tính nhị nguyên và duy trì hết mức nguyên nhân xung đột.
Phải để ông nhận thức được những suy nghĩ và cảm xúc của mình, không chọn lựa hay chọn lọc, mà chỉ đơn thuần nhận thức về chúng, dù tầm thường và hèn mọn, cao quý và trong sáng thế nào đi nữa. Khi mỗi suy nghĩ hay cảm xúc khởi lên, phải để ông suy nghĩ kỹ càng, xem xét thấu đáo suy nghĩ hay cảm xúc đó và cứ dõi theo nó. Khi dõi theo nó, ông sẽ không ngừng bị gián đoạn bởi những suy nghĩ-cảm xúc khác, và vì thế sẽ bắt đầu nhận ra rằng mình đang thiếu sự tập trung thật sự. Trong khi dõi theo nó, ông sẽ nhận ra rằng ông đang phán xét, quy kết, và do đó sẽ phát hiện ra những thành kiến, định kiến, những sự dè dặt và động cơ tiềm ẩn của mình. Trong khi dõi theo nó, ông sẽ khám phá chính mình, và sự phát hiện này thì mang tính tự do cùng sáng tạo. Do đó, ông ấy đang giải thoát tâm trí một cách có chủ ý, và trong tâm trí tự do và cởi mở đó, dù ban đầu nó có bị hạn chế thế nào đi nữa, những nội dung của tiềm thức – cái giấu mặt – sẽ được phóng chiếu ra bên ngoài. Mỗi sự phóng chiếu này phải được suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo, vì vậy được thấu hiểu, tiêu trừ, và siêu vượt. Từ sự tự tri sâu sắc này, sẽ có sự thanh tịnh của trí tuệ, một tình thương không thể đong đếm và sự nhận thức về cái tối thượng.
Tất cả điều này là một quá trình kiên nhẫn và nhẹ nhàng, cần sự tỉnh giác cao độ, một sự nhận thức đáng kể và sâu sắc.