Chương 21 CÓ PHẢI NGHIỆP CỦA ANH ẤY LÀ PHẢI CHẾT THEO CÁCH NHƯ VẬY?
M. nói rằng người anh trai mà anh thương yêu vô cùng, thậm chí còn thương hơn con cái của mình, đã bất ngờ qua đời. M. vô cùng bối rối và đau khổ trước biến cố này. Dù rất sùng đạo, nhưng anh không tìm thấy nguồn an ủi nào trong niềm tin tôn giáo của mình, bởi vì cái chết này đã làm đảo lộn tất cả kết cấu tôn giáo mà anh đã gầy dựng. M. đã đọc nhiều kinh sách của phương Đông. Có phải nghiệp của anh trai anh là phải chết theo cách như vậy, không toàn thây, tan xác trên chiến trường? Anh ấy có được một cơ hội nào khác không? Anh ấy đã lỡ mất những cơ hội lớn lao của cuộc sống rồi phải không? Tại sao anh ấy chết, trong khi chính M. lại toàn vẹn, đang sống, đang tồn tại? Anh trai của M. có đang sống ở phía bên kia, giống như một số người vẫn hay nói?
Đây là một vấn đề vô cùng phức tạp, không dễ hiểu chút nào. Niềm tin, sự xác nhận hay sự giả định chẳng có ích lợi gì mấy. Khi chịu đau khổ cùng cực, ta phải gạt qua một bên những giải pháp và phương tiện hời hợt và đừng để bị dụ dỗ tìm nguồn an ủi trong chúng, vì chúng hủy hoại hiểu biết thật sự. Chính việc trau dồi hiểu biết này sẽ giúp ta thoát khỏi nỗi đau.
Chúng ta có phải là các cá nhân? Hay chúng ta là sản phẩm của nhiều nguyên nhân mà hệ quả của chúng là tính cá nhân? Chúng ta không phải là đại chúng với suy nghĩ-cảm xúc thi thoảng mang tính cá nhân hay sao? Dù thế giới đã tự phân chia thành các quốc gia, chủng tộc, giai cấp, các nhóm kinh tế và tôn giáo, nhưng chẳng phải tất cả con người về cơ bản đều tương tự nhau – thù hận và thương yêu, tham lam và ganh tỵ, sợ hãi và quyết đoán,… hay sao? Chỉ cần suy nghĩ-cảm xúc tự đồng nhất nó với nhóm, với quốc gia, với tôn giáo,… thì chắc chắn nó không tách biệt, mà thuộc về đa số, về truyền thống, về quá khứ vô minh. Và do đó, nó bị lôi kéo vào lòng thù hận, tham lam, tính câu nệ lễ nghi và dã man của nhóm, của quốc gia, của chủng tộc. Mặc dù có những cảm giác-trí năng riêng biệt, dù bạn sống trong căn nhà riêng biệt với ít hay nhiều của cải sở hữu, với tên gọi, với danh xưng, tách biệt chính mình, thì liệu điều này làm thành tính cá nhân không? Chẳng phải bạn vẫn là đại chúng sao? Bởi vì bạn là kết quả của nhiều bộ phận cấu thành, được tạo nên từ nhiều ảnh hưởng. Chừng nào bạn còn là số đông, bạn chắc hẳn sẽ tạo nên phản ứng trái ngược của nó – tức là tính cá nhân, với tất cả niềm hy vọng, thèm muốn, niềm tin hay tín ngưỡng, phản ứng và nỗi đau tách biệt, độc nhất.
Do đó, bạn trở thành trung tâm của sự mâu thuẫn và tâm điểm này là bản ngã, cái “tôi” và cái “của tôi”, ý thức về “mình”. Liệu tâm điểm này có chút nào sự chân thật và có tồn tại lâu bền không? Không phải nó đang thay đổi hằng ngày, hằng giờ sao? Chẳng có gì vững chắc, trường cửu trong nó cả. Thế nhưng chúng ta vẫn bám víu vào nó, vào trạng thái tự mâu thuẫn vốn không tồn tại này. Bản ngã là một ảo tưởng hiện hữu nhờ sự thèm muốn. Những giày vò của sự thèm muốn làm mạnh thêm ảo tưởng, đây chính là chỗ cần phải được thấu hiểu và vượt qua để trải nghiệm cái vĩnh cửu, bất diệt. Trải nghiệm điều đó là toàn bộ những gì chúng ta cần quan tâm, bởi vì ngoài nó, chỉ còn xung đột, hỗn độn, đau khổ.
Người anh trai có đang trọn vẹn, đang sống không? Cuộc sống thế này – lo lắng, ưu tư, tham lam, xung đột, sung sướng và đau khổ vì yêu thương, vì sự bất định khủng khiếp – có gọi là viên mãn hay không? Hay đây chỉ là tồn tại? Anh có thương tiếc anh trai mình hay không, và khi thương tiếc, chẳng phải chính anh cũng ở trong tình trạng khốn khổ tương tự hay sao? Có phải anh nghĩ mình đang trọn vẹn và có phải anh gọi cuộc sống đầy xung đột, hỗn loạn, đau khổ này là viên mãn, đầy đủ? Không phải sự tồn tại như vậy là trạng thái thiếu suy nghĩ, tất yếu sẽ mang lại đau khổ và bất hạnh hay sao? Nếu nhận thức được nguyên nhân của sự đau khổ này, suy nghĩ kỹ càng và giải phóng bản thân khỏi chúng, thì anh sẽ tìm thấy một kho báu không hư hoại theo thời gian, một kho báu không thể hủy diệt.
Quá khứ kết hợp với hiện tại tạo nên ý thức về “mình”, ý thức về tính cá nhân. Tính cá nhân này có tiến trình tạo thành của riêng nó, sự tồn tại xung đột và đau khổ của riêng nó, bởi vì bản chất thật sự của nó là tự khép kín, tự giới hạn. Chính sự tồn tại của nó là cái đối lập, và cho dù cái bản ngã hão huyền này có thể cố hoàn thiện chính nó trong không-thời gian bao nhiêu đi nữa, thì nó vẫn cứ giữ nguyên hiện trạng: một trung tâm của sự thèm muốn và do đó là nguyên nhân của sự ảo tưởng. Chừng nào sự thèm muốn còn tồn tại, thì chừng đó ảo giác về sự tồn tại tách rời còn tiếp tục, với tất cả các vấn đề của nó, về sinh và tử, yêu và ghét, tiến bộ và thất bại, hiện tại và tương lai,… Bất cứ câu hỏi nào phát sinh từ ảo tưởng này chắc chắn cũng đều hão huyền, những câu trả lời cho chúng cũng vậy. Chỉ khi suy nghĩ-cảm xúc tự thoát khỏi ảo tưởng về bản ngã, vốn dĩ do suy nghĩ-cảm xúc, cảm giác-trí năng tạo ra, thì mới xuất hiện một thực tại, một niềm hạnh phúc mà tâm thức-cảm xúc bị mắc kẹt trong sự thèm muốn không thể nào lý giải được. Khi quan sát, nghiên cứu và hiểu thấu sự thèm muốn, khi nhận thức được về nó, thì một khả năng mới, ý chí mới, một sự hiểu biết mới bắt đầu hiện hữu. Chính sự thấu hiểu mới mẻ này là thứ mang lại trải nghiệm về cái tối thượng.