Chương 34 KHÓC CHO NGƯỜI SỐNG HAY NGƯỜI CHẾT?
M. N. tới trong trạng thái vô cùng xúc động. Nhưng bà nhanh chóng trấn tĩnh lại và nói rằng bà rất tiếc phải ở trong tâm trạng này, bởi vì đứa con trai của bà vừa hy sinh trong chiến tranh. M. N. giải thích rằng bà tin tưởng một cách đầy hy vọng vào sự tái sinh. Bà đã tham gia một số buổi cầu hồn và tại đó con trai bà đã hiện về dưới hình thức một thông điệp. Và bà cũng bỏ thời gian cho việc giao tiếp với vong linh thông qua chữ viết tay. Tuy nhiên, bà nói mình đã tuyệt vọng và rằng phải chăng không có cách nào thoát khỏi sự đau khổ hỗn độn này? Liệu có sự bất tử hay không?
Đây là vấn đề vô cùng phức tạp, cần suy nghĩ cẩn thận và sáng suốt, không phải là vấn đề tin hay không tin mà là vấn đề cần được khám phá. Vậy hãy cùng khám phá sự thật về nó.
Nói ra điều này nghe có vẻ tàn nhẫn, nhưng liệu bà đang khóc thương con trai mình, hay bà đang than khóc cho chính mình? Bà đang khóc thương người sống hay người chết? Nếu khóc thương cho người chết thì chúng ta phải tìm hiểu người từ trần là ai, cậu ấy đến với thế giới này như thế nào và cậu có những gì. Còn nếu khóc thương cho bản thân – tức tự thương mình, là cảm giác cô đơn tàn phá, là sự gắn bó với người khác như niềm hy vọng, như hạnh phúc của bản thân, như sự tiếp nối của chính mình – thì cần phải nghiên cứu và thấu hiểu những điều này. Bởi vì chúng chính là những thứ ngăn cản sự hiểu biết rõ ràng, sáng suốt. Chúng gây ra tăm tối và khi kéo các bức màn ngăn cách này qua một bên, mọi thứ sẽ sáng tỏ. Chẳng phải bà quan tâm đến bản thân, đến sự thương xót, tham chấp và khao khát của bà nhiều hơn sao?
Bà có đủ rộng lượng để thừa nhận chúng.
Chính những tư duy và cảm nhận tự khép kín này đã ngăn cản khả năng nhận thức rộng hơn và sâu hơn. Vì vậy, bà phải nhận ra chúng. Khi tự biết mình thì mới có sự khám phá đích thực. Đây là nhiệm vụ đầu tiên của bà, nhiệm vụ thiết yếu nhất, bởi vì khi hiểu chính mình bà sẽ hiểu được bất tử là gì.
Người từ trần là ai? Con trai của bà và con trai của một ngàn người mẹ, người cha khác. Cậu ấy là duy nhất bởi vì cậu ấy là con trai của bà và vì cậu ấy có những phẩm chất nhất định, khuynh hướng nhất định. Xét bề ngoài, cậu ấy là duy nhất. Còn xét về bên trong, cậu ấy có một hay nhiều đặc điểm tâm lý nổi trội hơn những người khác. Cậu ấy là những thực thể riêng biệt, tất cả điều đó tạo nên con trai bà.
Những thực thể này thay đổi liên tục, cái này hoặc cái khác sẽ trồi lên bề mặt. Có thứ gì lâu dài, vĩnh viễn không? Có một bản thể tâm linh tiếp tục ở lại phía sau và vượt qua sự thay đổi không ngừng này không? Và việc quả quyết rằng có thì cũng ngu muội chẳng kém gì khẳng định rằng không. Đối với vấn đề này, người ta phải tự khám phá nó. Nhưng khi chúng ta bám víu vào những thực thể khác biệt và dễ thay đổi này – như con trai tôi, mẹ tôi, tình yêu của tôi – thì chính sự nhất thời ấy sẽ ngăn cản việc khám phá và hiểu biết về điều hiện hữu. Tên gọi, hình tướng, những mối liên kết là con trai bà và cũng không phải con trai bà. Một khi tìm hiểu sâu về việc con trai mình là ai, và khi vượt qua những thứ luôn thay đổi và đang chết dần này, bà sẽ khám phá ra điều hiện hữu. Nhưng công thức hóa điều hiện hữu hoặc tin vào điều hiện hữu hay chấp nhận điều hiện hữu từ người khác thì đúng là ngu muội. Bởi vì sự chấp nhận như vậy, niềm tin như vậy, sự công thức hóa và suy xét như vậy đều cản trở việc hiểu biết về thực tại. Để nhận thức được cái vô hạn, tâm thức phải ngừng đo lường, đánh giá.
