Chương 40 CHỦ NGHĨA DÂN TỘC,MỘT ĐỘC TỐ
R. J. nói rằng anh đang hoạt động chính trị để giải phóng đất nước khỏi sự đàn áp khủng khiếp và đầy chết chóc. Dù có khuynh hướng tôn giáo và từng nghiên cứu thần học, nhưng anh đã từ bỏ tất cả những thứ đó, bởi vì tiếng gọi của tổ quốc trọng đại hơn. Anh không phải là một chính trị gia đơn thuần, công việc của anh bao gồm lĩnh vực giáo dục. R. J. không có thời gian để thiền định bởi vì anh làm việc suốt cả ngày đêm vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Chẳng phải việc quan trọng trước tiên là thay đổi môi trường, hoàn cảnh, để giúp người đàn ông này tìm thấy nội tại sao? Và đó là lý do mà toàn bộ quốc gia cam kết với việc cải thiện hoàn cảnh đó.
Với việc gia tăng, lan rộng các giá trị trực quan thiên về vật chất, liệu ta sẽ có nhiều bình an và niềm vui nội tại hơn hay không? Việc nhân lên gấp bội của cải vật chất có mang lại hạnh phúc sáng tạo hay không? Liệu việc sở hữu vật chất có giải thoát suy nghĩ-cảm xúc khỏi sự lệ thuộc và nỗi đau khổ của nó hay không? Khi chú trọng vào vật chất, chẳng phải chúng ta sẽ gây nên những thảm họa, sự hung bạo tàn nhẫn và nỗi đau khổ kinh hoàng như nó đang xảy ra lúc này sao?
Ngoại tại không bao giờ chế ngự được nội tại. Ngoại tại có thể bổ sung, nhưng chính nội tại – sự tham lam, say mê, thèm muốn sức mạnh – là thứ chiến thắng ngoại tại. Khi giải thoát suy nghĩ-cảm xúc khỏi thú nhục dục, đam mê vật chất, danh vọng cá nhân và sự bất tử, ta sẽ tìm thấy ở đó một sự phong phú nội tâm, một hạnh phúc bền vững, một sự bất tử không theo kiểu tiếp nối cá nhân. Chính sự phong phú bất diệt này sẽ mang lại trật tự, sự thấu suốt cho thế giới này. Điều này không có nghĩa là chúng ta không được thay đổi các điều kiện cơ bản của con người, nhưng sự thay đổi đó tự nó không là tất cả. Việc thay đổi môi trường, thay đổi các hoàn cảnh kinh khiếp không nhất thiết tạo nên sự phong phú nội tâm, mà chỉ trong sự phong phú nội tâm mới có trạng thái sáng tạo xuất thần. Nhưng khi vun đắp cho việc giải thoát nội tại khỏi ham muốn, ác tâm và vô minh thì sẽ có một sự thay đổi cơ bản và dứt khoát trong hoàn cảnh bên ngoài. Càng nhượng bộ trước tính tham lam thì nó càng phát triển. Và cho dù các giá trị trực quan, vật chất có thể thay đổi thế nào để đổi lấy các giá trị trực quan, vật chất cao hơn, thì hành động theo thói tham lam cũng sẽ gây ra xung đột, hỗn loạn và phiền não. Nhưng khi vượt qua tính tham lam – nhờ việc này mà ta có sự phong phú nội tâm – sẽ không cần phải giải tỏa tâm lý thông qua sự cạnh tranh, đối kháng về chủng tộc, uy tín xã hội và quốc gia, thông qua chiến tranh và sự vô nghĩa của những thứ gây xao lãng. Trí tuệ là năng lực nhấn mạnh vào điều có tầm quan trọng chủ yếu. Con người đâu chỉ sống bằng bánh mì.
Hoạt động chính trị liên quan tới việc tái sắp xếp các giá trị trực quan, thiên về vật chất và như vậy, hoạt động chính trị sẽ không bao giờ mang lại trật tự, sự thông suốt, và hạnh phúc cho con người chỉ bằng cách giúp tập trung tư tưởng. Khi tư tưởng tập trung không đúng hướng, nó trở thành sự rối trí với tất cả điều vô lý và vô minh đáng sợ của nó. Lúc đó, chủ nghĩa thương mại và tính quốc gia trở thành những thứ có tầm quan trọng tối cao – bởi vì chúng đại diện cho sức mạnh của cá nhân cũng như của nhóm. Và để duy trì sức mạnh này, người ta sùng bái tổ quốc và quốc kỳ và vì nó mà con người tàn sát lẫn nhau. Chừng nào sức mạnh và giá trị trực quan, thiên về vật chất còn thống trị tư tưởng thì con người còn chống lại con người, quốc gia còn chống lại quốc gia, ý thức hệ còn chống lại ý thức hệ. Chừng nào còn có sức mạnh, thì sẽ còn sự áp bức, sẽ còn chiến tranh, còn sự hỗn loạn. Chừng nào người ta còn phụng sự tổ quốc mình thì họ còn nuôi dưỡng lòng thù hận, sự cạnh tranh và những cuộc chiến trong tương lai. Mỗi chính trị gia, bất kể màu da, đều nói rằng họ đang phụng sự cái tốt lành, vinh quang của quốc gia mình, và mầm mống của tình trạng hỗn loạn, đau khổ nằm trong chính sự phụng sự đó. Chủ nghĩa dân tộc là vinh quang tự tạo thông qua tổ quốc, thông qua chủng tộc, thông qua cộng đồng, và đó là một độc chất hủy diệt. Những người biết suy nghĩ sẽ tránh nó như tránh một chứng bệnh. Việc tôn sùng bộ phận ngăn cản sự hiểu biết về cái toàn thể. Sẽ luôn luôn có áp bức, sự tàn bạo và chiến tranh chừng nào bộ phận còn lấn át toàn thể.
Thiền định là dạng thức cao nhất của suy nghĩ-cảm xúc và không có nó thì làm sao có thể có giáo dục? Khi đó, giáo dục trở nên đậm tính thế tục và chuyên môn, vì thế, nó có tính tách biệt và chuyên chế. Do cái gọi là giáo dục này mà thế giới mới lâm vào tình trạng kinh khủng như hiện tại. Chẳng phải người có suy nghĩ sâu sắc nên cố gắng giáo dục những ai hiện đang rối trí và chìm trong phiền não bằng cách trước hết là giải thoát chính mình khỏi những nguyên nhân gây ra sự vô minh sao? Nếu không làm vậy, người có học thức sẽ trở thành một công cụ trong tay kẻ áp bức.
Một quốc gia càng lớn, càng mạnh thì càng hung bạo và chuyên chế. Và một tổ chức – dù là tôn giáo hay thế tục – càng lớn mạnh thì sức tàn phá của nó càng lớn.
Chúng ta có khả năng biến chuyển sâu sắc, nhưng khả năng này là rất xa vời nếu chúng ta cứ bận tâm tới sự thay đổi ở người khác. Vì vậy, trước tiên, chúng ta phải bắt đầu với chính mình chứ không phải với quốc gia, những người hàng xóm hay thể chế của chúng ta. Chúng ta là thế nào, thì thế giới là thế đó.