Quá khứ cùng với hiện tại tạo nên bạn và tôi. Chúng ta là kết quả của quá khứ, sự tồn tại của chúng ta là dựa trên quá khứ và quá khứ là về chúng ta. Khi quá khứ này tiếp xúc với hiện tại thì sẽ có sự biểu lộ của cá nhân. Người cha và người mẹ là sự sinh thành, là duyên cớ hiện tại đối với quá khứ mà đứa con được hình thành. Hai yếu tố này phải tồn tại để sản sinh yếu tố thứ ba, và không có hiện tại thì không có quá khứ, không có tương lai. Ý thức là quá khứ cộng với hiện tại và muốn đào sâu vào ý thức đó thì phải thông qua cánh cửa hiện tại. Thông qua hiện tại, quá khứ tăm tối và tương lai khó nắm bắt được nghiên cứu và thấu hiểu. Hiện tại là cái quan trọng tối cao, bởi vì nó là con đường dẫn tới sự vĩnh cửu. Sùng bái tương lai là ảo tưởng và tôn thờ quá khứ gây trở ngại cho hiện tại bất diệt.
Quá khứ có tính liên tục khi nó không ngừng tìm kiếm sự tạo sinh thông qua hiện tại và sự tạo sinh này chính là sự hóa thân thường xuyên lặp lại. Quá khứ và hiện tại hàm chứa những mối quan hệ nhân quả chi phối sự hiện hữu, cả ngoại tại và nội tại, cả giác quan và tâm lý. Nếu những tác động nhân quả này, cùng với những giới hạn và sự tự do của chúng, không được thấu hiểu để vượt qua, thì sẽ có sự tiếp nối hoạt động của quá khứ với hiện tại, để sản sinh ra sự hiện hữu được đồng nhất hóa với con trai tôi, chồng tôi. Và quá khứ cũng sống động như hiện tại.
Có thể hy vọng và tin tưởng rằng thông qua tính liên tục của cái “tôi” và cái “của tôi” này, thông qua một loạt sự sinh ra và chết đi, thông qua thời gian, ta có thể đạt tới sự hoàn hảo và nhận ra điều tối thượng. Có thể tin rằng mỗi lần sinh ra, mỗi thời kỳ là một cơ hội để trở nên hoàn hảo hơn, đạo đức hơn, khôn ngoan hơn. Có thể hy vọng và tin tưởng rằng thông qua sự tiến hóa theo phương ngang này, thông qua tính liên tục về thời gian, ta có thể nhận ra sự vô tận. Liệu suy nghĩ-cảm xúc được nuôi dưỡng đúng thời gian có nhận ra sự vô tận hay không? Sự đồng nhất hóa và vun bồi ký ức vô tận là gắn liền với thời gian, và làm thế nào có thể nhận ra sự vô tận nếu tư tưởng lại là nô lệ của thời gian? Trên phương ngang, tất cả suy nghĩ-cảm xúc, tất cả sự hiện hữu đều thuộc về thời gian và chỉ khi từ bỏ quá trình này thì mới nhận ra được sự vĩnh cửu. Không từ bỏ nó thì chỉ có phiền não và tất cả sự hiện hữu đều đau khổ. Bởi vì người ta tìm kiếm sự an toàn, một nơi nương tựa, một chốn ẩn náu, nên mới có sự bất an – sự bất an tạo ra từ sợ hãi. Nhưng nếu người ta hiểu được bản chất của sự hiện hữu – vốn là bất an, phiền não – thì chính tình trạng bất an đó sẽ mang lại trí tuệ đỉnh cao. Lúc đó, không có sự gắn bó – vốn là sự bảo đảm che chở trước những sợ hãi, thất vọng và đau khổ của bất an – mà chỉ là sự bung nở không ngừng của hiểu biết.
Trên phương ngang, từ bỏ hoạt động là điều khó khăn và căng thẳng nhất. Không tự biết mình, thì không có từ bỏ, và sự tự biết mình xuất hiện cùng với sự tự nhận thức của mỗi suy nghĩ-cảm xúc. Khi suy nghĩ kỹ càng và xem xét thấu đáo từng suy nghĩ-cảm xúc mang tính hồi đáp, sự tự biết mình sẽ được nuôi dưỡng và nhờ vậy xuất hiện tư duy đúng – tư duy đúng xét về công việc, mối quan hệ, sự bất tử. Nhờ tự nhận thức tỉnh giác không ngừng sẽ có tự biết mình. Yêu thương mà không tự biết mình thì sẽ đi vào con đường đau khổ. Nếu không tự biết mình sẽ không thể nhận ra sự bất diệt.